Phần 2: Bộ tiền xu Cochinchina – Indochina (1879 - 1947)
và Việt Nam Cộng Hòa (1953 - 1975),
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (1976)
Phần 3: Bộ tiền xu Trung Quốc
Ghi chú:
(Cho Phần 2 và Phần 3)
Hán tự 寶 đúc trên các đồng tiền (có khi đúc 寳 ), có nghĩa là tiền, đồng tiền, phiên âm Hán Việt là “Bảo” (âm miền Bắc) và “Bửu” (âm miền Nam). Nhiều tài liệu dùng phiên âm “Bảo”, nhiều tài liệu khác dùng phiên âm “Bủu”.
Trong Phần 2 và Phần 3 về tiền cổ bài sưu tầm này, người viết xin đồng nhất dùng phiên âm “Bảo”, là phiên âm chính thức dùng trong văn viết cũng như trong những văn bản pháp lý, tài liệu nghiên cứu, v.v...
Phần 2: Bộ tiền xu Cochinchina – Indochina (1879 - 1947)
và Việt Nam Cộng Hòa (1953 - 1975),
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (1976)
Sơ lược về tiền xu Việt Nam:
Hãy cùng nhau ôn lại lịch sử Việt Nam từ hơn 15 thế kỷ trước, từ lúc nước ta đã biết đúc tiền xu, tuy hơi dài dòng nhưng ta sẽ có được một cái nhìn tổng quát về các triều đại vua chúa Việt Nam cùng niên hiệu đúc trên các đồng tiền xu. Người viết đã dựa vào tài liệu quý báu trong quyển sách “Tiền tệ Việt Nam theo dòng lịch sử” của nhà biên khảo Phạm Thăng đã tặng cho gia đình nhạc phụ từ mấy chục năm trước để tóm lược.
1-
Năm 541, Lý Bôn đánh đuổi được quân phương Bắc lập nên nhà Tiền Lý, lên ngôi xưng là Lý Nam Đế, niên hiệu Thiên Đức, đã cho đúc “Thiên Đức Thông Bảo” 天德通寶. Đây là loại tiền đầu tiên của nước ta đánh dấu sự độc lập của nước nhà. Rất tiếc là ngày nay ta không tìm được vết tích của đồng tiền này vì năm 602 sau Tây lịch, nước ta bị nhà Đường cai trị và họ đã vơ vét hết các đồng tiền Thiên Đức Thông Bảo mang về Tàu để đúc lại, và trùng hợp một điều là bắt đầu đời nhà Đường xuất hiện tiền đúc mang hai chữ “Thông Bảo” 通寶.
Nhưng theo các nhà nghiên cứu về tiền cổ thì đồng “Thiên Đức Thông Bảo” 天德通寶là tiền Tàu do Phúc Kiến Mân Vương đúc năm 944 tại Kiếm Châu. Đến nay, vẫn chưa có câu trả lời xác đáng về “Thiên Đức Thông Bảo” là của nước ta hay ... của “nước lạ” (Ba Tàu)?
2-
Đến đời nhà Đinh (967-980) qua 2 đời vua:
- Đinh Bộ Lĩnh (968-979) niên hiệu Thái Bình
- Đinh Phế Đế (979-980)
Do nước ta bị đô hộ và tiền nước Tàu được dùng cho cả nước nên khi lên ngôi, vua Đinh Tiên Hoàng đã cho đúc “Thái Bình Hưng Bảo”, tuy thô sơ, dầy và nặng nhưng toàn dân hân hoan đón nhận.
3-
Đến đời nhà Tiền Lê (980-1009) với 3 đời vua:
- Lê Đại Hành (980-1005)
- Lê Trung Tông (1005), lên ngôi được 3 ngày thì bị em giết, soán ngôi
- Lê Long Đỉnh (1005-1009) còn gọi là vua Lê Ngoạ Triều.
Nhà Tiền Lê có để lại một loại tiền điếu mang tên “Thiên Phúc Trấn Bảo”.
4-
Qua nhà Lý trị vì 216 năm (1010-1225), qua 9 đời vua:
- Lý Thái Tổ (1010-1028), niên hiệu Thuận Thiên
- Lý Thái Tông (1028-1054)
- Lý Thánh Tông (1054-1072)
- Lý Nhân Tông (1072-1127)
- Lý Thần Tông (1128-1137)
- Lý Anh Tông (1138-1175)
- Lý Cao Tông (1202-1210)
- Lý Huệ Tông (1211-1224)
- Lý Chiêu Hoàng (1224-1225)
Thời Lý, tuy trải qua 9 đời vua, nhưng chỉ có 5 vua cho đúc tiền.
Trải qua hơn 200 năm thái bình, đồng “Thuận Thiên Đại Bảo” được đúc đầu tiên (vua Lý Thái Tổ) và tuần tự các vị vua 4 đời sau cũng cho đúc tiền mang niên hiệu của mình:
- Lý Thái Tông: Càn Phù Nguyên Bảo, Minh Đạo Thông Bảo
- Lý Nhân Tông: Thiên Phù Nguyên Bảo
- Lý Anh Tông: Đại Định Thông Bảo, Thiên Cảm Thông Bảo
- Lý Cao Tông: Thiên Tư Thông Bảo, Trị Bình Thông Bảo, Trị Bình Nguyên Bảo.
5-
Nhà Trần, 13 đời vua, trải qua 175 năm (1225-1400):
- Trần Thái Tông (1225-1258)
- Trần Thánh Tông (1258-1278)
- Trần Nhân Tông (1279-1293)
- Trần Anh Tông (1293-1314)
- Trần Minh Tông (1314-1329)
- Trần Hiến Tông (1329-1341)
- Trẩn Dụ Tông (1341-1369)
- Dương Nhật Lễ (1369-1370)
- Trần Nghệ Tông (1370-1372)
- Trần Duệ Tông (1372-1377)
- Trần Phế Đế (1377-1388)
- Trần Thuận Tông (1388-1398)
- Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Do phải lo đối phó với giặc Mông Cổ từ phương Bắc nên chỉ có các đời vua sau cho đúc tiền:
- Trần Thái Tông: Nguyên Phong Thông Bảo (1251)
- Trần Minh Tông: Khai Thái Nguyên Bảo
- Trần Dụ Tông: Thiệu Phong Binh Bảo, Thiệu Phong Nguyên Bảo (1341), Đại Trị Thông Bảo, Đại Trị Nguyên Bảo (1358).
Trong thời Trần, giá trị đồng tiền được qui định rõ:
1 tiền = 70 đồng tiền điếu
1 quan = 600 đồng tiền điếu
1 lạng vàng = 10 lạng bạc
6-
Nhà Hồ (1400-1407)
- Hồ Quý Ly (1400-1401)
- Hồ Hán Thương (1401-1407)
Thời này có phát hành “Thông Bảo Hội Sáo” ( 鈔 phiên âm “sáo”: bạc giấy, tiền giấy) năm 1396 với 9 loại khác nhau.
- Hồ Quý Ly cho đúc 3 loại tiền điếu “Thánh Nguyên Thông Bảo” có kích thước khác nhau.
- Hồ Hán Thương: Hán Nguyên Thông Bảo.
7-
Nhà Hậu Trần, 7 năm (1407-1413), trải qua 2 đời vua:
- Giản Định Đế (1407-1409)
- Trần Quý Khoách (1400-1413)
8-
Nhà Hậu Lê, 100 năm (1428-1527), trải qua 11 đời vua:
- Lê Thái Tổ (1428-1433)
- Lê Thái Tông (1434-1442)
- Lê Nhân Tông (1443-1459)
- Lê Nghi Dân (1459-1460)
- Lê Thánh Tông (1460-1497)
- Lê Hiến Tông (1497-1504)
- Lê Túc Tông (1505)
- Lê Uy Mục (1505-1509)
- Lê Tương Dực (1510-1516)
- Lê Chiêu Tông (1516-1526)
- Lê Cung Hoàng (1516-1527)
Thời này việc sử dụng tiền giấy giảm lần theo thời gian và có sự xuất hiện bạc thỏi được sử dụng cuối đời Lê, và hiện vật bằng vàng “Đoan Khánh Bửu Giám” (đời vua Lê Uy Mục).
Các đồng tiền điếu được đúc qua các đời vua:
- Vua Lê Thái Tồ: Thuận Thiên Nguyên Bảo
- Vua Lê Thái Tông: Thiệu Bình Thông Bảo, Đại Bảo Thông Bảo
- Vua Lê Nhân Tông: Thái Hòa Thông Bảo, Diên Ninh Thông Bảo
- Vua Lê Nghi Dân: Thiên Hưng Thông Bảo
- Vua Lê Thánh Tông: Quang Thuận Thông Bảo, Hồng Đức Thông Bảo
- Vua Lê Hiến Tông: Cảnh Thống Thông Bảo
- Vua Lê Uy Mục: Đoan Khánh Thông Bảo
- Vua Lê Tương Dực: Hồng Thuận Thông Bảo
- Vua Lê Chiêu Tông: Quang Thiệu Thông Bảo
- Vua Lê Cung Hoàng: Thống Nguyên Thông Bảo
9-
Thời Nam Bắc phân tranh, 255 năm (1533-1788), chia làm 3 phần
1. Bắc triều (Nhà Mạc), 152 năm (1527-167), gồm 9 đời vua:
- Thái Tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529)
- Thái Tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
- Hiến Tông Mạc Phúc Hải (1540-1546)
- Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
- Mạc Mậu Hợp (1562-1592)
- Mạc Toàn (1592)
- Mạc Kính Chỉ (1592-1593)
- Mạc Kính Cung (1593-1625)
- Mạc Kính Khoan (1623-1625)
- Mạc Kính Vũ (1638-1678)
Vì bị coi là nguỵ triều, tiền tệ đời Mạc được chép qua loa. Kỹ thuật đúc lẫn phẩm chất đồng tiền kém, nhưng tiền vẫn được lưu hành, sử dụng ở khắp cả hai miền do kinh tế sút kém và an ninh ở hai vùng.
- Mạc Đăng Dung: Minh Đức Nguyên Bảo, Minh Đức Thông Bảo
- Mạc Đăng Doanh: Đại Chính Thông Bảo
- Mạc Phúc Hải: Quang Hòa Thông Bảo
- Mạc Phúc Nguyên: Vĩnh Định Thông Bảo,Vĩnh Định Chí Bảo
- Mạc Mậu Hợp: Hồng Ninh Thông Bảo
2. Nam Triều (Nhà Hậu Lê), 256 năm (1533-1788), gồm 12 đời vua Lê và 12 chúa Trịnh:
- Vua Lê Trang Tông (1533-1788) * Chúa Trịnh Kiểm
- Vua Lê Anh Tông (1556-1573) * Chúa Trịnh Kiểm
* Chúa Trịnh Tùng (1570-1623)
- Vua Lê Thế Tông (1573-1599) * Chúa Trịnh Tùng
- Vua Lê Kính Tông (1599-1619) * Chúa Trịnh Tùng
- Vua Lê Thần Tông * Chúa Trịnh Tùng
(lần thứ nhất 1619-1643) * Chúa Trịnh Tráng
- Vua Lê Chân Tông (1644-1649) * Chúa Trịnh Tráng
- Vua Lê Thần Tông * Chúa Trịnh Tráng
(lần thứ hai 1649-1662) * Chúa Trịnh Tạc (1657-1682)
- Vua Lê Huyền Tông (1663-1671) * Chúa Trịnh Tạc
- Vua Lê Gia Tông (1672-167 * Chúa Trịnh Tạc
- Vua Lê Hy Tông (1676-1709) * Chúa Trịnh Tạc
* Chúa Trịnh Căn (1682-1709)
- Vua Lê Dụ Tông (1706-1729) * Chúa Trịnh Căn
* Chúa Trịnh Cương
- Vua Lê Đế (1729-1732) * Chúa Trịnh Cương
* Chúa Trịnh Giang (1729-1740)
- Vua Lê Thuần Tông (1732-1735) * Chúa Trịnh Giang
- Vua Lê Ý Tông (1735-1740) * Chúa Trịnh Giang
* Chúa Trịnh Doanh (1740-1767)
- Vua Lê Hiển Tông (1740-1786) * Chúa Trịnh Doanh
* Trịnh Sâm (1767-1782)
* Trịnh Căn (1782-1783)
* Trịnh Khải (1783-1786)
- Vua Lê Mẫn Đế
tức vua Lê Chiêu Thống (1786-1788) * Chúa Trịnh Bồng (1786)
3. Chúa Nguyễn ở Đàng Trong (Miền Nam), 203 năm (1600-1802), gồm có 11 đời Chúa:
- Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1600-1613)
- Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)
- Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)
- Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
- Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691)
- Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)
- Trịnh Vương Nguyễn Phúc Trú (1725-1738)
- Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)
- Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777)
- Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương (1776-1777)
- Chúa Nguyễn Phúc Ánh (1778-1802)
Các Chúa Nguyễn vẫn tôn thờ vua Lê như triều đại chính thống nên không đặt niên hiệu riêng và đúc tiền mang tên mình.
Suốt hai trăm năm trị vì, việc trao đổi, buôn bán với Đàng Ngoài, thương buôn nước ngoài, các Chúa Nguyễn đều dùng tiền vua Lê, tiền Tàu và tiền nước ngoài (Mễ-Tây-Cơ). Các Chúa Nguyễn khi nối ngôi cũng có đúc tiền đều mang tên “Thái Bình Thông Bảo” 太平通寶, tiền đúc nhỏ hơn tiền Tàu và tiền vua Lê. Chữ “Thái Bình” 太平 không phải là niên hiệu của vua mà mang ý nghĩa cầu chúc tốt đẹp.
Đến thời Nguyễn Phúc Khoát, do chiến tranh và buôn bán với nuớc ngoài càng nhiều, nhiều loại tiền kẽm (bạch diên = thiết trắng xuất hiện. Tiền kẽm thua xa tiền đồng nên người dân chuộng xài và giữ tiền quan hơn.
Do nội chiến giữa Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn và Tây Sơn và việc “loạn tiền kẽm”, các thương nhân chuộng và giữ tiền bằng bạc của Mễ-Tây-Cơ (Mexico) hơn, còn gọi là “Bạc con cò”.
10-
Nhà Tây Sơn, 15 năm (1786-1802), gồm 3 đời vua:
- Thái Đức Nguyễn Nhạc (1786-1793) có đúc “Thái Đức Thông Bảo”