Bảy giờ sáng, ngày mồng ba. Trong lúc các cành mai sắc thắm chưa tàn, các chai rượu quốc doanh chưa cạn và các gói thuốc lá Vàm-Cỏ chưa vơi thì Đức và Trâm đã có mặt ở bến xe đò miền đông. Như mọi bến xe Sài-Gòn, bến xe miền đông nhộn nhịp hành khách không ai chú ý đến ai, rác rưởi vương vãi đầy bến không người quét. Xác pháo đầy trên mặt đất, vỏ dưa hấu quăng tứ tung. Trời tháng giêng mát mẻ nhưng mùi đống rác vẫn quanh quẩn không bay đi được; trận mưa rào trút xuống đêm qua làm đọng mấy vũng nước ruồi nhặng bay lên mỗi lúc bước chân người đi qua.

Nhưng trong lòng hồi hộp, Đức còn đầu óc nào mà nghĩ đến điều chi phiền muộn. Bước lên xe, chàng và Trâm trong bộ quần áo mới như đi chơi Tết vì người ta đã dặn rằng cả nhóm sẽ đóng vai đoàn người đi dự đám cưới. Cái áo sơ mi xanh và chiếc quần polyester đậm là bộ đồ chiến nhất của chàng, chỉ được đem ra diện trong những ngày quan trọng. Trâm cũng mặc chiếc áo màu đỏ cherry với quần tây đen ống rộng nom rất mốt. Đức không đem theo gì ngoài cái bóp nhỏ đựng ít giấy tờ, còn Trâm mang theo túi xách có vài viên thuốc nhức đầu và hình như có cả vài khoanh củ sâm phơi khô sắt lát. Đến tám giờ chiếc xe đò chật kín người bắt đầu chuyển bánh, những thúng mủng treo kín quanh xe lắc lư, tiếng người cười nói cãi cọ ồn ào, tiếng trẻ con khóc inh ỏi hòa với tiếng máy xe bình bình phun khói. Nhìn Trâm mặt ngơ ngác lo sợ, Đức cũng nghe nỗi xốn xang nhưng chàng cố mỉm cười trấn an người yêu. Đi ngang qua chợ Bà Chiểu, xe ngừng lại ba mươi phút để chờ khách lên xuống. Tiếng pháo mồng ba thỉnh thoảng đì đẹt nổ. Vào ngồi trong quán nước chàng chợt trông thấy hai người bạn Chương và Giao Trì chở nhau trên Honda chạy ngang qua. Chàng cúi đầu xuống để Chương khỏi nhận ra. Không muốn gặp người quen nào sáng nay cả. Không muốn ai hỏi han, thắc mắc hay chèo kéo. Đức đang lo lắm.

Vì sáng nay, đôi bạn đang trên đường ra bãi xuống ghe thuyền để đi vượt biên. Mồng ba tết công an chắc còn đang lo ăn nhậu, khởi hành bữa đó nhiều cơ may lọt thoát, người ta bảo vậy.

Chuyến này bà chị cả của Đức đã sửa soạn từ tháng trước cho chồng và hai con trai của chị ra đi. Anh Quang vừa có cái giấy phép được ra tạm của trại giam với lý do “về thăm con đau nặng” sau khi chị Hòa lo liệu mấy chỉ vàng cho ban giám-thị trại vì từ năm ngoái anh Quang đã vào tù về tội tổ chức vượt biên. Anh bị bắt giam, hàng ngày đi chặt gỗ khiêng tre với các bạn tù, cái bụng la-de tròn quay lúc trước của anh bây giờ đã thóp lại vì thiếu ăn. Chị Hòa, người chị đảm đang của Đức, cứ hai tuần lại xách túi thăm nuôi mang theo đường, ruốc, thuốc thang đi tiếp tế. Và chị quyết định sẽ lo cho chồng vượt biên lần nữa. Lần này phải thành công vì anh Quang đang ở tù đã được giấy phép ra tạm mà lại còn dám trốn để vượt biên, nếu bị bắt thì chỉ có nước chết. Nguyên tội này vào tù cũng đủ bị “giã” cho no đòn, cho nên phải thật chắc ăn. Nhưng, ai mà biết trước điều gì sẽ xảy ra được ? Ai dám nói là chuyến mình đi sẽ trót lọt ...

Tưởng rằng số người đi chỉ gồm ba bố con anh Quang, không ngờ hôm qua sau khi ăn xong bữa cơm chiều chị Hòa kéo Đức ra ngoài phòng khách ấn thằng em trai ngồi xuống ghế rồi hạ thấp giọng :

- Sáng mai chị lo cho anh Quang với thằng Việt thằng Phong đi đấy. Mỗi người lớn một vé, trẻ con nửa vé. Chị hãy còn một vé móc nối khách nên người ta cho thêm, em có muốn đi không ? Nếu mày không đi thì chị bán chỗ vé này cho người khác, đã có người trả một cây rưỡi rồi đấy.

- Chỉ có mình em đi thôi hả… Trâm có đi được không ?

- Không, chị hết tiền rồi, lo được cho mỗi mình mày thôi. Tùy em đấy. Cứ suy nghĩ đi ....

Chàng im lặng một giây, rồi mím môi quả quyết:

- Em không bỏ Trâm ở lại một mình đâu.

- Làm cách nào mày đưa nó đi được ?

- Để tính sau. Bây giờ em chưa biết...

Chị Hòa nhìn Đức giọng nhỏ lại: “Làm sao thì làm. Chị chỉ lo được chừng ấy thôi”. Rồi chị bước ra phía sau nhà.

Đức nhìn lên bàn thờ, hình ông nội bên cạnh là cái bánh chưng và quả dưa hấu, lại có thêm một bánh pháo Từ-Châu. Dù sa sút năm nào gia đình chàng cũng vẫn phải có ba thứ ấy để trên bàn thờ, một thói quen từ ngày vào Nam không bao giờ thiếu sót. Nhìn ra cửa sổ, giàn bông giấy đỏ thắm đang nở đầy hoa che rợp cái cổng gỗ xiêu vẹo. Chợt nghĩ đến Trâm, nghĩ đến mái tóc đen huyền mượt mà phủ trên bờ vai thon nhỏ, hình dung ra khuôn mặt ngây thơ, hình dung ra đôi mắt nhung với hàng mi dài ướt đẫm khi nghe tin Đức lặng lẽ ra đi. Không, chàng không bỏ Trâm ở lại được. Nhưng bằng cách nào, lấy gì đưa Trâm đi ? Vàng vay mượn ở đâu ra bây giờ ? Lượng cuối cùng của gia đình Trâm đã bị mất trộm ngay trong nhà, chỉ vì bất cẩn. Chính bản thân chàng cũng đang nợ một cây từ chuyến đi thất bại năm ngoái cùng với gia đình anh Quang, cứ vài ngày chủ nợ lại đến đòi thúc bách, cả nhà phải ngồi nghe những lời chì chiết cay độc từ một kẻ trước kia từng thân thiết như ruột thịt. Cũng chẳng trách người ta được. Đồng tiền liền khúc ruột, có thân thiết đến đâu hễ mượn thì cũng phải trả. Nhưng, lấy đâu ra mà trả ? Đã nghĩ đến chuyện bán đi chiếc xe đạp, tài sản và phương tiện di chuyển hàng ngày duy nhất của chàng, nhưng khi đi hỏi giá thì cái xe “cuộc” chỉ được trả hơn một chỉ vàng. Được có một chỉ để trả nợ thì nào ăn thua gì ? Vẫn còn nợ chín chỉ; tức là còn nguyên không suy suyển gì cả mà lại mất chân đi. Cho nên ý định bán xe Đức đành phải bỏ.

Còn công việc làm ăn của chị Hòa bây giờ đã đến hồi xuống dốc. Thị trường vàng và đô-la ở chợ Thủ Khoa Huân đang bị càn quét, bạn hàng ít ai dám ra ngồi sạp. Riêng chị Hòa bị công an để ý kỹ lưỡng vì có chồng đi tù nên việc bán buôn hàng họ càng thêm ế ẩm. Cả năm nay nguyên gia đình Đức sống khá bết bát, các khoản tiêu xài nhu yếu đều phải cắt giảm. Không khí trong gia đình ảm đạm. Chàng cũng chẳng giúp gì được cho chị mình. Cái mảnh bằng kỹ-sư chết tiệt làm cho công-ty sản-xuất xà-bông mang về mỗi tháng trăm hai, chỉ vừa đủ cho Đức một ly cà phê buổi sáng. Trâm cũng thế, lương nhân viên trăm đồng một tháng của nàng cũng chỉ mua được mươi tô cháo huyết hoặc mười lăm ký gạo. Do đó Đức đã thôi không còn nghĩ đến chuyện vượt biên, đã chôn vơi giấc mộng thuyền bè vì biết tình hình tài chánh gia đình đã suy sụp. Bây giờ là 1982, cao điểm của những chuyến đi đã qua lâu rồi từ mấy năm trước. Mấy năm trước, tuy-ô bán chính thức tức là những chuyến đi ồ ạt bằng tàu lớn của Hoa kiều vào hồi 78-79-80 từ từ thưa dần và đã chấm dứt cả năm nay. Số vàng của Hoa kiều trên thị trường đã cạn kiệt, vì khan hiếm nên giá vàng lúc này lên thật cao. Các tay tổ chức vượt biên không còn có thể hét giá bảy tám cây một đầu người như trược được nữa. Giờ này một cây hay vài chỉ, thậm chí vài phân cũng đã là cả gia tài; đã là con số không tưởng cho những người đi làm công sở như Đức.

Buổi tối chậm kéo về. Ra ban-công căn gác gỗ nhìn lên bầu trời đen thẫm lốm đốm ánh sao, lòng chàng rối như tơ vò. Ngọn gió lành lạnh đầu năm thổi qua chòm bông giấy nghe xào xạc. Bóng lá của vòm cây mận tối sẫm in lên nền trời xám, thoảng phảng phất mùi hương từ những chùm hoa mận trăng trắng thơm thơm. Tiếng mèo hoang tru tréo trên mái tôn nghe văng vẳng, tiếng nhạc vàng khe khẽ từ bên nhà hàng xóm mở lén vọng sang. Bao nhiêu ý nghĩ hiện ra hỗn độn trong tâm trí. Chợt nhớ về tuổi trẻ, về thời đại học Khoa Học vừa trôi qua – Đức bâng khuâng ngồi ôn một quãng đời ngắn ngủi.

Nhớ lại ba năm trước, ngày đầu tiên chàng sinh viên sắp ra trường đến làm quen với Trâm trong căn nhà đường Bà Hạt. Buổi tối hôm ấy nhìn Trâm mặc chiếc áo thun màu nâu sọc ngang ôm sát thân hình thon gọn mái tóc mềm óng mượt, khuôn mặt dễ thương như búp bê làm Đức tự nhủ “Sao mình ở vùng Lý Thái Tổ - Nguyễn Tri Phương đã mấy năm mà chưa hề nom thấy cô bé này?”. Còn Trâm, bước xuống thang lầu vừa trông thấy Đức đôi mắt long lanh kia đã chớp nhanh vừa tò mò vừa hồi hộp. Bối rối và ngại ngùng. E thẹn và bỡ ngỡ. Chả nhớ cái lần đầu tiên ấy Đức đã nói những câu chuyện nào với Trâm, chỉ nhớ mang máng chàng đã bông đùa điều gì đó làm cho cái miệng lo âu ngượng nghịu kia sau cùng phải nở ra búp nụ có chiếc răng khểnh. Và khi vừa nhìn nụ cười của Trâm, là trái tim chàng chừng như đã bị xô ngã ngay dưới chân con sóng biển êm đềm.

Thế là sau hôm đó, Đức gã con trai quê Xóm-Mới lên Sài-Gòn đi học đi làm, đang vô tư lự bỗng nhiên mắc phải một hội-chứng chung thân mãn tính chắc dù có uống bao nhiêu tây dược đông thảo hay chữa chạy theo phương pháp khoa học gì cũng sẽ không khỏi bệnh. Sau này khi ngồi suy ngẫm lại gã mới nhận ra đó chính là hội-chứng “phải lòng” : gã đã phải lòng người con gái tóc thề ở đường Bà-Hạt, một căn bệnh trầm luân đeo đẳng bền lâu có lẽ cho đến mãn kiếp trọn đời.

Những ngày tháng kế tiếp là quãng thời gian đẹp đẽ nhất của cuộc đời chàng. Buổi chiều Đức thường chờ Trâm trước cổng trường Tài-Chánh để đón nàng đi ngồi bên ly cocktail hay chén nhãn nhục hột é. Buổi tối ở nhà Trâm thường có tiếng đàn guitar và tiếng hát vang lên trong các ca khúc nhạc Trịnh, nhạc Phạm. Những hôm Chủ-nhật lang thang hè phố Lê-Lợi hoặc Nguyễn-Huệ sau xuất xi-nê ở Eden hay Rex, hôm nào có tí tiền còm thì chơi sang ghé vào quán Brodard hay chè Hiển-Khánh. Nhiều buổi chiều bên nhau trong Thảo-Cầm-Viên hay Tao-Đàn có Trâm thường ngồi trên ghế đá dựa vai Đức hai kẻ dõi mắt ngẩng nhìn những cánh chim về tổ trên các tàn cây cao vút và tưởng tượng sẽ một ngày duyên thắm dài lâu, có tiếng cười đùa trong mái nhà đơn sơ, có hai tấm lòng ngập yêu thương cùng vui hưởng chuỗi ngày tươi mầu hạnh phúc.

Trước khi quen Trâm, Đức như một kẻ chỉ xem ái tình là một trò chơi thú vị. Những mối tình chóng đến và vội đi, những khuôn mặt thoáng qua vừa bùng lên rồi biến ngay như những cơn bão chết yểu trong lòng biển cả. Nhìn lại, chàng thấy mình chỉ rong chơi không hề nghĩ đến chuyện tương lai. Chàng chỉ muốn đem nỗi lãng mạn của những mối duyên hờ ấy làm chất liệu cho tâm hồn lạc vào mộng mị với những phút say mê để quên đi thực tại cuộc sống. Vì, chàng luôn luôn thấy lòng mình thay đổi ngay giây phút chuyến phiêu lưu tìm kiếm kết thúc; và chỉ còn lại tâm trạng chán chường pha lẫn buồn rầu và bất nhẫn.

Nhưng bây giờ thì khác. Trâm thơ ngây đi nhẹ vào đời chàng, bước chân vang lên tiếng nhạc dịu dàng như tiếng hài thêu; như tà áo trắng trinh nguyên chưa hề gợn chút bụi nhân gian chưa hề vương chút sầu trần thế. Đôi khi Đức tự hỏi Trâm có gì làm chàng thay đổi từ một cánh bướm chỉ biết vờn hoa, dần trở nên một kẻ trưởng thành với ý thức tự nguyện sẽ làm hai bờ vai vĩnh viễn cho Trâm gối ấp nghỉ ngơi, làm đôi cánh tay dìu Trâm đi suốt khắp nẻo đường đời xa tít.

Đến cuối năm 1980, Đức chở mẹ chàng đến nhà xin hỏi Trâm. Trước khi đi, Đức dặn đi dặn lại người mẹ quê mùa của chàng một người đàn bà xưa nay chưa một lần nào phải “đi ăn đi nói” trong những dịp lễ nghi trịnh trọng.

- Mẹ nhớ nhé. Gặp má của Trâm, khi người ta mời ngồi uống nước trà xong mẹ chỉ việc lên tiếng “Thưa bà, hôm nay ngày lành tháng tốt tôi đến xin phép bà tháng sau sẽ đem trầu cau đến hỏi cháu Trâm nhà bà cho cháu Đức nhà tôi”. Bây giờ mẹ thử đọc lại câu ấy con xem mẹ nhớ thuộc lòng chưa ?

- Tao nhớ rồi, nhẩm mãi thuộc rồi.

- Thì mẹ hẵng cứ đọc lại xem nào, nhỡ quên thì sao.

- Đây này: ““Hôm nay ngày lành tháng tốt tôi đến xin phép bà tháng sau sẽ đem giầu cau đến hỏi cái Trâm nhà bà cho thằng Đức nhà tôi”.

Đức giẫy nẩy:

- Sao lại chẳng thưa gửi gì cả. “Trầu” mà mẹ bảo “giầu”, “cháu” mẹ lại đổi thành “cái” với “thằng” thì nghe làm sao được ?

Mẹ chàng chửi ngay:

- Tiên sư nhà mày, tao nói thế nào mặc tao, chỉ hay bắt bẻ. Mày lấy vợ chứ tao lấy à ?

Đức cười:

- Con đọc làm sao thì mẹ cứ làm y như vậy dùm con đi…. Rồi khi má Trâm nói “Chúng tôi cảm ơn bà có lòng thương yêu các cháu. Vâng thưa bà ngày nào bà định làm đám hỏi cho hai cháu ?” thì mẹ trả lời như thế nào nào ?

- Sư mày. Tao bảo “Thưa bà chúng tôi sẽ đến đây lúc mười giờ sáng Chủ Nhật ngày bảy tháng mười một”. Có vậy mà cũng hạch mãi.

Tuy nhùng nhằng như thế, nhưng đến hôm giạm ngõ buổi nói chuyện giữa hai bà mẹ cũng diễn ra êm đẹp. Có lẽ sự cảm thông giữa phụ nữ với nhau làm cho những ngôn ngữ lễ phép xa lạ và trịnh trọng một cách khách sáo ngượng ngùng giữa hai người đàn bà cũng trở thành suông sẻ; những nghi thức rắc rối không cần thiết của người gốc Bắc nhưng lại nhất định phải có cũng trở thành dễ dàng. “- Ngày xưa các chị nó lấy chồng bên nhà giai họ “đi” đầy đủ lễ bộ chả thiếu thứ gì, nhưng ấy là lúc khác còn bây giờ thì tôi chỉ cần phiên phiến thôi bà ạ. Vài chục phần giầu cau với ít chục bánh, thế thôi”. “- Vâng, thế là quý hóa quá. Cảm ơn bà nhé. Bà biết rồi gia đình nhà tôi có mỗi nó là con giai đấy. Con dâu một chả thương thì thương ai bây giờ”. Câu chuyện cứ lẩm cà lẩm cẩm như thế gần tiếng đồng hồ. Đức ngồi yên lắng nghe, trong khi Trâm chạy lên nhà trên chạy xuống nhà dưới bưng nước mang trầu, hình như đang làm ra vẻ đảm đang gấp năm gấp mười ngày thường để cố đánh tan cái tiếng tăm đại-lãn tiểu-thư notorious của nàng mà cả dãy phố Bà-Hạt đều am tường ngọn ngành chi tiết.

Cái đám hỏi đơn sơ ấy hơn tháng sau đã được tổ chức ngay giữa lòng Sài-Gòn một cách nhà quê nhưng không kém phần vui vẻ. Sáng Chủ nhật hôm đó, ở tầng dưới bếp vang tiếng xoong chảo bát đĩa tiếng chặt thịt vịt thịt gà, trên lầu Trâm ngồi cho chị Bích vẽ mặt. Nước da Trâm tuy mịn màng nhưng chưa từng son phấn, lại dùng mỹ-phẩm nội hóa nên chị Bích phải ra sức cả tiếng đồng hồ “vật nhau” với Trâm; cô em bị bà chị đè ra vẽ mặt cứ oai oái kêu đau vì chưa quen với trang điểm. Nhưng cuối cùng thì cũng xong. Đến mười giờ khi Đức xuất hiện ở ngưỡng cửa cùng những người bạn người nhà trên tay nặng chĩu các mâm quả trùm khăn đỏ, thì Trâm đã trong một chiếc áo soiree màu trắng thập thò trong buồng sau lấp ló nhìn ra qua bức rèm, định bước ra vừa thấy khách đàng trai đến lại chạy thụt vào e thẹn.

Chầm chậm lục tục bước vào một con hẻm hơi thoải dốc dường như đi xuống bờ sông, toán người vượt biên xếp hàng hai đi theo gã hướng dẫn. Trái ngược hẳn với những bộ đồ mới kẻng đang mặc trên người của đám rước dâu giả, trên gương mặt ai cũng đầy những nét căng thẳng. Đức quan sát chung quanh và bắt đầu e ngại vì lũ trẻ con trong hẻm đã kéo ra, có cả những đứa đã lớn, cười cười chỉ trỏ vào đám người rước dâu, chỉ trỏ vào những túi vải những tay nải đem theo của đoàn người. Có lẽ những chuyến vượt biên trước đã dùng con hẻm này làm lối hạ thủy nên dân trong hẻm đánh hơi ra ngay những khuôn mặt lạ, và bắt đầu mè nheo quấy nhiễu.

- Ê, vượt biên hả. Có tiền để lại đi mang theo làm chi.

- Tết nhứt mừng tuổi cho tụi con đi mấy dì mấy chú, tụi con chúc dì chú thượng lộ bình an ra cửa sông không đụng biên phòng ra cửa biển không gặp hải tặc !

- Công an đang tới đó. Đưa lẹ không tui la lên cho công an bắt à nghen !

Gã hướng dẫn quắc mắt, lũ trẻ hơi nhụt lại nhưng vẫn kiên trì đeo bám và rồi cũng kiếm chác đôi chút trước khi đoàn người khuất dạng sau lùm cây bờ sông. Đến bờ sông Đức dừng chân lại, nhìn xuống mặt nước. Bốn chiếc ghe nhỏ xíu nằm dọc theo bờ. Đoàn người rón rén hồi hộp xuống ghe, những bàn chân giầy guốc thị thành bước chập choạng trên các thanh gỗ bắc ngang thành ghe, tay nắm tay vịn chỉ chực lăn tòm xuống nước. Nhưng cuối cùng cũng xong, Đức và Trâm đã lọt được vào lòng một chiếc ghe, bên trong trải chiếu già trẻ lớn bé mười hai người tất cả. Mọi người ngồi im lặng, phân vân tư lự nhìn nhau. Bên ngoài lao xao tiếng người trên bờ sông vọng xuống, có cả tiếng của bọn trẻ con lúc nãy vẫn còn hăm he oang oang đòi tiền. Trong khoang hơi tối nhưng cũng đủ cho Đức nhìn thấy nét mặt Trâm tái mét vì sợ hãi. Chàng thì thầm:

- Đừng lo em. Người ta đã trả lệ phí đổ bãi cho công an từ chỗ này ra đến cửa sông lớn rồi.

Trâm run run:

- Nhưng mà nhỡ “nó” cứ bắt thì làm sao ?

Đức không trả lời được. Chàng nhớ tới Mạch, người bạn trung học vượt biên thất bại hồi 1979 vì ghe bị rượt bắn bằng B40 vào ban đêm ở ngay trên sông Cần-Giờ, mặc dù chủ ghe đã trả tiền đổ bãi. Rồi chàng lại nhớ tới Văn Chỉ, người bạn ở khu nhà thờ xứ Hà-Đông đã truyền thụ cho chàng những ngón võ Thái-Cực-Đạo đầu tiên hồi trung học, thuyền vượt biên gặp hải tặc và mất tích trong chuyến năm 1978 trên vịnh Thái Lan cùng với hai mươi mấy người trên ghe. Đức cố lắc đầu xua đi những hình ảnh đen tối trong tâm trí, nhưng khuôn mặt của Văn Chỉ với cái miệng rộng cặp mắt híp một mí khi cười như nhắm lại, với giọng nói nhanh lắp ba lắp bắp y như súng liên thanh cứ hiện ra mãi không sao tan biến đi được.

Đức bỗng choàng dậy. Xung quanh chật ních những người là người. Tuy chưa tỉnh hẳn nhưng chỗ nằm tròng trành cứng ngắc và ướt đẫm làm chàng sực nhớ ra mình đang ở trên con tàu vượt biên. Đêm hôm qua, các ghe nhỏ đã tấp vào chiếc ghe lớn để đổ quân. Vừa chui vào trong ghe lớn Trâm và Đức đã thiếp đi vì quá mệt mỏi, bây giờ gần tám giờ sáng chàng mới thức dậy người ê ẩm vì nguyên đêm nằm trên mấy thanh sườn đáy. Cả khoang hầu hết cũng hãy còn thiêm thiếp. Đức thấy Trâm còn ngủ, chàng leo lên miệng khoang. Ở boong, một số người đã nằm ngay trên đó. Buổi sáng ngoài biển gió thật lạnh, xung quanh tứ bề nước dâng sóng vỗ. Chiếc ghe lúc ở trong sông nom còn khá, ra đến đây chỉ như một chiếc lá tre trên giòng nước lũ. Buổi sáng, sóng biển chưa lớn lắm nhưng con tàu vẫn nhồi lên tụt xuống từng hồi. Tiếng máy nổ bịch bịch, mùi khói dầu ga-doan khét lẹt. Âm thanh ken két khi gặp sóng của gỗ đóng tàu rít lên như lời cảnh báo cho mọi người biết đây là ghe đi ven bờ chứ không phải tàu đi biển. Đức nghe một nỗi âu lo xâm chiếm từng phân vuông trên thân thể. “Tháng này không có bão, đài khí tượng dự báo như thế mà” chàng lẩm bẩm để tự trấn an nhưng vẫn xốn xang khi chạm vào tia mắt lo lắng của những người đồng hành. Chưa bao giờ Đức đối diện với biển cả bao la ngút ngàn như ngày hôm nay. Bây giờ, trùng dương đã vứt bỏ vẻ hiền hòa thơ mộng để mang vào bộ mặt đe dọa đằng đằng sát khí. Sóng biển Vũng Tàu ngày xưa bãi trước cảnh đẹp bãi sau hùng vĩ Đức từng yêu thích từ nhỏ, bây giờ đã hiện nguyên hình. Bài hát Mẹ Trùng Dương của Phạm Duy bây giờ sao nghe như lời dối trá “sóng vỗ miên man như câu ru êm của mẹ dịu dàng. Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương” vì hôm nay Mẹ không miên man, không dịu dàng mà đang giận dữ lũ con. Từng đợt sóng nhấp nhô đàng xa từ từ lớn dần, khi kéo đến bắn tung những bọt trắng xóa nước văng lên boong, tiếng nước xô nhau chạm ghe làm Đức nghe tim mình chìm xuống.

Người ta phát khoai luộc. Đức mang xuống khoang cho Trâm, rồi lại leo lên boong ngồi. Chàng nhìn về phía xa xa, bây giờ nắng lên mới thấy một dải núi mờ mờ màu xanh xám. “Núi kia núi gì vậy anh ?” Chàng hỏi người phụ lái gương mặt đen xạm đang ngồi hút thuốc. “Núi Vũng Tàu đó”. Núi Vũng Tàu. Nghĩa là ghe mình đang ra xa dần về phía biển đông. Và xa dần Việt Nam. Giữa bao mối âu lo trên con tàu vượt biên, khi nhận ra mình đang rời quê hương Đức vẫn nghe bùi ngùi trong dạ. Hình ảnh dãy núi này là hình ảnh cuối cùng của cái đất nước khốn khổ nhưng đầy ắp kỷ niệm mình bỏ lại sau lưng, sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại. Rồi đây sẽ mãi mãi kiếp lưu vong. Hôm nay là hôm chót, tết này là cái tết cuối cùng. Vĩnh biệt năm tháng rong chơi quãng ngày tuổi trẻ dấn mình lưu lạc về một chân trời vô định.

Đức ngoái cổ lại và căng mắt nhìn thêm một lần sau cùng. Mái tóc phần phật gió khơi thổi lộng. Giải núi cứ xa dần, mờ dần, rồi cuối cùng nhạt nhòa chìm khuất hẳn vào làn sương biển.

Nguyên Cương Andy