TAP KÝ MÔT LẦN VÊ THĂM QUÊ HƯƠNG

Tuy đây là chuyện cũ đã nhiều năm, tình cảm vẫn còn nguyên vẹn: nhớ lại quê hương. Xin kể chuyện các bạn nghe lần về thăm Việt Nam mùa hè năm 2001. Với chữ "tôi" đáng ghét.

Năm ấy các cháu Kim và Việt vừa học xong collège, tương đương với bậc Trung học đệ nhất cấp khi trước, chờ vào lycée. Thấy các cháu cũng đã tới tuổi thích đi du lịch, có hiểu biết về địa dư quốc tế, hai vợ chồng tôi nghĩ nên đưa các cháu đi xa một chuyến trong dịp hè, về Việt Nam. Hai vợ chồng bàn định phải làm thế nào cho chuyến đi vừa được vui vừa đỡ tốn kém. May được một chị bạn của nhà tôi, có hãng thường tổ chức những chuyến du lịch về vùng Ðông Nam Á, chỉ đường đi nước bước cho. Riêng chúng tôi, cũng đã 47 năm chưa nhìn lại đất Bắc, bèn thảo ra một chương trình: thăm từ Bắc chí Nam. Theo dự định, đến Hà Nội trước, thăm ở ngoài Bắc, sau đó lấy máy bay vào Huế rồi từ đấy dùng đường bộ đi dọc Con đường Cái Quan để vào Nam. Chương trình gồm có:

Ngoài Bắc: Thăm Hà Nội, Hòa Bình, Ninh Bình, Hạ Long

Ngoài Trung: Thăm Huế, Ðà Nẵng, Hội An, Qui Nhơn, Nha Trang, Phan Rang

Cao Nguyên: Thăm Ðà Lạt và Bảo Lộc (Lâm Ðồng)

Vào Nam: Thăm gia đình tại Sài Gon

Thế là, không giống như những năm trước đến ngày hè còn nhiều khi chưa biết đi đâu, năm ấy từ cuối tháng Giêng đã có chủ định, nao nức với những ý nghĩ sẽ thăm bà con và bạn bè, xem di tích và thắng cảnh. Nghĩ đến thắng cảnh thì lo chụp hình, quay phim. Nghĩ đến bà con bạn bè thì kiếm địa chỉ và viết thư báo trước. Tuy là một chuyến về, nhưng khi nghĩ lại mới thấy thật ra cũng phải sửa soạn như một chuyến du lịch xa, gồm cả việc visa, chích ngừa và đọc các sách cập nhật nói về Việt Nam như một du khách chưa bao giờ đến. Năm ấy tôi lấy trọn một tháng hè, không như những năm trước chỉ nghỉ 2 hoặc 3 tuần lễ.

Khởi hành: Công việc hàng ngày đã làm quên thời gian chờ đợi, sáu tháng thấm thoắt trôi qua, đã sắp tới ngày khởi hành 30 tháng 7. Dưới sự huy động của bà xã, trước đó hành lý đã được sắp rất tỉ mỉ, kiểm đi kiểm lại nhiều lần để không sót một thứ gì. Ấy cái tính của nhà tôi vẫn thế, cẩn thận để vô áy náy.

Sáng ngày Ng (tôi bắt chước "jour J" hoặc "D day"), cả nhà đã dậy sớm, ồn ào hơn thường lệ. Sau bữa điểm tâm thật đơn giản, thu dọn và khóa nước, quần áo và hành lý người nào người ấy lo, có người bạn vui lòng chở ra phi trường đã đến đón, tới giờ "gi" để ra khỏi nhà. Tuy chỉ là đi nghỉ hè, nhưng tâm trạng cũng nao nao. Sau khi làm thủ tục tại phi trường Charles de Gaulle IIA, máy bay Viêtnam Airlines cất cánh đúng giờ. Chuyến đi đã được mở đầu tốt đẹp.

Tới Hà Nội: Vì bay cùng chiều quay trái đất, ban đêm rất ngắn. Chỉ nghỉ một lần ở Dubai, chẳng bao lâu máy bay đã hạ cánh xuống phi trường Nội Bài vào sáng ngày 31 tháng 7 năm 2001. Rời Bắc vào năm 1954, tôi chỉ còn nhớ có các phi trường Bạch Mai, Gia Lâm và cầu Long Biên, không biết Nội Bài, nên không mường tượng đi qua sông Hồng bằng đường nào để về Hà Nội. Hôm ấy, trời thật trong xanh, bắt đầu nóng nực. Nhưng thủ tục tương đối nhanh chóng, chúng tôi được đưa về khách sạn ở đường Lý Thường Kiệt. Và ngay buổi chiều đi thăm viếng Hà Nội ngày nay (*).

Các đền đài: Chương trình thăm viếng các đền đài bắt đầu bằng Chùa Một Cột và Văn Miếu. Thật ra tôi không nhớ là Chùa Một Cột lại nhỏ như thế. Có lẽ 47 năm xưa, khi còn nhỏ, thấy chùa to hơn nhiều. Nhưng cảnh chùa nổi trên hồ như một chiếc gương sen, từ xưa vẫn có tiếng là một ngôi chùa có kiến trúc đặc biệt.

Khi đến Văn Miếu, cảm thấy một niềm xúc động. Trong Việt Nam Sử Lược có nói Văn Miếu được lập ra từ thời vua Lý Thánh Tông để thờ Khổng Tử và Thất thập nhị Hiền. Văn hóa mình thì nguồn chính vẫn gốc Trung Hoa, chỗ "Cửa Khổng Sân Trình" này còn thể hiện với những bia đá để ta tưởng tượng lại những cảnh Thi Ðình sau khi Thi Hương, Thi Hội.

Hôm sau thăm Ðền Quan Thánh, khu Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, đường Cổ Ngư (hình như tên mới là đường Thanh Niên), và chùa Trấn Quốc. Trong chương trình đi thăm, tiếc là đã không ngừng lại để thưởng thức món bánh tôm Tây Hồ.

Hồ Hoàn Kiếm: Sau 47 năm mới nhìn lại Hồ Gươm với nước xanh, Tháp Rùa màu trắng rêu phong và Ðền Ngọc Sơn với cầu Thê Húc sơn màu đỏ, lòng tôi không khỏi bồi hồi. Chúng tôi đã dừng chân ăn kem nơi nhà Thủy Tạ và tới coi con rùa cách đó ít năm đã lên bờ.

Hòa Bình: Sang ngày thứ ba thì đi Hòa Bình. Trên đường đi đã thấy lại cảnh nhổ mạ cấy lúa (ờ mà tại sao lại vào tháng Bảy ta?) Thấy lại người ta tát nước bằng gầu giai, và cả gầu sòng. Ngoài việc thấy se lòng vì bây giờ thời buổi hiện đại đáng lẽ phải có những phương tiện tân tiến hơn thì ngược lại cũng đã thấy lòng vui tìm lại được nhữnh hình ảnh êm đềm còn in trong ký ức.

Chùa Thày: Sau khi thăm khu rừng núi Hòa Bình, xem buổi trình diễn văn nghệ Mường, uống rượu cần, trên đường trở lại Hà Nội, đã ghé thăm chùa Thày. Ðúng là một cảnh chùa như ta đã đọc trong những chuyện xưa. Ðây là nơi thờ vua Lý Nhân Tông và Thiền Sư Từ Ðạo Hạnh là một vị Thiền Sư có tiếng đời nhà Lý.

Hoa cau: Thăm Viện Bảo Tàng Dân Tộc Thiểu Số, tôi nhớ nhất là hàng cây cau trước cửa. Ðúng ngày hôm đó, nhiều cây đang ra hoa, màu trắng ngà, mùi thơm tỏa ra thoang thoảng. Trong lòng thấy một niềm vui nhẹ nhàng đã tìm lại được chút gì của quá khứ, tưởng như không bao giờ thấy lại được nữa.

Ði chơi Vịnh Hạ Long: Về Bắc, không thể không đi thăm một thắng cảnh mà Tây phương hay nói tới. Nơi đây hình như tục truyền có rồng hạ xuống. Từ hôm đến Hà Nội, thời tiết thật tốt, sáng hôm đi, trời lại mưa tầm tã. Khi xe bắt đầu chuyển bánh thì phố xá đã có những chỗ ngập tới nửa bánh xe.

Khi ra khỏi thành phố, xe đi theo Đường số 5 hướng Hải Phòng. Con đường này, thiết kế như xa lộ, nối hai thành phố lớn của miền Bắc, cũng là ranh giới hai tỉnh, Bắc Ninh ở phía trên và Hưng Yên ở phía dưới.

Tôi hơi tiếc đã không về thăm được nơi tôi đã trải qua tất cả thời niên thiếu với ngôi Chùa Am, với Ðình Thượng, với vườn sắn, với hàng cau, y như trong đoản ca của GS Chung Quân đã dạy chúng tôi khi còn ở Nguyễn Trãi:

"Ðầu làng tôi là một khóm cau xanh, lá vật vờ rủ trên mái chùa

"Ðầu làng có một vườn sắn bên hồ, ngày ấy tôi còn bé nô đùa

"Nay nhớ lại thời xưa, bao nét vui tuổi thơ

"Tôi thấy tâm hồn xao xuyến, trăm mối tình tơ, tiếc một ngày mơ.

Quê hương, dù đối với người xứ nào cũng là nguồn gốc những tình cảm êm đềm. Trong thi ca Pháp cũng có bài hát bắt đầu bằng câu:

"Connais tu mon beau village?"

(Bạn có biết ngôi làng đẹp của tôi không ?)

Trong khi hồn còn thả trôi về quê cũ thì xe đi được nửa đường, đã vào địa phận Hải Dương. Xe có ngừng lại cho du khách nghỉ chân và chúng tôi đã mua ít bánh gai, bánh đậu xanh hiệu Rồng Vàng để nhớ hương vị cũ.

Khi đến Hải Phòng thì đã buổi chiều. Không ghé lại lâu, đi thẳng ra Hạ Long, qua Cẩm Phả, Hòn Gai. Nhất là khi đi phà qua sông Bạch Ðằng. Nhìn dòng sông bao la, không thể nào không tự hỏi có phải nơi này khi xưa Trần Hưng Ðạo đã đóng cọc phá quân Nguyên?

Tối đến Hạ Long, nhưng ngày hôm sau mới thật sự đi du ngoạn trên tàu. Cảnh thật thần tiên. Lại được trời nắng đẹp. Thăm các hang động. Coi chỗ nuôi trai lấy ngọc. Nhưng tiếc là những chiếc buồm nâu không còn bao nhiêu, phải săn mãi mới chụp được một tấm hình.

Tam Cốc và Hoa Lư: Sau hôm ở Hạ Long về, chương trình là đi Ninh Bình, chơi ở Tam Cốc và thăm Hoa Lư. Ðường đi qua ga Văn Ðiển và Hà Nam. Tam Cốc, như tên gọi, có 3 cái hang, phải dùng thuyền mới tới được. Cảnh nước non có thể coi như Hạ Long trên cạn. Chúng tôi đã thuê 2 chiếc thuyền có người chèo. Cảnh vật thật nên thơ. Trong khi nghe tiếng mái chèo, đã ngắm những hòn núi như nổi trên mặt nước. Thỉnh thoảng lại thấy bên trên có những con sơn dương ngơ ngác nhìn xuống. Người lái thuyền đã kể cho chúng tôi nghe khi xưa vua Lê Thánh Tông đã du ngoạn nơi đây và đã đề thơ vịnh cảnh.

Ði chơi Tam Cốc rồi về thăm đền thờ Ðinh Tiên Hoàng và nhà Tiền Lê ở Hoa Lư. Nhớ khi còn nhỏ cũng đã tập "trận Cờ Lau".

Huế: Sau 5 ngày Bắc du, hôm 6 tháng 8 chúng tôi rời Hà Nội đi Huế bằng đường hàng không, qua phi trường Nội Bài và Phú Bài. Trước khi rời Việt Nam qua Pháp tôi đã dạy ở Ðại Học Huế. Tuy chỉ là giáo sư thỉnh giảng, nhưng 7 niên khóa cũng đã để lại trong lòng nhiều kỷ niệm khó quên. Cho nên đến thăm lại cố đô cũng không khỏi có nhiều xúc cảm. Ngoài những việc thăm lại cung điện trong nội thành và lăng tẩm ở ngoại thành, chúng tôi đã qua cầu Tràng Tiền nhìn những tà áo trắng, đi thuyền trên sông Hương, thăm chùa Linh Mụ. Khi vào chợ Ðông Ba, nhà tôi đã dùng tiếng Huế nói chuyện, mấy cô bán hàng tưởng là người cùng xứ mới đi xa về! Bóng nước sông Hương, với núi Ngự Bình, làm như nghe văng vẳng những lời "Ðêm Tàn Bến Ngự" của Dương Thiệu Tước. Một số hướng dẫn viên đã mặc áo dài màu tím Huế.

Ðà Nẵng và Hội An: Trước đây, khi ra Huế dạy, vẫn chỉ dùng máy bay đi thẳng từ Sài Gòn nên thật sự những tỉnh từ dưới Huế trở vào tôi không biết được nhiều. Nay đi đường bộ, đường Số 1 hay đường Cái Quan, đối với tôi là một ao ước. Ðể biết miền Trung đất nước có những gì, tại sao mà bao nhiêu thi ca mình đã dành cho miền này. Khởi hành từ lúc còn hừng đông, cảnh đường đi buổi sáng thật là ngoạn mục. Qua Lăng Cô, thì chúng tôi tới Ðèo Hải Vân. Trời thật yên, bể thật lặng. Ðúng như tên gọi, nhìn dưới xa là biển xanh và thật sự mình đang ở trên những cụm mây trắng lửng thửng bay lưng chừng bên dưới. Mặt trời phía đông chiếu lại, từ trên đèo cao thấy phản ánh những sóng gợn lăn tăn óng ánh làm tôi nhớ tới hình ảnh "nguyệt minh châu hữu lệ" của Ðường thi.

Sau đó, ở Ðà Nẵng, đã thăm chùa Non Nước trên Ngũ Hành Sơn. Ði dần xuống phía Nam, thăm chùa Nhật tại Hội An. Hội An ngày xưa, cùng với Phố Hiến ở Hưng Yên là những nơi người Tây phương bắt đầu tiếp xúc với mình.

Qui Nhơn: Sau khi nghỉ đêm tại Ðà Nẵng, chương trình tiếp tục Nam tiến. Vẫn biết Qui Nhơn là nơi khởi nghiệp của anh em vua Quang Trung, nhưng không ở lại đây lâu, để còn xuống Nha Trang là miền "quê hương cát trắng". Dọc đường, đã đi qua Ðại Lãnh. Trước kia tôi cũng có nghe các bạn đã làm việc vùng này kể cho nghe biển ở đây rất đẹp, nay mới thấy, quả không sai.

Nha Trang: Ðây là một điều hối tiếc của tôi trước kia. Số là năm 1955 khi còn ở Trại Học Sinh Phú Thọ, đã được lựa để đi trại hè và có quyền chọn Ðà Lạt hoặc Nha Trang. Tôi đã chọn miền Cao Nguyên đất đỏ. Vâng, mỗi con người vẫn có những quá khứ nó đeo đưổi mình. Chi tiết này cũng nhỏ thôi, nhưng là một phần quá khứ như thế. Nay từ ngàn dặm xa xôi, đến đây tắm biển một lần, xem Viện Hải Học với nhiều hải vật rất lạ mắt, và không quên là có Viện Pasteur rất nổi tiếng với Bác sĩ Yersin đã tìm ra nhiều thứ thuốc chủng, tôi đã giải tỏa được mối bận tâm này. Yersin đã góp phần tạo nên Thành phố Ðà Lạt, nhưng được dân sùng bái và có ngôi mộ ở đây.

Ðèo Cả và Hòn Vọng phu: Trong thi ca mình, bài "Hòn Vọng Phu" vẫn làm tôi xúc động khi nghe tới. Chẳng những khi học chuyện Chinh Phụ Ngâm, nhiều câu thơ đã làm mình cảm thương, mà sau này chính bản thân đã phải xa nhà, trải qua cảnh trông chờ:

"Cùng ngoảnh lại mà cùng chẳng thấy,

"Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

"Ngàn dâu xanh ngắt một màu

"Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

Cho nên khi tới đây, nhìn hòn núi màu đỏ gạch như vọng trông ra biển cả, tôi cũng thấy như mình sống lại những tháng ngày mòn mỏi hơn hai mươi năm trước.

Tháp Chàm Phan Rang: Tháp Chàm là một trong những hình ảnh tôi còn nhớ từ khi đi Ðà Lạt năm 1955, xe lửa phải qua đây trước khi leo núi bằng đường có răng cưa. Tôi vẫn tự hỏi những bài hát về miền Trung tại sao thường thường là buồn. Vì cảnh nghèo. Nhưng cũng hẳn có phần nào vì thương một nền văn minh và một chủng tộc đã mất đi không?

Ðà Lạt và Lâm Ðồng: Ðến đây tôi bắt đầu tìm lại được những địa danh đã đi qua một hoặc nhiều lần. Nào Ðèo Ngoạn Mục, nào Thác Prenn, nào Hồ Xuân Hương, nào Rừng Tùng Lâm... Đến đây lại nhớ Trại hè Đà Lạt của Đại Học Sài Gòn năm 1963. Vì vấn đề an ninh sau đó, năm ấy là năm cuối cùng còn lên được đỉnh Langbian. Cảm giác của tôi có thể sai, nhưng hình như Ðà Lạt 2001 đã không còn nhiều những nét thơ mộng khi xưa. Nhà tôi đã mua cho một chiếc áo len làm kỷ niệm.

Trên đường vào Nam: Sau khi thăm Ðà Lạt, chúng tôi đưa các cháu vào Nam. Bảo Lộc (Lâm Ðồng) với những vườn trà, vườn cà phê, vườn thanh long, khi xem cách sấy trà tôi lại nghĩ tới những truyền thuyết về trảm mã trà, về chén hạt mít, chén phí thúy, những cách pha trà bằng ấm gan gà, bằng nước sương mai hứng từ lá cây trà hoặc lá sen. Ôi, một thời vang bóng đã qua đi. Ngay cả cà phê phin bây giờ cũng ít còn ai có thời gian nhăm nhi nữa. Có lẽ chỉ còn là ngưu ẩm mà thôi!

Sài Gòn: Tuy nhìn kiến trúc có vẻ quen thuộc hơn (các cháu đã về đây một lần năm 1997), Sài Gòn và Chợ Lớn đối với các cháu vẫn là một khám phá mới. Ði thăm Nhà Bưu Ðiện, thăm Chùa Xá Lợi, Nhà Thờ Ðức Bà, Công Viên Kỳ Hòa, và nhiều chùa trong Chợ Lớn. Chúng tôi đã tới thăm trường Gia Long (bây giờ là Nguyễn Thị Minh Khai) là trường cũ của nhà tôi và cũng là nơi tôi thi Tú Tài toàn phần năm 1960 trước khi vào Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Nhưng việc chính là thăm gia đình và gặp lại một số thầy và bạn cũ mà hôm nay, khi viết những dòng này đã có một số người không còn nữa.

Thay lời kết

Tả cảnh, tả tình, vốn là điều rất khó, phải có văn tài mới hay được. Tôi đã bất chấp văn pháp, hăng hái kể các bạn nghe. Nếu văn chương không được thoát, thì cũng mong các bạn nể tình đọc lướt cho qua. Bây giờ hồi tưởng lại, mới thấy một điều là trước mỗi cảnh đi xem, tôi không bận tâm phải nhìn bằng con mắt so sánh để thấy mình to hơn ai hoặc nhỏ hơn ai, hoặc đất nước mình hùng vĩ kém hoặc hơn xứ này xứ nọ... chỉ nghĩ là đất nước trường tồn, và gắn vào đây những tâm tư, ít nhiều hun đúc do truyền thuyết, thi ca, hoặc qua sách vở, hoặc chính mình đã sống, chính mình đã cảm được. Ðể nối lại quá khứ với chính mình. Ðể tìm lại ngày xanh đã mất.

Chính vì vậy mà khi thăm Chùa Trấn Quốc, nhìn cảnh du khách tấp nập và vôi sơn màu sắc còn tươi của ngôi chùa, tôi không khỏi nhớ là trong quá khứ đã có khi Bà Huyện Thanh Quan viết:

"Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,

"Khách đi qua đó chạnh lòng đau.

Biết bao nhiêu biến cố đã trải qua. Cậu học sinh nhỏ bé năm xưa lang thang khắp phố phường để tìm biết đất ngàn năm văn vật, nay trở lại với mái tóc đã điểm sương. Văng vẳng trong đầu bài "Thăng Long Thành Hoài Cổ". Nhưng đây không phải là

"Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo",

cũng chẳng phải chỉ còn

"Nền cũ lâu đài bóng tịch dương"

mà là cửa nhà san sát, bán buôn sầm uất, xe đạp, xe máy nườm nượp nhộn nhịp trong một cảnh náo nhiệt lạ thường.

Paris, Mùa Xuân năm 2007

(*) Về các địa danh trong bài này, tôi thường dùng những tên xưa.