SƠ LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG VN HẢI NGOẠI (1975-2015)
Dân VN có sức phấn đấu rất mạnh, vừa chống cự nước Trung Hoa ở phương Bắc vừa lấn chiếm phương Nam để mở rộng bờ cõi. Tới thế kỷ 19 thì vương quốc Khmer đang ở trên bờ diệt vong - toàn bộ Thủy Châp Lạp đã thành miền Nam VN, người Thái chiếm đến Battambang và người Việt bảo hộ phần còn lại. Nhưng người Pháp đã làm đảo ngược tiến trình này, họ bắt người Thái rút về trả đất cho người Miên và hủy bỏ sự bảo hộ của người Việt. Nước Cambodge nhờ người Pháp mới tồn tại, còn sự bành trướng của người Việt bị tạm ngưng trong giai đoạn Pháp thuộc.
Nhờ ưu thế súng đạn, người Pháp dễ dàng hạ nhục người Việt - chỉ một vài ngàn lính Pháp với mấy chiếc tàu chiến mà ra Bắc vào Nam như chỗ không người. Bao nhiêu cuộc khởi nghĩa chống Pháp đều thất bại vì người Pháp khôn ngoan dùng chính sách chia để trị và giữ triều đình Huế làm bù nhìn để dùng người Việt trấn áp người Việt. Sau khi bị Nhật hạ bệ ở Đông Dương, người Pháp lại "ăn theo" chiến thắng của người Mỹ để quay về VN tái lập chế độ cai trị. Từ đó bắt đầu cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất, và khi người Pháp thất thế họ đã kéo người Mỹ về phe họ và gánh vác chiến phí cho họ. Sau đó là chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, cuộc chiến gây nhiều chia rẽ ngộ nhận nhất trong lịch sử Mỹ và để lại một nước VN hoang tàn với bao nhiêu hận thù chia rẽ kéo dài tới 40 năm sau.
Về vấn đề bành trướng của người Việt, đoạn kết chiến tranh VN đã mở đường cho người Việt bung ra khắp thế giới. Trước kia người Việt chỉ chiếm Chiêm Thành Chân Lạp để di dân, số lượng người Việt đi lập nghiệp xứ người rất ít, khác với người Hoa đã phải bôn ba hải ngoại để mưu sinh từ nhiều thế kỷ trước. Thởi gian VNCH sắp mất, rất nhiều người VN không muốn di tản hoặc chỉ di tản một cách miễn cưỡng lo âu. Một cây bút phiếm luận của báo Chính Luận là Thu Hippy hô hào không nên bỏ nước ra đi vì "làm gì có nước nào chịu chứa một giống dân rất lười là dân Mít?"
Giai đoạn đầu của di dân VN quả thực nhiều khó khăn cay đắng, nhưng dù sao cũng may mắn hơn những người da vàng di dân trước đó vì năm 1975 sự kỳ thị đã giảm nhiều. Nước Mỹ vì đã bỏ rơi đồng minh nên nhận một số lớn di dân VN và có một số chính sách ưu đãi người Việt nhập cư. Úc và Canada đều trù phú và đất rộng người thưa nên tương đối dễ lập nghiệp, các nước Âu Châu dù nhỏ bé nhưng đã phát triển và có chế độ xã hội tốt. Nước Mỹ có nền kinh tế mạnh nhất thế giới, những di dân VN dù không học cao cũng có thể làm giàu nhờ đánh cá, dịch vụ, nhà hàng, làm nail, skin care... Đó là những điều mà những người miền Nam sắp mất nước không thể biết, đa số hoang mang không biết nên đi hay ở vì không biết mình có ổn định được ở xứ người hay không.
Sau 30-4-1975, những ảo tưởng của dân miền Nam về chính phủ liên hiệp và hòa giải dân tộc đều tan vỡ. Trừ một thiểu số thích ứng với chế độ mới, đa số dân miền Nam phải đối diện thực tế phũ phàng: Chế độ cộng sản, cán bộ tư bản, nhà nước phá sản, công nhân chán nản, dân chúng di tản. Bốn chữ Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) thực chất là Xấu Hổ Con Người, Xuống Hố Cả Nước, Xếp Hàng Cả Ngày và Xạo Hết Chỗ Nói. Tới khoảng năm 1980, khi ai cũng thấy là những người di tản đa số ổn định và khá giả trong khi ở VN rất khó khăn, các phong trào đi chính thức, bán chính thức và vượt biên ngày càng lan rộng. Chuyện vượt biên đầy những nguy hiểm bất trắc: (1) bị lừa hoặc thất bại thì về với má, (2) bị bắt thì vào nhà đá, (3) chìm tàu thì vào bụng cá, (4) thành công thì đến Mã Lai Á. Phải vượt qua được ba giai đoạn đầu mới có thể đi lập nghiệp xứ người, vậy mà mấy triệu dân VN vẫn liều mạng. Rất nhiều người vượt biên thành công, nhưng không có số liệu thống kê chính xác để biết số người thất bại bỏ cuộc và số người bị chết trên biển là bao nhiêu.
Tới năm 2015 thì sự bành trướng ra hải ngoại của người VN đã được 40 năm. Thế hệ di dân thứ nhất đã già hoặc qua đời, thế hệ thứ hai đã trưởng thành hoặc trung niên, thế hệ thứ ba hoặc thứ tư đang phát triển. Về kinh tế thì dù ở nước nào đa số Việt kiều thành công hoặc ổn định, những thế hệ sau có tỷ lệ tốt nghiệp đại học cao và nhiều người thành đạt. Sức sống của người VN lưôn luôn mạnh mẽ nên điều này không đáng ngạc nhiên.
Những thế hệ sau của di dân VN đã nghĩ về nguồn gốc của mình như thế nào? Hãy thử nghe bài hát Bonjour Vietnam của Quỳnh Anh:
Je ne sais de toi que des images de la guerre,
Un film de Coppola, des hélicoptères en colère...
(All I know of you is the sights of war,
A film by Coppola, the helicopters' roar...)
Cô Quỳnh Anh chỉ biết về VN qua những hình ảnh chiến tranh và một phim của Francis Coppola, đó là phim Apocalypse Now với Marlon Brando đóng vai chính. Phim được 2 Oscars và nhiều người Âu Mỹ ưa thích, nhưng khi xem phim này tôi có cảm giác bực bội. Nhân vật chính là một đại tá Mỹ bất mãn vì quân lực VNCH quá tham nhũng thối nát, bèn tự tay xử tử mấy sĩ quan cấp tá VNCH rồi bỏ trốn qua Kampuchia xưng hùng xưng bá, cà VNCH lẫn VC đều không làm gì được ông ta, sau bộ tư lệnh Mỹ ở VN phải cử một người Mỹ qua mới giết được. Câu chuyện này chỉ có trong óc tưởng tượng của những người Mỹ tự cao tự đại. Thời chiến tranh VN, giả sử có một sư đoàn Mỹ đóng ở Kampuchia mà không có sự yểm trợ của không quân, pháo binh và thiết giáp thì cũng bị tiêu diệt trong vài tháng, thế mà trong phim chỉ có một người Mỹ cũng làm bá chủ và chỉ có một người Mỹ khác mới giết được mà thôi. Còn người Việt hoặc người Miên đều là barbarians không đáng quan tâm. Không hiểu thế hệ VN thứ hai và thứ ba ở hải ngoại nghĩ gì về VN khi họ chỉ biết về VN qua một phim của Coppola?
Nói chung những phim Mỹ về Vietnam War, dù là phim hành động rẻ tiền như Rambo hay là phim của những đạo diển nổi danh như Francis Coppola, Oliver Stone hoặc Stanley Kubrick cũng đều bộc lộ sự khinh miệt đối với VN. Nhiều sách nghiên cứu của Mỹ cũng tương tự - hai cuốn sách nổi tiếng là Vietnam a History của Stanley Karnow và A Bright Shining Lie của Neil Sheehan có khuynh hướng miệt thị VNCH và bán cái thất bại của Mỹ cho miền Nam VN. Bởi vậy, nếu các thế hệ sau của người Việt hải ngoại tìm hiểu VN qua phim Mỹ và sách Mỹ thì họ dễ coi thường quê hương của ông cha họ.
Cũng may là nhiều người VN hải ngoại vẫn còn giữ được truyền thống gia đình, nhờ họ mà thế hệ sau còn cảm nhận những cái tốt đẹp về VN. Là thế hệ di dân thứ nhất, họ chấp nhập nhiều hi sinh để lo cho thế hệ thứ hai. Trường hợp của ca sĩ Quỳnh Anh, cô không biết gì về VN nhưng vẫn cảm thấy mảnh đất xa xôi có cái gì đó thân thương, đó là nhờ tình thương của cha mẹ đã dành cho cô. Một số người kém may mắn, hi sinh làm việc vất vả lo cho con ăn học mà con họ sau khi thành đạt lại ỷ mình có tiền bạc bằng cấp và khinh thường bỏ rơi bố mẹ mình. Nhưng theo tôi quan sát, đa số thế hệ VN thứ hai cũng biết thương bố mẹ hoặc không đến nỗi tệ.
Khoảng hơn 10 năm trước, tôi có dậy học tiếng Việt cho học sinh VN ở Montreal. Nhiều gia đình VN dù bận rộn cũng cho con đi học thêm tiếng Việt chiều thứ bẩy, đa số các em đều ngoan ngoãn và chăm chỉ. Các em đôi khi dùng tiếng Việt không chính xác, thí dụ như có em nói "Thầy có được giúp em không?" chứ không biết nói "Thầy có giúp em được không?". Một người bạn dậy giáo lý ở nhà thờ VN kể tôi nghe có một học sinh đã viết "Đức Mẹ có một thằng con, tên nó là Chúa Jesus." Nhưng dù sao thì thế hệ VN sinh trưởng nơi xứ người mà còn biết tiếng Việt là tốt rồi.
Một học giả Mỹ có nhận xét rằng thế hệ di dân thứ nhất thường bận rộn để hòa nhập và ổn định, thế hệ thứ hai thường mất gốc còn thế hệ thứ ba lại có những người thích tìm lại nguồn gốc ông cha. Không biết có đúng với người VN hải ngoại hay không, nhưng dù sao thì vấn đề tiếp thu văn hóa mới và bảo tồn văn hóa gốc luôn luôn rất phức tạp và thay đổi theo từng gia đình từng cá nhân, không thể áp dụng một vài quy luật chung. Dù sao cũng có điều đáng mừng là những cộng đồng VN hải ngoại vẫn phát triển vững mạnh và vẫn là nguồn giúp đỡ hữu hiệu cho những thân nhân còn nhiều khó khăn ở VN.
PHẠM NGỌC KHÔI