Với cái nắng nóng của ngày hè và sức nóng của dòng người tấp nập, muốn ngắm lại Sài Gòn xưa, tốt hơn hết là gọi xe ôm, tài xế là phụ nữ cho an toàn xa lộ. Vì dòng xe tấp nập, đèn đỏ tự do “vi vút”, lề đường “vô tư” bang, để tránh hai đầu gối ăn bả trầu và để tìm cảm giác mát lạnh thì chân kẹp sát mông cô tài xế. Tránh bị rớt xuống đường thì xin phép ôm eo sát rạt cô ta, đó là cái mới lạ của quê hương. Muốn ngồi ngắm sự chuyển động của thành phố và nghe người nữ tài xế xe ôm tâm sự thì tìm một góc quán nào đó ngồi uống nước. Chợt nhớ đến quán cà phê chồm hổm, quán của P., thằng bạn thời sinh viên, mà Lượng đã nói đến cách đây vài hôm trước khi tôi đáp may bay về Sài Gòn, tôi đề nghị cô tài xế tìm giúp quán cà phê của bạn tôi đồng thời không quên thương lượng sẽ “boa” thêm nếu cô chịu khó ngồi uống cà phê chờ.
Đã hơn bốn chục năm rồi không gặp lại nhau, tôi cũng tò mò muốn biết giờ đây P. như thế nào, kể từ ngày nó qua Mỹ theo diện HO, chán cảnh sống tư bản nên trở về lại quê nhà. Theo địa chỉ, với nghề xe ôm rành đường, rành hẻm, cô tài xế đã đưa tôi đến quán cà phê của P. Đó là một căn nhà nhỏ nằm tận bên Bà Chiểu, Gia Định. Mảnh sân nhỏ trước nhà, dưới tàn cây trứng cá, dùng mở quán cà phê. Bên trong là nơi ở của P., thằng bạn tôi, tự là P. Cà Tha, P. Điên, bỏ trường Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt vào Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, hình như Khóa Hai, Khóa Nguyễn Trãi. Ra trường về Mộc Hóa, đội nón ngồi xe bọc thép. Bắn hết đạn, tan hàng, tiếp tục được huấn luyện lại mười năm trong quân trường ngoài Việt Bắc. Tuy nhỏ con, ốm nhách đen thui như một thằng thiếu dinh dưỡng nhưng với Cà Tha, võ Miên, cỡ mười thằng nó cũng xơi tái.
Gặp lại nhau sau hơn bốn chục năm xa cách, P. nhìn ra tôi sau vài giây. Hai thằng nhận ra nhau, vui mừng hớn hở không tả xiết. Vẫn là cách xưng hô của P. Điên, mày tao loạn xà ngầu. Nhìn P. bây giờ khác với ngày xưa quá! Lưng còng, nước da ngăm đen lại càng đen hơn, mái tóc phong lưu đã theo gió sương, chỗ còn chỗ rơi rụng, bạc trắng. Hàm răng cái còn cái mất chắc là nhờ bắp nướng đổi bữa, bo bo trường kỳ, khoai sùng cứu đói, ...
P. đề nghị tôi cùng về thăm Vạn Giã, quê hương của P., bên bờ cát trắng, một địa danh từ Nha Trang đi ra, một thời Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa muốn dời Thủ Đô về đó. Một phần muốn xem lại cái phồn vinh của miền Trung, một phần muốn sống lại tuổi xuân, hai thằng đón xe đò rong ruổi về miền cát trắng.
Vượt qua vùng Trại Mát, đến Đơn Dương, lắc lư trên con đường dốc ngoằn ngoèo đèo Ngoạn Mục, cuối cùng được tạm nghỉ ở Tháp Chàm, Phan Rang. Ký ức của hơn năm mươi năm, qua lại vùng này, những căn nhà nhỏ mái lợp rơm nay cũng nhỏ cũng rơm, trơ trơ cùng tuế nguyệt. Sài Gòn nhà cao cửa rộng nhưng miền Trung khô cằn vẫn không biến đổi, có chăng là những bờ vai còng trên những chiếc xe đạp thời sáu mươi. Ôi điêu tàn, đổ nát vẫn còn đó! Một cục nợ, một gánh nặng mà cái xã hội tự cho là phát triển không thèm để mắt đến vì họ lo tô điểm cho cái phồn vinh giả tạo ở các thành phố lớn. Cuộc sống không chọn lựa của P. khiến P. sành sỏi cuộc đời lừa lọc, P. im lặng ít muốn tâm sự cùng tôi. Xã hội này cho P. quá nhiều bài học cho nên ngay cả thằng bạn thân như tôi, P. cũng dè dặt. Cũng vì hoàn cảnh khó khăn khi trở về Việt Nam, P. phải làm đủ nghề để kiếm sống, đó là nghề “thợ đụng”, đụng gì thì làm đó. Từ đạp xích lô, làm phu khuân vác ở bến xe đò liên tỉnh… miễn cái gì có tiền là làm hết. Cũng may là P. chưa làm nghề dẫn gái cho các lão đại gia. Vì cuộc sống mưu sinh nên P. cũng chẳng còn lựa chọn nào khác, P. phải làm để nuôi sống mình, để tồn tại ở mảnh đất Sài Gòn này.
Sau một thời gian, P. về lại xóm cũ, ai trong xóm cần thuê gì thì làm, rồi theo thời thế tập tành kinh doanh, P. mở cái chòi cà phê có tên là “Phong Trần”, không cần tốn tiền nhiều chỉ cần biết mánh mung khai thuế, trốn thuế thì cũng đủ đắp đổi qua ngày. Vốn liếng mở quán không nhiều, tự mình trang trí quán bằng mấy cây trứng cá mọc sẵn trong sân, một giàn hoa giấy ai đó trồng sẵn, vài lồng chim chào mào, chích chòe, lồng sáo sậu, chúng tự do hót trưa hè. Vài bộ bàn ghế gỗ xung quanh hòn non bộ nước chảy róc rách và thêm vài cái ghế cắt từ thân cây, bào nhẵn. Chủ yếu là đủ sống chứ mấy quán cà phê muốn đắt khách phải có giàn âm thanh xịn, phải có “cẳng dài”, có mấy cô “ăn mặc thiếu vải” chạy bàn. Sống một mình, ai thích thì đến, ai thích thì ghé, chiều về có nửa xị “nước mắt quê hương” hay chén bia hơi là đủ an ủi.
Nhiều người cho rằng Việt Nam bây giờ thay đổi, phát triển vượt bực nhưng với những con người như P., các em bé thế hệ mới lớn vẫn đứng đường, các cô gái bỏ quê lên tỉnh càng ngày càng nhiều. Muốn tiến lên con đường vinh quang vẫn còn xa thăm thẳm, một điều quá xa vời mà ngoài năm triệu kẻ ăn trên ngồi trước, không còn ai dám mơ ước đến. Nhắc lại chuyện ngày xưa cách đây hơn bốn mươi năm trước, những kỷ niệm cứ ngỡ đã quên lãng nhưng cứ dần dần hiện về. Trở về Sài Gòn, tôi cho rằng thời gian sẽ làm quên đi những hình ảnh, suy nghĩ ngày xưa nhưng nào ngờ, kỷ niệm, ký ức và chuyến ra Trung làm cho tôi chẳng thể nào quên được. Nhìn những đau thương xung quanh, nhìn P., nhìn những em bé bán vé số trên vỉa hè, lòng tôi chợt nhói đau vì vết sẹo, vết sẹo thời gian, vết thẹo lòng.
Nhìn qua bàn bên cạnh, cô xe ôm vẫn còn đó, vừa đọc sách vừa khe khẽ ngâm nga:
“Anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé
.........................................................
Em bước vội để che hồn trống vắng
..........................................................
Đều dở dang như tình mình thế thôi.”
Cô gái này chắc là đang vương vấn gì đây. Tôi buồn miệng nên xổ đại vài câu:
- Biết yêu là khổ lắm đó em!
Tiếng nước róc rách, tiếng nhạc du dương làm cho tôi như quên đi những âm thanh man rợ bên ngoài đường phố, một sự thích thú chợt hiện là có được vài giây phút yên bình bên ly cà phê. Bỗng dưng tôi nảy ra ý tưởng là giúp thằng bạn tân trang cái quán cà phê ọp ẹp của nó, đồng thời tìm người phụ nó trông coi quán cho nó có thì giờ “theo lưu linh”.
- Cô em, chú cần nói chuyện với cô em...
Ba điều bốn chuyện với cô bé và sau khi bàn bạc với P., ngày hôm sau tôi và cô bé khuân giàn karaoke, cùng vài người bạn học của cô ta đến “ổ chuột” của thằng bạn, sắp xếp tổ chức lại quán cà phê. Trước ngày rời khỏi Việt Nam, tôi ghé lại quán, các em cho biết là ngoài giờ học, các em luân phiên nhau đến phụ để cùng kiếm chút cháo. Ban đầu có khách là nhờ các bạn học đến ủng hộ và cũng tiện lợi là còn có nơi yên tĩnh để học bài cho nên sinh viên tụ tập kha khá. Các cô còn cho biết là chú P. chia đều thu hoạch cho tất cả mọi người sau khi trừ những phí tổn hàng ngày. Với bộ mặt mới, với dàn hậu cần trẻ, dễ thương và lương thiện, cho nên sau một tháng trở về quê ngoại, tui nhận được điện thoại từ quê nhà:
- Chú ơi, tụi cháu không còn chạy xe ôm nữa, thu nhập khá lắm chú ơi! Tụi cháu “tự bóc lột” tụi cháu vì mình làm mình hưởng, bây giờ tụi cháu mới thấy “lao động là vinh quang”! Chú P. chỉ ngồi cười và nhìn tụi cháu làm việc. Chú P. và tụi cháu cám ơn chú nhiều thật nhiều.... Chú rán về thăm tụi cháu nghen.
Không biết tôi có còn dịp được trở về lại Sài Gòn hay không, nhưng tình bạn, tình anh em, tình các cô sinh viên trẻ cần tiền đóng tiền học và những ly cà phê bụi vẫn đang đợi chờ ngày tôi quay lại.
Kỷ niệm bốn mươi năm xa xứ của người Việt
Lệnh Hồ Công Tử, 18 August 2014.