Tôi về nhận việc ở trường được vài tháng, bỗng một hôm xuất hiện một cô nhân viên mới, cô này là bà con xa với ông Hiệu Trưởng vào làm việc với chức danh văn thư, lo về sổ sách giấy tờ hộ khẩu cho các học sinh của trường. Lần đầu tiên gặp cô ấy là lúc tôi ôm tập sách giáo án đi xuống lầu, chỉ gật đầu chào xã giao, tuy nhiên lúc đó tôi thấy có cái gì đó là lạ thoáng qua! Một thiếu nữ chính gốc quê Long An với bộ áo bà ba đơn giản tuyệt đẹp có thêu vài cánh hoa trước ngực.

Sau đó không lâu, tôi dần làm quen với cô ấy, cô tên là Ánh, nhà ở ấp Phước Tĩnh, xã Long Hiệp, thị trấn Gò Đen.

Hồi còn đi học, tôi cùng đám bạn thường hay tụ tập cà phê tán gẫu, có lần bàn về đề tài phụ nữ, một thằng phát biểu:

- Theo quan điểm của tao thì phụ nữ: “Nhất Thanh, Nhì Sắc!”

Hỏi nó thì nó giải thích: giọng nói của phụ nữ đôi khi lại là vũ khí lợi hại hạ gục cánh đàn ông hơn cả nhan sắc!

Rồi thì mỗi thằng một ý, chẳng ai giống ai.

Nghe ý kiến của thằng bạn, tôi cũng tò mò rồi tự truy cập lại qua vài cô bạn cùng lớp lúc đó. Quả thật, các cô bạn gái trong lớp, mỗi cô có một giọng nói khác nhau, tôi cũng hình dung xem ai sẽ là người có thể gây ấn tượng cho tôi về “Thanh” nhưng cuối cùng… chẳng cô nào có thể gieo một ấn tượng sâu sắc với tôi về chất giọng, chưa nói đến nhan sắc bề ngoài. Các bạn tôi hầu hết đều là dân miền Nam, người thì lanh lẹ hoạt bát, có cô nhút nhát nói chuyện chỉ nghe tiếng xì xào, có cô thì điệu đà quá mức!… Nhưng âm sắc thì hầu hết là âm Sài Gòn! Nghĩa là cũng giống mình. Vậy thì cuối cùng, sau nhiều năm dưới mái trường Khoa Học, tôi chẳng chấm được cô nào theo thang điểm “Nhất Thanh Nhì Sắc” của thằng bạn tôi.

Tôi ở nội trú chung với hai người bạn nhà xa, do có thêm nghề tay trái là Điện Tử nên cũng có khối việc để làm trong lúc rảnh rỗi. Lúc đó tôi có chế ra một cái máy sạc bình ắc quy dùng để sạc… miễn phí cho mọi người khi cần, nhất là ông thầy Hương vì tôi và anh ấy thường hay đi săn bắt cá. Cô Ánh cũng thỉnh thoảng xách vào cái bình ắc quy ở nhà nhờ tôi sạc để thắp đèn ban đêm vì nhà xa thị trấn thời đó chưa có điện, muốn sạc phải mang ra chợ cách 3 cây số mà thời gian sạc lại quá ít trong lúc đi chợ nên bình ắc quy thường không đầy điện. Thỉnh thoảng cô nàng mang vào biếu tôi… một chai rượu đế Gò Đen chính hiệu ở nhà tự nấu lấy để… trả công sạc bình.

Ánh có chất giọng rặt của một thôn nữ gốc Long An, mộc mạc, đơn giản hiền lành và vui vẻ, dáng người cân đối gọn gàng, khuôn mặt tươi tắn… chỉ sau vài tháng, tôi đã bị chinh phục hoàn toàn có lẽ vì cả Thanh và Sắc của cô ấy!...

Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu chuẩn bị vai trò làm rể! Thỉnh thoảng tôi cũng theo cô ấy về nhà để làm quen với gia đình.

Ngày đầu tiên theo Ánh về nhà để giới thiệu với ông bà già, nàng đi trước, tôi xách cái bình ắc quy theo sau, đường về nhà chỉ đi bộ quanh co qua các bờ ruộng, hôm đó trời mới dứt mưa, chiều chập choạng tối, bờ ruộng trơn trợt, băng qua một xóm nhỏ phía sau trường rồi theo một con đường đất xa tắp cả ba cây số, hai bên là ruộng ngập nước, tiếng nhái con kêu nhem nhép, rồi tiếng ễnh ương uềnh oang buồn tẻ!…cô ấy cứ đi thoăn thoắt nhanh nhẹn còn tôi vừa đi vừa lấy thăng bằng vì sợ…té! Rồi thì cũng đến nhà.

Trước ngõ có hàng dâm bụt, quanh nhà trồng nhiều cây bình bát làm hàng rào, xung quanh nhà có mương nước sâu khoảng 1 mét để trữ nước, phía trước có cây me lớn và sân gạch dùng phơi lúa, bên hông nhà có một hàng lu chứa nước mưa dùng quanh năm. Nhà mái ngói vách ván theo kiểu truyền thống Nam Bộ, gian chính có kê hai bộ ván gõ hai bên, một bàn gỗ gụ ở giữa trước bàn thờ và một chái bếp phía sau.

Ánh sống cùng với ông già và bà già, hai vị đều cao tuổi, ông dáng người cao lớn quắc thước với chòm râu trắng bạc phơ, Bà già là mẫu mực của một bà mẹ quê chính hiệu.

Vào đến nhà, ông mời tôi ngồi uống trà trong khi Ánh ra sau bếp chuẩn bị dọn cơm, lúc ăn, ông mang ra một chai rượu đế để cùng tôi nhăm nhi trò chuyện và tìm hiểu lai lịch của anh chàng thầy giáo trẻ này… chỉ có tôi và ông, hai người cưa hết gần một lít đế Gò Đen!

Hồi trước ở Sài Gòn, tôi với ba tôi cũng thường hay nhậu chung, ông chỉ thích rượu Tây, đại loại là Whisky, Black&White, rồi Seven, Gin (mùi bưởi), Martin, Beheive… nên tửu lượng cũng vào loại kha khá, nay làm quen với đế Gò Đen, là một danh hiệu nổi tiếng nên cũng không lấy gì làm say…vì rượu quá ngon, chai rượu trong vắt như nước mưa, rót ra cái ly nhỏ có vài bọt trắng nổi xung quanh miệng ly, uống rượu đế chỉ uống với cái ly nhỏ này, loại 12 ly thành một xị (chai xá xị 250cc). Khi uống là nốc cạn không chừa lại giọt nào, dòng rượu chảy qua cổ họng nong nóng nhưng liền sau đó có vị ngọt của rượu (không phải vị đường), dân nhậu kêu là rượu có hậu, không gắt, có người uống xong hà một tiếng cho đã! Có người thì chem chép miệng để tận hưởng hương vị sót lại, có người thì rùng mình lắc lư cái đầu… thôi thì đủ kiểu từ tao nhã đến… phức tạp bình dân!

Thời gian sau tôi về nhà Ánh thường hơn để tập sự công việc làm rể! Thật ra lúc đó tôi không hề nghĩ mình phải trải qua giai đoạn này, mãi sau mới biết do ông Nhạc gia còn giữ phong tục thời xưa nhưng không nói cho tôi biết, có hôm nghe Ánh nhắn về nhà giúp ông… cưa củi! Tôi cũng tranh thủ Chủ Nhật về phụ giúp ông. Thật sự mà nói chuyện giúp ông cưa củi chẳng có tác dụng gì, vì với kiểu thư sinh như tôi làm sao gánh vác mấy việc nặng?Nhưng tôi cũng cố gắng, ông một đầu, tôi một đầu, một già một trẻ cùng cưa một khúc cây lớn, hết một buổi chiều cũng xong vài khúc, thực ra do công sức ông cưa nhiều hơn, tôi chỉ có đẩy cưa phụ… và cũng xong một giai đoạn… (vì muốn làm rể thì việc đầu tiên là phải biết cưa củi!) và cũng chỉ cần một lần duy nhất.

Lần khác, Ánh nhắn tôi về giúp ông… nấu rượu! Cái này thì dễ đây và tôi cũng tò mò muồn tìm hiểu xem kỹ thuật nấu rượu đế Gò Đen như thế nào?

Vào đến nhà thấy ông đang xay nếp gần xong, nhà có cái cối xay bằng đất sét cứng với một lớp tre đan bao xung quanh giống như cái cần xé, có một tay đòn dài dùng để xay quay tròn, tay đòn có sợi dây thừng treo trên xà nhà. Cái cối xay đơn giản này chỉ xay lột vỏ trấu, hạt nếp vẫn còn một lớp lức bám xung quanh, nấu rượu người ta dùng nếp lức nấu đặng rượu hơn nếp trắng.

Ông đong nếp chuẩn bị nấu, một mẻ dùng mười lít nếp lức, nấu trong một cái nồi nhôm to. Nếp nấu xong thành xôi, xúc ra trải đều trên một tấm bạt ni-lông chờ nguội rồi bắt đầu rắc men. Men rượu mua ngoài chợ ở các mối quen có hình tròn giẹp, to cỡ nắm tay, bằng một loại bột pha trộn với vài vị thuốc Bắc có lẫn ít hạt trấu (do khi làm men, người ta phơi men trên khay có lớp trấu). Men trước khi trộn cần phơi nắng sơ cho giòn để dễ giã nát. Sau khi rắc men, dùng cái vá lớn để trộn cho đều rồi đem ủ trong mấy cái khạp nhỏ ngoài hè.

Sau khi ủ được ba ngày đến giai đoạn chan nước, chan nước là pha thêm nước vào khạp ủ cho xâm xấp, lúc chan khi mở khạp đã thấy có mùi rượu thơm nồng. Chan nước xong chờ thêm 3 hoặc 4 ngày nữa mới cất rượu tùy theo tiết trời nóng hay mát. Việc quyết định thời gian này do kinh nghiệm truyền qua nhiều đời.