CHÙA MỸ PHƯỚC
Trong gia đình, Ánh là thứ mười, con gái út. Tôi nghe Ánh kể: Trong anh chị em, lớn nhất là bà chị Hai, rồi đến anh Ba, anh Tư, chị Năm… mẹ Ánh khi sinh người thứ sáu, nuôi không được bao lâu thì qua đời, đến người thứ bảy cũng vậy, rồi thứ tám, thứ chín… cũng lần lượt lên bàn thờ rất sớm. Khi sinh ra Ánh, mẹ sợ quá bèn ẵm vào chùa nhờ thầy nuôi giúp hộ thân nên mới có ngày hôm nay. Ông thầy chùa đó tên là thầy Ba Chơi, trụ trì tại chùa Mỹ Phước ở xã Phước Vân, Cần Đước.
Đường đến chùa Mỹ Phước cũng không khó tìm, trên Quốc Lộ 1A, từ chợ Bình Chánh đi xuống khoảng năm cây số đến ngã ba chợ Gò Đen quẹo trái, đi khoảng hai cây số gặp ngã ba đầu tiên thì quẹo phải, theo con đường đất đỏ đi tiếp độ ba cây số nữa gần đến cầu Bà Đắc thì đến chùa, trước ngõ vào chùa có tấm bảng nhỏ ghi: “Chùa Mỹ Phước”. Ngõ vào chùa khá hẹp, xe hơi không vô được, chỉ vừa một chiếc xe ba gác, theo con đường nhỏ này đi thẳng năm trăm mét là vào đến cổng chùa.
Cách đây khoảng bảy tám chục năm, hồi đó chùa Mỹ Phước chưa có tên này, người dân trong vùng chỉ gọi là chùa Bà Đắc, thời đó chùa chỉ là một cái am nhỏ thờ Phật và cũng có thầy chùa ở giữ am, nghe người dân kể khu vực này xưa kia rất hoang sơ, cây cối um tùm và cái am thờ Phật cũng không biết do ai xây dựng, chỉ biết là có nhiều đời thầy chùa về tu ở cái am này nhưng luôn bị ma quỷ phá khuấy không vị nào tồn tại được lâu, hết ông này quy tiên thì đến ông khác về chầu Phật Tổ! Hồi đó vùng này có ma dữ lắm! Có thời gian am bỏ không, hoang lạnh không ai dám ở!
(Phía sau chùa là Chính Điện ngó về hướng Tây tiếp giáp với con rạch nhỏ ăn thông ra tận sông Vàm Cỏ Đông, ra đến sông lớn, xuôi theo về hạ lưu độ vài cây số là đến Vàm Nhật Tảo là nơi tiếp giáp sông Nhật Tảo với sông Vàm Cỏ Đông, cũng là địa danh nổi tiếng khi xưa Nguyễn Trung Trực đốt tàu Pháp ngay tại chỗ này vào năm 1861, chiếc tàu cháy được trục vớt cách đây ít lâu vẫn còn sót lại một số mảnh di tích.
Sau đó không biết từ đâu đến, có một ông thầy pháp cao tay ấn về đây khai khẩn xây dựng thành ngôi chùa. Đó là thầy Ba Chơi.
Theo lời người dân kể: ông thầy này không phải là thầy chùa, gọi là thầy pháp thì đúng hơn vì ông có vợ và con cái, tuy nhiên ông vẫn ăn chay tu hành tụng kinh niệm Phật hàng ngày và đặc biệt ông là cao thủ về bùa Lỗ Ban!
Ngoài việc tu hành, sửa sang chùa, khẩn hoang làm ruộng, ông còn chữa bệnh hốt thuốc làm phước cho người dân trong vùng, đặc biệt là con nít, ai có con nhỏ khó nuôi, cứ mang vào chùa nhờ thầy giúp là cháu bé ăn no ngủ yên mau lớn, cho nên danh tiếng của thầy ngày một vang xa…
NƠI Ở MỚI
Sau đám cưới, do hai vợ chồng cùng làm việc tại trường, tôi và Ánh được nhà trường sắp xếp một căn hộ nhỏ dưới dãy tập thể, nói là căn hộ, thực ra đây là phòng thí nghiệm cũ của trường hồi xưa, nay không còn sử dụng (trước đây là trường Nông Lâm Súc Long An).
Sinh hoạt ăn ở và làm việc ở đây cũng khá thuận tiện, vì xa chỗ văn phòng và lớp học, tôi và Ánh có thể chăn nuôi và trồng rau cải thiện bữa ăn hàng ngày, căn phòng nhỏ nhưng sạch sẽ, tôi ngăn ra làm hai gian, phía trước để soạn bài và tiếp khách, phía sau kê giường và bếp, ngoài ra tôi còn đóng một căn buồng tối dùng để tráng rọi hình (tôi có làm thêm nghề phụ nhiếp ảnh để kiếm thêm thu nhập).
TRỒNG RAU, NUÔI GÀ
Đàn gà của tôi cũng được vài chục con, thỉnh thoảng trong nhà kẹt tiền, tôi và Ánh lựa vài con mang ra chợ bán. Muốn đi bán gà phải đi thật sớm vì lái thu mua phải gom lại rồi chở lên Chợ Lớn cho kịp chuyến buổi sáng. Tôi dậy lúc 3 giờ sáng, mấy con gà đã lựa trước hồi chiều, cột gà xong bỏ vào giỏ rồi chở Ánh đi chợ Gò Đen bằng xe đạp. Đường quốc lộ thời đó rất vắng vẻ ít có xe cộ qua lại mà cũng chẳng có đèn đường gì hết, trời tối thui chỉ thấy lờ mờ. Gần đến chợ có mấy người thu mua gà dọc đường, họ làm dấu bằng cây đèn dầu nhỏ đặt cạnh lề đường. Cân gà tính tiền xong, tôi đưa Ánh vào chợ mua ít thức ăn, bó rau, miếng thịt, trong khi chờ đợi, tôi ghé quán cà phê đầu chợ nhăm nhi chút cà phê sáng sớm.
QUÁN CÀ PHÊ
Chủ quán tên là Chín Sứt, gọi là Chín Sứt vì ông bị tật… sứt môi, quán khá đông khách, mới khoảng bốn giờ sáng mà cũng đông nghẹt. Tôi gọi một ly cà phê đen, rồi ghé qua hàng kế bên mua hai cái bánh cam ngào đường lót dạ. Móc ra bịch thuốc rê vấn một điếu (thời đó thuốc điếu loại “có cán” rất hiếm và đắt! Thuốc lá thường chỉ có “Vàm Cỏ” hoặc “Đalat”). Nói là thuốc rê, thật ra cũng là thuốc lá sợi bán từng trăm gờ ram, một trăm gram hút cả mấy tuần mới hết! Vấn thuốc bằng loại giấy quyến bán kèm theo, mà phải là giấy quyến mới được, giấy bán thành từng tờ lớn như tờ báo có màu nâu nhạt về nhà rọc ra rồi cuộn lại từng cuộn nhỏ với bề ngang tương tự điếu thuốc, khi rọc phải nhắm cho đúng sớ để dễ xé và điếu thuốc không bị gãy ngang. Dân vấn thuốc thường nói đùa là: “Bóc, Lăn, Xe, … Liếm”, le lưỡi liếm mối dán rất chắc không bao giờ sút, không biết nước bọt có chất keo gì lại hạp với tờ giấy quyến!
Ngồi tà tà nhăm nhi cà phê, tôi quan sát xung quanh, chợ Gò Đen họp chợ rất sớm, từ đầu hôm 12 giờ khuya chợ bắt đầu họp đông dần, hàng quán tấp nập đủ các mặt hàng nông sản từ bán sỉ cho đến cây nhà lá vườn nhỏ lẻ của các bà mẹ quê: trái bầu trái bí, bó rau, con vịt. Ở chợ quê tôi rất thích món “cá trắng”, gọi là cá trắng vì nó là cá tạp nhỏ các loại màu trắng bạc đựng trong rổ, thúng, còn rất tươi gồm nhiều loại khác nhau được lưới, vớt từ các ao, đìa, rạch, con cá chỉ dài cỡ ngón út, đủ loại, có con nhỏ dài, có con tròn giẹp… lẫn mấy con tép nhỏ nhẩy tanh tách! Mặt hàng này bán rất chạy, khi mặt trời mọc thì đã không còn. Cá trắng kho lạt với đường, nước mắm ngon, tóp mỡ trong cái nồi đất, rắc nhiều tiêu vào, bỏ vô nhúm hành lá xắt nhỏ dọn ra là có thể đưa cay vài xị, khi ăn, gắp vài con cá với con tép cộng với miếng tóp mỡ béo ngậy thơm mùi tiêu… chắc là không có món nhậu đồng nội nào có thể ngon hơn!...
"Cá Trắng"; và "Cây nhà lá vườn"
Trở lại quán cà phê, ngó quanh quất trong quán khá đông, thanh niên có, ông già có, bàn chuyện đồng áng râm ran xôm tụ, nhìn lên tường, chủ quán ghi chi chít tên, ngày tháng của những người… mua thiếu! Không như các quán khác, sổ nợ thường cất riêng ghi chép khách mua hàng còn nợ, ở đây ông Chín Sứt ghi thẳng… lên vách tường cho dễ nhớ. Nào là:
- Năm Mập: 2 cà phê, 5 điếu Vàm Cỏ…
- Anh Ba Làng: 10 ký cám…
- Út Nhỏ Phước Lợi: 1 cà phê, nửa gói Vàm Cỏ (lâu lắm rồi nghen)…
…………………………..
Ở vùng này người dân sống đơn giản hiền lành, ghi tên công khai như vậy cũng chẳng thấy ai phiền hà gì.
Nhăm nhi hết ly cà phê thơm mùi… bắp rang, uống gần hết bình trà nóng là Ánh đi chợ xong, chúng tôi cọc cạch đạp xe về trường để chuẩn bị cho ngày làm việc mới.
BÓNG TRẮNG BÍ ẨN LÀ AI?
Cuộc sống êm ả bình lặng như vậy cứ trôi qua, cứ khoảng một hai tuần, tôi và Ánh đạp xe về nhà thăm ông bà già, nhân tiện xúc bịch gạo Nàng Thơm về ăn vì lúa ở nhà đầy bồ, gạo thơm đầy khạp, còn số gạo lãnh tiêu chuẩn nhà nước thì… mang ra chợ bán! Tôi có thêm nghề nhiếp ảnh, mỗi tuần cũng kiếm được vài mối đi chụp đám tiệc trong xóm, chụp xong về tự tráng rửa lấy từ A đến Z nên số lời cũng kha khá!
Một hôm, nửa đêm tôi thấy Ánh choàng dậy vẻ mặt lo lắng! Ánh khều tôi nói nhỏ:
- Anh à, hình như nhà mình có người?
Tôi thức dậy cũng còn ngái ngủ hỏi:
- Em thấy gì?
- Có bóng người mặc đồ trắng đi ngang phòng đó anh!
- Nhà khóa cửa trước mà, chắc là ánh đèn xe chạy ngoài lộ thôi mà em.
Ánh dòm quanh quất rồi nằm xuống ngủ lại, lát sau, Ánh lay mạnh tay tôi:
- Anh à! Có người thật đó, em thấy vừa thoáng đi ngang dưới chân giường!
Tôi choàng dậy tỉnh ngủ hẳn, leo xuống giường, bật đèn rồi đi lên phòng trước, cửa vẫn khóa chốt, cánh cửa sổ phía sau chỗ bếp là cửa xếp còn mở nhưng khe cửa hẹp, không ai có thể chui vào được, tôi đi một vòng nữa kiểm tra cho chắc rồi vô giường trấn an:
- Anh coi kỹ rồi, không có gì đâu, chắc em nằm mơ thôi.
Ánh vẫn tỏ vẻ lo lắng nhưng không nói gì. Sau đó ngủ yên đến sáng.
Vài hôm sau sự việc lại xảy ra tương tự, cũng cái bóng trắng thấp thoáng phía chân giường, Ánh cũng gọi tôi, nhưng tuyệt nhiên tôi không hề thấy gì.
Bẵng đi một tháng, không thấy cái bóng trắng thấp thoáng đó nữa. Một hôm vào lúc trưa, giờ nghỉ, Ánh về nhà trước, tôi bận họp với các giáo viên bộ môn nên về sau, về đến nhà thấy Ánh đang nằm ngủ mê man, chắc công việc hôm nay nhiều, bận lo sổ sách giấy tờ chăng? Đột nhiên Ánh vùng dậy la lớn:
- Không đi đâu!… Không đi đâu!… Đi ra đi!… Đi ra đi!...
Tôi vội lay Ánh dậy hỏi:
- Chuyện gì vậy? Em thấy gì?
Ánh mở mắt ra nhìn ngơ ngác hoảng sợ nói giọng đứt quãng:
- Có người vào tận giường… rủ em đi xuống ao chơi… người đó bận đồ trắng… em không nhìn rõ mặt nhưng thấy tóc dài…cứ kéo tay em… nói là đi xuống ao!
Tôi thấy cảm giác lành lạnh ở sống lưng, nhưng cũng cố trấn an vỗ về:
- Không có gì đâu, chắc hôm nay em mệt nên thấy lung tung vậy thôi, dậy đi, pha ly nước chanh cho khỏe, chiều còn lên văn phòng làm việc.
Hai hôm sau đến Chủ Nhật, trong lúc Ánh ở nhà nấu cơm, tôi lửng thửng xuống thăm nhà Thầy Hương, gặp anh đang lu bu với con heo sắp đẻ và bầy gà vịt chạy quanh loạn xạ kêu quang quác, nhìn anh tíu tít bận rộn tôi thấy cũng tức cười. Tôi hỏi anh:
- Anh Hương à, tui có chút chuyện muốn hỏi thăm, anh có rảnh không?
- Ờ, muốn rảnh thì rảnh, thôi vô uống trà đã, mà có chuyện gì vậy?
Vào nhà, anh pha bình trà “Cẳng Đen” có màu nâu đậm, hớp một hơi, chờ anh thư giãn xong tôi mới tường thuật lại câu chuyện của cái bóng trắng bí ẩn thấp thoáng trong nhà tôi, và đặc biệt mới đây đã vào tận giường rủ Ánh đi xuống ao.
Anh Hương là nhân vật vui tính tiếu lâm nhất trường, nhưng sau khi nghe tôi kể, anh chỉ ngồi im re, vẻ mặt đăm chiêu rồi gật gù:
- Vậy là nó rồi, sao nay nó lại quậy dữ vậy ta?
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Nó là ai vậy anh?
Ngồi thừ người ra một lát, anh Hương mới từ từ kể…
CÔ KẾ TOÁN BẠC MỆNH
“…Cách đây khoảng năm năm, hồi đó lúc mày chưa về trường, trường này mới vừa xây xong hai dãy mới, học trò ít vì là khóa đầu tiên kêu là khóa một, nhân viên cũng không nhiều, đa số đều là dân quanh vùng nên chiều là về nhà hết, có rất ít người ở lại, có một cô nhà ở Đức Hòa làm kế toán, tao không dám kêu tên ở đây, cô ấy còn độc thân nên trường sắp xếp một phòng riêng trên lầu để ở lại…
…Cô ấy hiền và ít nói lắm, tôi nghiệp thân gái đi làm xa, một mình tự lo mọi thứ, cuối tuần mới về nhà. Hồi đó trường còn thiếu thốn nhiều thứ, ngay cả nhà tắm nhà cầu cũng không có! Nhân viên trường cũng có vài người ở lại, trong đó có tao, đàn ông như mình thì chuyện vệ sinh cá nhân hàng ngày cũng dễ dàng giống như hồi mày mới về trường đó! Nghĩa là tối đi toa-lét ngoài… ruộng, còn tắm thì cứ việc ra ao, xuống múc nước lên xối vài cái là xong, thay đồ thì núp vô mấy cái bụi cây! Những chuyện này ở đây nó cứ bình thường với mọi người nên không mấy ai quan tâm. Cô kế toán đó cũng vậy, tội nghiệp còn trẻ nên nhát lắm, cô ấy chờ đến tối mịt không còn ai mới ra ao tắm. Ở như vậy được đâu vài tháng, một hôm, tụi học trò trực đêm đi tuần ngang qua ao tắm thấy có đôi dép còn trên bờ mà không thấy người, sinh nghi tụi nó chạy đi kêu người trợ giúp, còn lại một đứa lặn xuống ao mò thử thì phát hiện cô ấy chết từ hồi nào ở dưới đáy ao!...”
Uống một ngụm nước trà, thở dài một tiếng, anh Hương kể tiếp:
- Xác cô ấy được đưa lên bờ, lúc đó là nửa đêm, mọi người ai cũng bối rối không biết phải làm sao, cuối cùng nhờ một anh có xe Honda chạy gấp liền về Đức Hòa thông báo cho gia đình ngay trong đêm, còn lại thì quàn đỡ cô ấy… ở cái phòng mày đang ở đó!
Nghe xong, tôi lặng người, tóc tai muốn dựng đứng lên, cứ ngó chăm chăm vào mắt anh Hương và cố nghĩ rằng anh ấy đang nói giỡn! Nhưng nhìn vẻ mặt anh ấy thì rõ ràng là không hề giỡn chút nào...
Cáo từ anh Hương, tôi trở về nhà, lúc đó Ánh cũng đang dọn cơm ăn trưa, tôi ngồi im vừa ăn vừa suy nghĩ chuyện anh Hương kể lúc nãy, Ánh hỏi tôi:
- Bữa nay ăn cơm sao không nói gì vậy?
Nghĩ ngợi một lúc, tôi quyết định kể cho Ánh nghe câu chuyện vừa rồi, nghe xong Ánh cũng làm thinh rồi ngó quanh quất như tìm cái gì đó, rồi Ánh nói:
- Chuyện này mấy năm nay sao không nghe ai kể vậy? Mà có thiệt không anh?
- Anh nghĩ là thiệt đó! Để hỏi thử chị Hiến xem sao?
Chị Hiến là vợ anh Hương, cũng làm kế toán, anh chị cưới nhau trước khi tôi về trường khoảng một năm. Chiều hôm đó, tôi và Ánh cùng xuống nhà anh Hương để hỏi kỹ anh chị lại cho chắc, gặp chị Hiến, chị ấy tủm tỉm cười:
- Hai đứa sợ ma phải không? Chuyện anh Hương kể là thiệt đó, vì sau khi cô ấy mất thì chị về đây làm kế toán thay thế cho cô ấy mà!
Chị Hiến nói tiếp:
- Nếu hai đứa em sợ thì kêu nhà trường đổi qua phòng khác, trên lầu còn nhiều phòng trống đó!
Tôi ngần ngừ lúng túng:
- Thôi chắc không sao đâu, vả lại ở dưới này tiện sinh hoạt chăn nuôi trồng trọt, lên trên đó tù túng lắm, với lại cũng kỳ nữa, ai đời sợ ma phải dọn đi, rồi ăn nói sao với học trò đây? Thiên hạ đồn ra chắc độn thổ quá!
Nói thì mạnh miệng vậy, nhưng lúc trở về nhà, tôi bàn tính với Ánh:
- Hay là mình mua đồ về cúng được không em?
Vừa nghe tôi nói xong, Ánh chợt sáng mắt lên:
- Em có cách rồi, nhờ thầy Ba Chơi giúp là xong!
Tôi cũng chưa hiểu rõ lắm, hỏi lại:
- Ủa? Nhờ thầy Ba giúp là sao?
- Thì rước thầy vô đây tụng kinh siêu độ cho cô ấy!
- Trời đất? Đây là trường học mà em? Làm sao nhà trường cho phép?
- Em có cách rồi, anh đừng lo, dễ ợt hà!
CHÙA THẦY BA CHƠI
Chiều hôm đó, Ánh kêu tôi chở về nhà gặp ông già, ngồi nhậu với nhạc gia, tôi thủng thẳng kể lại từ đầu tới đuôi toàn bộ câu chuyện. Ông già bình thản nói:
- Nếu bây muốn mời thầy Ba vô trường tụng kinh siêu độ cho người ta thì để tao vô luôn gặp ổng để nói chuyện, lâu lắm rồi tao cũng chưa gặp thầy, có hai người lớn vô trỏng, không ai nói gì đâu!
Tôi mừng húm liền nhanh nhẩu:
- Để con coi lấy xe đạp về rước ba vô!
Ông già cười ha hả trả lời:
- Bây sao chở nổi tao? Mà thôi tao đi bộ quen rồi, để coi, bây tính chừng nào?
- Vậy Chủ Nhựt tuần tới được không ba?
- Ờ cũng được, nhưng nhớ vô chùa mời thầy trước coi thầy có rảnh không đã!
- Dạ được, mai tụi con đi vô chùa thăm thầy, vậy thôi, tụi con về trỏng nghen ba!
Lật đật trở lại trường vì trời sắp tối, còn phải cho heo ăn, rồi mấy con gà nữa…
Hôm sau Ánh xin phép nghỉ buổi chiều, còn tôi thì sáng dạy 5 tiết, chiều rảnh, không cần xin phép, tôi chở Ánh đi xuống chùa thầy Ba, chiếc xe đạp cọc cạch chạy ngang chợ Gò Đen, giờ này chợ vắng hoe, chiều có lác đác vài hàng quán bán đồ ăn, bánh cuốn, hột vịt lộn, đường cũng khá xa, từ trường tới chùa cũng tám chín cây số chứ không ít. Qua con đường đất đỏ, nhà cửa thưa thớt, ruộng lúa mênh mông, gần đến chùa, có xóm nhỏ làm nghề dệt chiếu, các bó lác dựng ngổn ngang chất đống. Từ con đường đất đỏ vào chùa đi theo bờ ruộng hồi đó bề ngang còn nhỏ xíu, chỉ vừa hai chiếc xe đạp. Trước chùa có chiếc cổng đơn sơ bằng xi măng cũ kỹ, xung quanh hàng rào bằng đủ loại cây: bình bát, dâm bụt, dừa nước… có một con mương lớn nối liền ra con rạch ở phía sau chùa, hai bên mương trồng nhiều dừa cao, trĩu nặng trái.
Chùa lợp ngói, mái hơi thấp so với các chùa khác, vách tường gạch đóng rêu.
Đi qua cổng, tôi đã nghe tiếng búa đẽo lốp bốp, gặp thầy ngồi dựa hàng ba, tóc bạc, hàm râu trắng dài trông đẹp lão, xung quanh có mấy miếng ván nhỏ để ngổn ngang, tôi với Ánh cung kính chào hỏi thầy:
- Con chào bác Ba! Bác đang làm gì vậy?
Thầy cười ha hả trả lời:
- Tao đang làm mấy cái… bài vị cho người ta đó mà! Tụi bây vô có chuyện gì không?
- Dạ cũng có chút chuyện đó bác Ba.
Tôi ngồi bệt xuống đất xem thầy làm đồ mộc, mấy miếng ván dẹp dài độ bốn tấc bằng gỗ thao lao, được thầy khắc lên đó mấy hình chữ Tàu hay chữ gì đó không rõ, thầy cho biết người ta đặt làm mấy thứ này để cúng trên bàn thờ, tên tuổi của những người đã khuất, khắc xong, thầy dùng sơn đỏ quét lên cho nổi các chữ khắc, kỹ thuật thầy làm trông cũng khá tinh xảo.
Phủi tay lấm tấm mấy mảnh gỗ, thầy mời tôi với Ánh vô phòng khách nói chuyện. Ánh gọi thầy là Bác Ba, vì thầy là người nuôi Ánh từ lúc mới sinh, nói là nuôi thật ra chỉ những ngày rằm, mẹ mới bồng Ánh vô chùa để thọ phép thầy và ăn bữa cơm chùa với thầy.
Tôi để Ánh nói chuyện với thầy, còn lại ngồi nhìn quanh quan sát, chùa trông khá cổ, chỗ tiếp khách thập phương rộng rãi, có một bộ ván lớn kê bên góc trái, xung quanh bày la liệt bàn thờ các vị Thánh, Tổ Sư, … hai ông Thiện Ác đứng hai bên, nhang đèn khói hương nghi ngút! Còn một gian chính điện lớn ở phía sau (thật ra là mặt trước chùa) nhìn ra con rạch lớn, nơi thờ Phật Thích Ca. Có hai lối đi hai bên lên chính điện, cạnh lối đi, thầy để sẵn hai cái… hòm bằng gỗ đen mun kê trên hai bộ chân giá! Nghe thầy nói thầy làm sẵn để dành cho thầy và bác Ba gái! Ở hai cột lớn bên phòng tiếp khách có treo hai cái đồng hồ quả lắc khá cổ nhưng giờ… chỉ khác nhau, một cái sớm hơn cái kia một tiếng! Tôi thắc mắc hỏi thầy:
- Ủa? Sao hai cái đồng hồ chạy không giống nhau vậy bác?
Thầy lại cười ha hả trả lời:
- Ờ thì một cái chạy giờ thời ông Diệm, còn một cái chạy theo giờ nhà nước bây giờ! Tao quen xài giờ hồi trước rồi.
- Ủa? Trước giờ chỉ khác nhau có một tiếng, đâu có sao đâu bác?
- Nhưng tao cần dậy đúng giờ để luyện Công Phu!
- Luyện Công Phu là gì vậy bác?
Thầy trả lời ậm ờ:
- Thì… tụng kinh thôi.
Tôi cũng không hiểu công phu với tụng kinh là như thế nào, có lẽ có bí mật gì đó mà thầy không muốn nói ra nên không hỏi nữa.
Sau khi nghe Ánh kể xong câu chuyện về cái bóng trắng bí ẩn và cô kế toán vắn số, thầy ngồi trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Được rồi, để bác Ba giúp cho, bác sẽ đưa người ấy về chùa siêu độ, vì người này chết oan nên hồn vía vẫn còn lẩn khuất, mà bây muốn ngày nào tao vô trỏng?
- Dạ Chủ Nhựt tới được không bác? Tụi con có mời ba con vô nữa, lâu ngày gặp bác chắc ba con mừng lắm!
Thầy Ba cười hà hà:
- Được rồi được rồi, khoảng 10 giờ nghen, tụi bây khỏi vô đây nữa, tự tao sẽ vô trỏng.
- Dạ, tụi con cám ơn bác Ba!
Được thầy nhận lời, tôi và Ánh vui mừng khôn xiết, nhanh chóng kiếu thầy quay về, trên đường về, tôi ghé qua nhà để thông báo cho nhạc phụ đồng thời xin ông chai rượu đế loại ngon nhất để dành đãi thầy sắp tới.
PHÉP THUẬT THẦY BA
Sáng Chủ Nhựt tôi dậy thật sớm lo dọn dẹp nhà cửa sắp xếp lại mấy thứ để chuẩn bị đón hai vị bô lão thượng khách, tôi chở Ánh ra chợ Gò Đen để mua ít trái cây, bình bông dùng bày cúng, đồng thời ít rau, củ cải muối, đậu hủ và nấm rơm tươi làm đồ nhậu.
Nhạc phụ tôi vô trường khá sớm, mới hơn chín giờ đã thấy ông đến trước cổng, tôi lật đật chạy ra để đón ông và hướng dẫn ông vô nhà, lát sau là thấy thầy Ba đi trên chiếc xe đạp đòn dông dừng trước ngõ, tôi ra giúp ông dắt xe vào dựng kế bên cái chuồng gà, thầy vận bộ đồ bà ba trắng, vai đeo tay nải lỉnh kỉnh vài thứ đồ nghề, trông thầy hôm nay dáng vẻ phương phi đẹp lão, gặp nhạc phụ trước cửa, hai ông vui vẻ chào hỏi thân thiết. Thầy hỏi tôi:
- Chỗ này phải không bây?
- Dạ đúng rồi bác Ba.
Thầy ngó quanh quất rồi đặt tay nải lên cái kệ, tôi kéo ghế mời ngồi, hai ông lão trò chuyện rất tâm đắc, thầy đã cao tuổi nhưng giọng nói thì sang sảng mạnh mẽ!
Nhìn hai ông lão trò chuyện, tôi bất giác liên tưởng mình đang chứng kiến hai vị tiên ông! Cả hai vị đều có bộ râu trắng dài, đều vận bộ bà ba trắng, nói chuyện điềm đạm, sắc mặt vui tươi hồng hào!
Trò chuyện tầm nửa điếu thuốc, thầy bắt đầu làm việc, bảo tôi dọn dĩa trái cây, bình bông, ba ly rượu trắng, sắp sẵn lên bàn, sau đó thầy kêu tôi lấy ra ba cái chén sành đem úp lên bàn sát tường, tôi nhất nhất làm theo mọi thứ thầy dặn, lúc tôi bày biện các thứ, thầy lấy ra trong tay nải: cái chuông nhỏ, một cái mõ và cây dùi nhỏ. Mọi việc sắp đặt đâu đó xong xuôi, năm nén nhang được đốt lên, cái chuông thầy để lên bàn, tay trái cầm mõ, tay phải cầm dùi, thầy bắt đầu tụng…
Thầy tụng một vài bài kinh kệ, giọng thầy lúc bổng lúc trầm, lúc nghe mạnh dạn, lúc nghe ai oán, chất giọng sang sảng cộng với tiếng mõ lóc cóc, thỉnh thoảng đệm vài tiếng chuông ngân nga giữa trưa vắng lặng, tôi nghĩ có lẽ tuốt trên dãy phòng làm việc ai nấy cũng đều nghe thấy!
Chừng tàn nửa cây nhang, các bài kinh kệ thầy đã tụng xong, đặt mõ và dùi sang một bên, thầy móc trong túi áo ra một bịch ni-lông, trong có gói kỹ thứ gì đó dưới một lớp giấy. Mở lớp giấy ra, tôi thấy có vài lá bùa nhỏ cỡ bằng bao thuốc lá bằng giấy mỏng màu vàng, có viết sẵn chữ gì không rõ ngoằn ngoèo màu đỏ!
Lấy ra một miếng bùa, thầy đặt cẩn thận giữa lòng bàn tay phải (lúc này tôi tò mò và chăm chú quan sát các động tác của thầy rất kỹ không sót một chi tiết, vì là dân khoa học mà! Chỉ đứng cách thầy không hơn nửa bước!), tiếp theo, thầy lấy ly rượu cúng đang để trên bàn, hớp một ngụm rồi tay trái vén tay áo bên tay phải, ngửa lòng bàn tay có miếng bùa, thầy phun rượu vào cái miếng bùa ấy… miếng bùa ướt đẫm!...
Từ từ bàn tay có miếng bùa thầy nắm chặt lại, quơ quơ lên không, miệng đọc mấy câu thần chú càng lúc càng nhanh rồi đột nhiên thầy xòe tay ném lá bùa về phía ba cái chén đang đặt úp trên bàn… lá bùa biến mất!...
Tôi đang ngạc nhiên vì không biết lá bùa đã biến đi đâu, thì thầy xoa tay bảo tôi:
- Con hãy chọn một trong ba cái chén.
- Chén nào bác Ba?
- Cái nào cũng được, con cứ tự chọn một cái.
Tôi nhắm đại cái chén đặt ở bìa bên phải, khi tôi đặt tay lên cái chén, thầy nói tiếp:
- Giờ con hãy từ từ hí nó ra, nhớ đừng mở hẳn! Mà chỉ hí hí lên coi có cái gì ở trỏng?
Tôi làm theo thầy dặn, dở nhẹ cái chén úp và cúi xuống nhìn bên trong… trời đất! Cái miếng bùa biến đâu mất hồi nãy, giờ đã nằm gọn bên trong cái chén, vẫn còn ướt đẫm!
Tôi thật không tin vào mắt mình, nhất nhất mọi động tác của thầy Ba tôi đều chủ tâm quan sát, và ba cái chén sành tôi đặt úp lên bàn từ lúc đầu vẫn nằm yên chỗ đó tới giờ, vậy sao miếng bùa lại bay vào đây được? Tại sao tôi lại chọn đúng cái chén có miếng bùa ướt với xác xuất chỉ có 33%? Khi thầy bảo tôi chọn cái chén và mở nó ra, ý thầy y như rằng tôi sẽ chọn đúng phóc cái chén đó là 100%, dáng vẻ thầy rất bỉnh thản và xem như nó phải diễn tiến ra đúng như vậy!
Trong lúc tôi vẫn còn giữ cái chén, thầy kêu Ánh vào cũi chén lấy cho thầy một cái dĩa sành, rồi thầy đặt cái dĩa bên dưới mép bàn, tay cầm cái chén có miếng bùa rê từ từ rồi úp vào cái dĩa, sau đó thầy lấy trong tay nải một miếng vải trắng gói kỹ cái chén và cái dĩa buộc chặt lại, thầy nói:
- Tao đã thu phục hồn vía chết oan này rồi, nó nằm ở đây, tao sẽ mang về chùa để tụng kinh siêu độ cho nó.
Nói xong thầy dọn dẹp các thứ vào tay nải, chuông mõ, dùi… và đặt lên cái kệ nhỏ của tôi trong phòng.
Việc thầy đã xong, giờ Ánh bắt đầu dọn ra các món chay đãi thầy gồm có: nấm rơm xào cải ngọt, đậu hủ, cháo nấu nấm rơm với củ cải muối… Thầy cùng dùng bữa với nhạc phụ tôi. Với tất cả diễn biến, nhạc phụ tôi vẫn ngồi yên đó chứng kiến, không thấy ông lộ vẻ kinh ngạc hay bất ngờ gì, đối với ông đó là bình thường, rất bình thường, vì ông đã chứng kiến tài nghệ của thầy Ba rất nhiều lần trong cuộc đời ông, không phải chỉ mới lần này, đối với nhạc phụ, ông có niềm tin tuyệt đối vào phép thuật của thầy Ba Chơi! Và nay với tôi cũng vậy.
Sau khi đưa tiễn nhạc phụ và thầy Ba ra về, quay trở vào phòng, tôi bắt đầu lo lắng cho ngày mai… không phải vì bóng trắng bí ẩn đó, bởi vì tôi tin chắc nó sẽ không bao giờ xuất hiện nữa, mà là liệu trên văn phòng, Ban Giám Hiệu có mời tôi lên để làm kiểm điểm không? Vì ở đây là trường học nhà nước, tôi là giáo viên bộ môn khoa học, lại đi rước một pháp sư về tụng kinh inh ỏi để bắt ma! Điều này là không thể chấp nhận được với họ! Tôi đang suy nghĩ sắp xếp từng câu hỏi và các câu trả lời sao cho hợp lý nhất…
Nhưng đến ngày Thứ Hai, rồi Thứ Ba…tiếp tục hết tuần, qua đến tuần sau, tất cả mọi người trong trường đều im lặng, câu chuyện diễn ra ồn ào hôm Chủ Nhựt ở nhà tôi ai cũng biết nhưng đều cho vào quên lãng, từ Ban Giám Hiệu cho đến mấy ông trong chi bộ Đảng, nhất nhất ai nấy đều nín thinh, không thấy ai nhắc đến, không hề…
ĐẶT TÊN NHÀ PHẬT CHO CON GÁI
Năm năm sau đó, Ánh sinh cho tôi một bé con xinh xắn, chỉ sau ngày đầy tháng bé, tôi rời bỏ ngôi trường để trở về Sài Gòn tìm công việc khác cho tương lai, tôi đưa cả hai mẹ con trở về nhà bố mẹ ruột, vài tháng sau, tôi sắp xếp để đưa Ánh cùng con gái về quê thăm nhạc phụ và cũng ghé qua chùa để thăm thầy Ba đồng thời xin thọ phép thầy cho con gái.
Bồng bé con vào chùa, đặt bé nằm trên bộ ván gõ, bé nằm ngọ ngoạy trong bộ áo đầm rất dễ thương, lúc thầy làm phép, nhìn thầy khoa tay múa chân, bé mở mắt tròn xoe nhìn thầy, khi thầy dùng một nhánh hoa gõ nhè nhẹ vào miệng bé vừa gõ vừa đọc:
- Con ngoan, ngủ yên, ăn no, mau lớn, ăn nói thơm tho như bông như hoa…
Chắc con bé nhột nên nó bật cười hăng hắc! Thầy cũng vui lây, thầy nói:
- Con bé này lanh lợi lắm đây, sau này bây khỏi lo cho nó, thôi hôm nay con đến chùa của thầy, thầy đặt tên con là Ngọc Trừ nghe.
Sáu năm sau, khi bé con lớn lên đi vào lớp Một, tôi có kể câu chuyện thầy Ba cho con gái nghe và cái tên thầy đặt cho con, tôi hỏi bé:
- Thầy Ba đặt tên con là Ngọc Trừ, con có thích cái tên này không?
Bé con hỏi lại:
- Tên con là Ngọc Trừ, vậy có tên là Ngọc Cộng không bố?
Tôi bật cười với cái thắc mắc ngây thơ con trẻ, tôi nói:
- Bố không biết, nhưng chắc không có cái tên đó đâu, chỉ có Ngọc Trừ thôi con, vậy con có thích không?
Bé con ngẫm nghĩ một hồi rồi trả lời:
- Dạ thích bố, cái tên nghe hay hay, tên nhà Phật hả bố?
- Ừ, tên nhà Phật, của thầy Ba đặt…
…………………………………………
"Ánh và con gái mới đầy tháng, những ngày cuối trong căn phòng trước khi về Sài Gòn"
"Bé Ngọc Trừ nay đã lớn"
Thầy Ba đã qua đời cách đây hơn mười năm, kế nghiệp thầy là người con thứ mười gọi là thầy Mười Quế, hiện vẫn còn trụ trì tại chùa Mỹ Phước. Tôi nghĩ chắc thầy Ba cũng có truyền nghề cho thầy Mười về những phép thuật bí ẩn của bùa Lỗ Ban và thầy Mười cũng có ứng dụng một số cho đến ngày hôm nay, tôi cũng có xin thầy một vài phép bí mật riêng để hộ thân và thấy nó rất hiệu nghiệm. Chỉ dùng để hộ thân, không bao giờ dùng để hại người khác.
Huyền thoại về thầy Ba Chơi truyền tụng khắp vùng Gò Đen, Bến Lức, thời ấy mọi người ai cũng đều biết, nhất là thế hệ già trước đó, với những bí ẩn mà khoa học không sao giải thích được.
THANH LONG
PLANO, TEXAS 2015