Có người còn nói với tui là ngày xưa, hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Bến Nghé, Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ. Chàng từng cầm quân mấy lần đánh cho tan tác thầy trò Nguyễn Ánh. Nhà Tây Sơn mất, Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người từng theo nhà Tây Sơn. Dân trong xóm quý mến chàng, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ để tiện đi lại. Và chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vô nước Chân Lạp. Một bữa nọ, chàng dừng thuyền, lên bộ để mua sắm thức ăn. Chàng bước vô một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà-Lơn, về tới đây thì người con bị bịnh nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng đã cứu chữa cho cô gái khỏi bịnh. Sẵn có thuyền, chàng chở họ về tận nhà. Cô gái đem lòng quyến luyến chàng. Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui mừng nhận lời và từ đó hai vợ chồng làm ruộng, nuôi tằm, xây dựng gia đình đầm ấm. Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn trái kêu là cây "tu-rên" mà ở xứ sở chàng không có. Tới mùa trái chín, vợ bổ một trái đưa cho chồng ăn. Trái "tu-rên" vốn có một mùi khó chịu. Thấy chồng nhăn mặt, vợ nói: “Anh ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây nè.”
Không ngờ một ngày kia, vợ đi dâng hương Đế Thiên, Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tuy cách trở âm dương, nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng. Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê nhà nhắn tin lên kêu chàng về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu đó cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã xứ chùa Tháp. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết sẽ đi theo cho đến sơn cùng thủy tận. Năm đó, cây "tu-rên" tự nhiên chỉ ra mỗi một trái. Trái "tu-rên" đó lại tự nhiên rụng dưới chân chàng giữa lúc chàng ra thăm gốc cây kỷ niệm ngày ôm vợ lần đầu. Chàng mừng rỡ, quyết đưa nó cùng về xứ sở. Chàng lại trở về nghề dạy học, nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hột "tu-rên" thành cây, đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đó ngoài công việc dạy học, chàng còn có việc chăm sóc cây quý. Cây "tu-rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã lốm đốm bạc. Nhưng ông thấy lòng mình trẻ lại khi những cây "tu-rên" mà bấy lâu nay ông chăm chút bắt đầu khai hoa kết trái. Ông sung sướng mời họ hàng, làng xóm tới nhà nhơn ngày giỗ vợ và luôn tiện thưởng thức một thứ trái lạ chưa hề có ở trong vùng. Khi những trái "tu-rên" được bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Chủ nhân biết ý, đã nói đón: "Nó xấu xí, có mùi khó chịu, nhưng ăn vô nó ngon béo thấu trời xanh, càng ăn càng thấy đậm đà như tình Ngưu Lang Chức Nữ...". Ông ta vừa nói vừa bổ những trái "tu-rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Đoạn, ông ta kể hết câu chuyện tình duyên xưa mà từ khi về tới nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể hoài, kể hoài, kể xong, ở khóe mắt con người chung tình đó, hai giọt nước mắt long lanh tự nhiên nhỏ vô múi "tu-rên" đang cầm trong tay. Hai giọt nước mắt đó sôi lên trên múi "tu-rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vô múi "tu-rên" như giọt nước thấm vô lòng đất. Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông đó tự nhiên không bịnh mà chết. Từ đó, dân làng mỗi lần ăn thứ trái đó đều nhớ tới người gây giống, nhớ tới chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu-rên" bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng trai. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc loại hột có hai giọt nước mắt mới là thứ sầu riêng ngon, béo và thơm hơn các giống sầu riêng khác.
Do chứa chất acid amin tryptophan cao, nên sầu riêng có tác dụng giúp giảm bớt trầm cảm, mất ngủ, tạo ra cảm giác thư thái cho con người bằng cách tăng mức độ serotonin trong não bộ, đẩy lùi tình trạng lo âu, chán nản. Sầu riêng còn giúp làm sạch máu và là một loại trái cây giúp kích thích hưng phấn tình dục mạnh mẽ. Hầm hột sầu riêng với các bộ phận của dê như thịt dê, thận dê có tác dụng bổ thận tráng dương, dùng cho người bị rối loạn cương dương, lãnh cảm, suy nhược sinh dục, càng ăn sầu riêng lượng tinh trùng càng tăng. Sầu riêng còn chữa bệnh vàng da do gan, ghẻ, ngứa, hắc lào, tiêu chảy, đầy bụng khó tiêu, táo bón, ho lạnh, diệt chấy rận, rệp. Sầu riêng còn chứa nhiều vitamin B9, vitamin B1, vitamin C, potassium, calcium.
Hổng giấu gì anh chị Năm, hồi tui lấy bả dìa, bả bị câm điếc hay sao mà mấy năm liền không đẻ đái gì, tui qua Chợ Gạo gặp thầy Diệp Đông, ổng biểu qua Mã Lai mua sầu riêng về ăn. Tui nói sầu riêng thiếu gì ở miệt Biên Hòa, Hố Nai, Gia Kiệm, Dầu Giây. Ổng nói chỉ có sầu riêng Mã Lai mới cho giống tốt. Tui sai thằng Sáu Được qua tận bển. Đâu chừng tháng sau nó đánh giây thép về cho biết là đám Hồng Kông, Tân Gia Ba, mua hổng sót một trái. Tui ra tối hậu thơ là phải vô tận vườn cho giá gấp đôi, đem về cho tui vài trái. Hôm thằng Sáu Được đem sầu riêng từ Mã Lai về, ba ngày sau bả thấy tui đâu bả tránh đó, rồi thì bả to nhỏ với má bả, biểu phải kiếm cho tui con vợ nhỏ, có eo thon, bàn tọa dày như con Ba Dế Ngựa nấu cháo heo chớ con chạy ảnh rồi má ơi!. Tui bỏ nhà đi luôn mươi ngày, rồi cũng lại thầy Diệp Đông chỉ đường đưa lối, tui ra Chợ Gạo bưng cả thúng khoai lang dương ngọc (vỏ tím, ruột tím) về bắt bả ăn, hổng biết khoai này âm hàn cỡ nào mà sau khi ăn bả bị Tào Tháo rượt, bả tránh tui như cùi tránh hủi. Tui nổi xung điên tìm gặp thầy Diệp Đông mắng vốn. Ổng cười thiếu điều lòi tròng con mắt, ổng nói hổng phải khoai dương ngọc ở Việt Nam, ổng dở sách ra và chỉ tui hòn đảo xa tít mù khơi. Đó là đảo Trobriand, Papua New Guinea, nằm cạnh Nam Dương và Úc Châu, nơi được mệnh danh là “đảo đàn ông bị hiếp dâm”. Đảo này, tới mùa nhổ khoai lang đàn ông thường trốn biệt, vì khi đàn bà ăn khoai này vô, họ kiếm đàn ông để “thanh tán”, khoai lang này làm kích thích hay nôm na danh từ đồng quê mộc mạc gọi là “quậy”, quậy này kéo dài có khi cả ngày. Đặc biệt khoai này không quậy được đàn ông. Cổ sử cũng có nói bà Võ Tắc Thiên có ăn loại khoai này, cận sử thì có bà Từ Hi Thái Hậu, mua khoai này trữ rất nhiều trong Tử Cấm Thành, hàng ngày bả quậy mấy ông Thái Giám làm việc đứt hơi luôn. Giống khoai lang vỏ tím, ruột tím, bán trong các siêu thị Á Đông không có ép phê như khoai ở đảo Trobriand đâu, đừng kiếm mua uổng tiền vô ích. Khoai này chứa hormone oestrogen ("3β-hydroxy Δ 1,3,5-estratriène- 17-one hay "3,17 dihydroxy Δ 1,3,5 estratriène-3, 17β-diol").
Đảo Trobriand nằm sát đảo Solomon
Năm Hợi:
- Hôm đó, ham dzui uống nhiều, cái diều bị căng, tui ra sau hè xả bớt, tình cờ thấy con dê đực làm việc liên tục, mà trước khi làm nó ăn cái lá cây gì nằm sát đất, tò mò hôm sau tui ngắt một nhúm lá đem lên đường Phùng Hưng trong Chợ Lớn hỏi thầy Lâm Kiến Xương lá đó là lá gì. Ông nói cái tên nghe lạ hoắc: “dâm dương hoắc”. Ổng còn cho biết, theo truyền thuyết, một ông lão sống ở vùng rừng núi miền Nam Trung Quốc, quanh năm chăn cừu và dê. Hàng ngày ông lão quan sát và thấy những chú dê đực sanh hoạt tình dục rất khỏe. Một con dê đực có thể quan hệ với hàng chục con dê cái trong đàn liên tục mà không mệt mỏi. Lâu ngày theo đàn dê lên núi, ông lão phát hiện ra một bí mật thú vị là sau khi ăn loại lá cây có hình trái tim, bông trắng, con dê đực trở lên hung hăng cực độ, chúng “tấn công” mạnh bạo làm những con dê cái thích chí cười be..he...be..he.... Phát hiện ra bí mật này, ông lão liền đem thứ lá cây đó về nhà sắc nước uống. Sau khi uống nước vô ông thấy những cơn mệt mỏi tan biến rất mau, tinh thần và cơ thể trở lại mạnh khỏe, thoải mái như trai mười bảy và đặc biệt là máu huyết rạo rực. Từ đó, người ta đặt cho loại thảo dược này những cái tên như: can kê cân, cây cỏ dê, cương tiền, dâm dương hoắc, dương giác phong, dương hoắc, đình thảo, đồng ty thảo, hoàng đức tổ, hoàng liên tổ, kê trảo liên, khí chi thảo, khí trượng thảo, ngưu giác hoa, phế kinh thảo, phỏng trượng thảo, quế ngư phong, tam chi cửu diệp thảo, tam giác liên, tam thoa cốt, tam thoa phong, tiên linh, tiên linh tỳ, tức ngư phong, thác dược tôn sư, thiên hùng cân, thiên lưỡng kim. Trong thời phong kiến Trung Hoa, các danh y đã từng sử dụng loại cỏ này làm dược liệu để điều trị các chứng yếu sinh lý cho các hoàng đế, đặc biệt là hiện tượng rối loạn cương dương, trong toa thuốc của vua Minh Mạng cũng có kê hai chỉ dâm dương hoắc. Các cung nữ thời xưa muốn con dê dẫn đường cho vua ghé qua đêm thường treo trước cửa một chùm lá dâm dương hoắc. Thời nay người ta gọi nó là “viagra thiên nhiên”.
Về mặt thực vật, dâm dương hoắc là loài cây thân thảo có tên khoa học là Epimedium macranthum, còn gọi là Aceranthus sagittatum (cỏ sừng dê, Horny Goat Weed), thuộc Họ Hoàng Liên Gai (Berberidaceae), cây cao khoảng 0,5 – 0,8m, có hoa, cuống dài. Chúng có tất cả 15 loài. Loại cây này mọc ở miền rừng núi, khí hậu ôn đới như miền Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, thường thấy nhiều ở những vùng núi cao sát biên giới với Trung Quốc, đặc biệt là ở các tỉnh Sa Pa, Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang. Y học hiện đại cho biết trong dâm dương hoắc có chứa hàm lượng L-Arginine rất cao (L-Arginine là chất kích thích sản xuất hormone tăng trưởng, tăng cường sinh dục). Ngoài ra còn có những chất làm tăng lưu lượng máu và cải thiện chức năng tình dục bao gồm: Ceryl alcohol, Triacontane, Icariin, Icarisid, Quercetin, Icaritin-3-O-a-rhamnoside, Anhydroicaritin-3-O-a-rhamnoside, Sagittatoside, Epimedin A,B,C, Sagittatin A,B, Dihydrodehydrodiconiferylalcohoh, Olivil, Syringaresinol-O-b-D-glucopyranoside, Symplocosigenin-O-b-D-glucopyranoside, Phenethyl glucoside, Blumenol C glucoside, alcaloid, flavonoid và saponosid, phytosterol, vitamin E, vitamin A, Benzen, Linoleic acid, Tannin, Oleic acid, Acid palmitic và Sterols. Dâm dương hoắc có tác dụng tương tự estrogen, gây nóng người, tăng tiết tinh dịch, kích thích ham muốn tình dục.Tuy nhiên, để tăng công hiệu nên sao lá dâm dương hoắc với mỡ dê, muối hoặc rượu, trước khi đem ngâm rượu. Đặc biệt đối với những phụ nữ gặp trục trặc về sức khỏe tình dục, có thể dùng cây thuốc này, tác dụng của nó cũng mạnh giống y chang tác dụng trên nam giới. Hoạt chất căn bản gây ảnh hưởng tự nhiên đến các tuyến thượng thận và hệ tuần hoàn, làm giãn nở các mạch máu, làm điều hòa áp suất máu bảo đảm an toàn cho người sử dụng. Dược liệu này là Icariin. Chất kích dục này bồi bổ các mô sinh dục và giúp người đàn ông có thể điều khiển cơ năng tính dục của mình theo ý muốn. Vì là dược tính thiên nhiên cho nên ít có xảy ra phản ứng phụ. Trong cuốn Dược Thảo của Hoa Đà – Biển Thước vào thời nhà Minh bên Trung Hoa, và trong cuốn tiểu thuyết Kim Bình Mai có ghi lại một trường hợp bị dược thảo này nó hành cho bỏ mạng, đó là trường hợp Tây Môn Khánh ăn nằm với Kim Liên, chị dâu của Võ Tòng đả hổ. Cũng vì lý do đó liều thuốc này còn có tên là “liều thuốc Tây Môn Khánh”. Tuy nhiên Hoa Đà có đặt nghi vấn là có thể nàng Kim Liên đã luyện được phương pháp như Hạ Cơ, một người con gái thời Xuân Thu (722 TCN - 480 TCN) vốn là gái nước Trịnh, sau về làm dâu nước Trần. Sử sách nói rằng Hạ Cơ sau khi ăn nằm với ai rồi, nàng trở lại "hoàn tân" như cũ. Điều đặc biệt là hễ ai đã ân ái với nàng thì thường sau đó kiệt sức mà chết. Người ta nghi nàng có thuật "Hấp tinh đại pháp". Khuất Vu, tướng của Sở Trang Vương luyện được phép "Bí thuật phòng trung", bí thuật này bổ sung cho Hấp Tinh Đại Pháp cho nên khi ân ái với người có thuật Hấp Tinh Đại Pháp không bị tiêu hao năng lực. Khuất Vu nhân đi sứ sang Trịnh, gặp Hạ Cơ bị tội trốn sang Trịnh, Khuất Vu đã đem Hạ Cơ sang Tấn "xây mộng uyên ương". Về sau hai người sang nước Ngô sinh sống rồi ở ẩn trên đỉnh Vu Sơn để mây mưa cùng tuế nguyệt.
Bí pháp chế biến "dâm dương hoắc" thành thần dược phòng the hiếm có Epimedium sagittatum - Yin Yang Huo