Phàm hễ có đàn ông con trai thời phải có đàn bà con gái. Đã có ông Adam, thời phải có bà Eve. Chúa đã tạo ra loài người và định đoạt như vậy rồi! Kinh Cựu Ước đã rành rành từ thượng cổ! Thiệt vậy, thế giới không thể thiếu vắng những bóng hồng, mặc dầu có mấy bả thời nhiều khi cũng sanh ra lắm chuyện “lăng nhăng” phiền toái (tớ cũng xin lỗi quý bà quý cô)!
Nên chi cụ Tú Xương của dân An-Nam ta ngày xưa cũng đã từng xác nhận:
“Một trà, một rượu, một đàn bà
“Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta
“Chừa được thứ nào hay thứ ấy
“Có chăng chừa rượu với chừa trà !
Trong Văn Học của “xứ Kangaroo Miệt Dưới” tui tìm được một bài thơ nói về việc “đòi vợ” của các chàng nông gia Tây Úc vào khoảng đầu Thế Kỷ thứ 20. Bài thơ “Send us Girls” này do một nhà thơ trào phúng Úc, George Herbert Gibson, bút hiệu Ironbark 1 (1846-1921) sáng tác. Bài thơ được ấn hành trong Tạp Chí The Bulletin (Sydney) số 1684, Bộ 33 (Volume 33), trang 2, ngày 23 tháng 5 năm 1912 và trong thi phẩm Ironbark Splinters from the Australian Bush, xuất bản năm 1912, là thi phẩm cuối cùng của Ironbark. Năm 2011, bài thơ này đã được phổ biến lại trong tập thi phẩm nhiều tác giả 100 Australian Poems of Love and Loss do Jamie Grant hiệu đính và do Nhà Xuất Bản Hardie Grant Books (Australia) ấn hành.
Phàm di dân lập nghiệp ở các vùng xa xôi hẻo lánh khô cằn trên lục địa Úc Châu (“Outback Australia”), mà toàn là “đực rựa” không, không có một bóng hồng tươi mát thời thiệt là không ổn chút nào!
Tui thấy bài thơ này có thể được coi là một bài thơ “DÊ”, xin tạm lược dịch để cống hiến quý vị thưởng thức trong những ngày đầu năm con Dê Ất Mùi.
Send Us Girls
The following cable message was recently sent from Western Australia to London: ‘Send us as many girls as possible – our farmers want wives.’
Hãy gởi sang đây nhiều con gái
Lời yêu cầu sau đây vừa được đánh dây thép từ Tiểu Bang Tây Úc sang Luân-Đôn: "Hãy gởi cho chúng tôi càng nhiều con gái càng tốt - Các nông gia chúng tôi đòi vợ."
“Hãy gởi sang đây thiệt nhiều con gái
“Gởi càng nhiều thời càng khoái càng hay
“Vì chưng ở tại chốn này
“Các chú nông gia cứ kêu nài ... đòi vợ!
Thiệt ầm ĩ, họ kêu nài quá cỡ
Các nông gia từ xứ sở ‘Huyền Nga’ 2
Vì chưng không tìm lấy được một bà
Dù chỉ cho một chú trong mỗi mười chàng đơn độc.
Trừ phi,
Có những chuyến thuyền, lăn buồm trong phút chốc
Chở thiệt đông người đầy nhóc trên boong
Đổ bộ lên đây thiệt nhiều khách má hồng
Đoàn thục nữ mỗi người trông mỗi vẻ.
Vậy,
Theo sóng trùng dương mặn mà bọt bể
Hãy gởi vài nàng con gái để cậy nhờ
Để quét dọn, lau chùi, cọ rửa chỗ nào dơ ...
Thời hãy gởi sang đây thiệt nhiều con gái!
Hãy gởi sang đây những nàng con gái!
Để các nàng trông thấy chúng tôi về
Không quá muộn và... cũng chẳng dám... cà rề
Từ quán rượu trong vùng quê sau bữa nhậu
Hãy gởi sang đây những cô nàng yêu dấu
Để các nàng lo cho chu đáo vẹn toàn
Và trông nom, nuôi nấng mấy anh chàng
Theo phương cách thông thường, được “ăn nhiều chóng lớn”!
Cần con gái để vỗ về hôm sớm
Để dỗ dành mơn trớn những chàng trai
Làm chiếc gối, gối những cái đầu nặng trĩu cuối ngày...
Sau một ngày thiệt dài, các anh đều mệt mỏi...
Có tiếng kêu gào từ nơi hiu hiu gió thổi
Gỗ “jarrah” và gỗ “yate” tới nơi rồi,
Thiệt tài ba nhờ được kéo bởi tay người 3
Tới khu nhà tập thể đông dày “ổ chuột”,
Tới một chốn mà các chàng “công tử bột”,
Ễn ễn xìu xìu ở tuốt tận Luân-Đôn,
Khi nghe đến thời phải khiếp vía kinh hồn
Và các cậu phải bồn chồn queo râu mép! –
Tiếng kêu gào: “Hãy xót thương tội nghiệp,
Xin cảm thông cho những kiếp cô đơn,
Chỉ mỗi một lời cầu khẩn chẳng gì hơn:
Xin hãy gởi sang đây thiệt nhiều con gái!”
1
Ironbark: Tên một số loài cây khuynh diệp (Eucalyptus) ở Úc Châu. Vỏ cây có màu sậm và có những rãnh sâu dọc theo thân cây. Thay vì bị tróc ra như ở hầu hết những loài khuynh diệp, lớp vỏ cây khô của những loài Ironbark tích tụ trên thân cây, tạo thành những rãnh dọc giống như thân cây bị rạn nứt. Mủ cây màu đỏ đậm tiết ra từ thân cây thấm dần vào những lớp vỏ cây khô, làm cho lớp vỏ cây xù xì, thô ráp và chịu được lửa và sức nóng của những trận cháy rừng, che chở cho lớp vỏ cây, những lớp mô sống và những chồi non bên dưới. Sau những trận cháy rừng, cành lá đều bị cháy rụi, những cành lá non sẽ mọc lại từ những chồi non bên dưới lớp vỏ khô này.
2
xứ sở ‘Huyền Nga’:
Xin dịch cụm từ “Land of the sable swan” là “xứ sở huyền nga” ; “sable” nghĩa là màu đen, là màu ảm đạm, buồn thảm ; “huyền nga” là thiên nga màu đen.
Huyền nga, loài thiên nga đen – black swan (tên khoa học Cygnus atratus atratus) có bộ lông màu đen, mỏ màu đỏ, đặc biệt sinh sống rất nhiều ở các vùng ngập nước ở Tiểu Bang Tây Úc. Vì thế “black swan” được coi là biểu tượng của Tây Úc. Trên lá cờ, huy hiệu và phù hiệu của Tiểu Bang Tây Úc có hình thiên nga màu đen – Black Swan. Hệ thống sông ngòi chính của Tây Úc là Swan River. Năm 1829, người Anh đã định cư dọc theo sông Swan River ở Tây Úc, vùng định cư gọi là “Swan River Colony”.
Hình huyền nga, thiên nga màu đen (black swan) trên lá cờ, huy hiệu và phù hiệu của Tiểu Bang Tây Úc
3
“…the place where the breezes fan”: ý nói một nơi rất nóng bức, không có quạt máy hay máy lạnh như ngày nay, chỉ khi nào có chút gió mới được gió "quạt" cho mát.
‘jarrah’, ‘yate’: các loại gỗ từ hai loài cây khuynh diệp mọc tự nhiên ở Tây Úc. Các loại gỗ này cứng chắt, ở Tây Úc thường được dùng làm hàng rào, cầu tàu, thanh ngang đường rầy xe lửa, trụ cột điện, đóng bàn ghế và những vật dụng bằng gỗ, v.v...
jarrah: Eucalyptus marginata, còn gọi là Swan River Mahogany (Swan River là tên dòng sông lớn ở Tây Úc, chảy qua Thủ Phủ Perth).
yate: Eucalyptus occidentalis, mọc tự nhiên ở các vùng phía Nam và Đông Nam Thủ Phủ Perth.
“Conveyed by the capable cable man”
Vào đầu Thế Kỷ thứ 19, khi người Anh mới di dân sang Úc, chưa có những phương tiện chuyên chở như trực thăng, cần cẩu, xe truck, v.v...
Những vật liệu xây dựng như gỗ 'jarrah' và gỗ 'yate' được vận chuyển bằng ngựa kéo, hoặc nếu không có ngựa, phải dùng sức người để kéo.
4
‘jackass’: hay ‘laughing jackass’, còn gọi là ‘laughing kookaburra’ (Dacelo novaeguineae), một loài chim ăn thịt, thuộc Họ Halcyonidae.
Tiếng hót của loài chim này nghe gần giống như tiếng cười của loài người. Có thể nghe tiếng chim này cả ngày, nhưng thường nhất là vào lúc bình minh và lúc trời chạng vạng tối.
Gibson, G. Herbert – Ironbark (1912). Ironbark Splinters from the Australian Bush. 2nd Edition.
T. Werner Laurie, Ltd. Clifford’s Inn, London
https://archive.org/stream/ironbarksplinter00gibsrich#page/n5/mode/2up
https://archive.org/stream/ironbarksplinter00gibsrich#page/n9/mode/2up
(Truy cập tháng 01 năm 2015)
“Send Us Girls”: pages 12-15
https://archive.org/stream/ironbarksplinter00gibsrich#page/12/mode/2up
https://archive.org/stream/ironbarksplinter00gibsrich#page/14/mode/2up
Grant, Jamie (Editor) (2011). 100 Australian Poems of Love and Loss. Hardie Grant Books (Australia). “Send Us Girls”: Pages 29-31