Dê và cừu là những loài gia súc đã được thuần hóa sớm nhất. Nói riêng về dê, người ta chăn nuôi dê để lấy sữa, giết thịt, lấy lông (ở một số giống dê như Angora, Cashmere, ...), da và lấy sừng để làm vật trang trí.
Trong lịch Đông phương (Âm lịch), Dê hay Cừu là con thú biểu trưng cho Chi Mùi (còn gọi là Chi Vị). Nhân dịp năm nay là năm Ất Mùi, tôi xin viết sơ lược về một số đặc tính Sinh Vật Học của dê và một số kỹ thuật về chăn nuôi dê.
Phân loại học
Ngành: Chordata (Động vật có xương sống)
Lớp: Mammalia (Hữu Nhũ)
Bộ: Artiodactyla (Bộ Móng Guốc Chẵn)
Bộ phụ: Ruminantia (Thú nhai lại)
Họ: Bovidae (Họ Trâu Bò)
Phân Họ (Họ phụ): Caprinae (Phân Họ Dê Cừu)
Chi (Giống): Capra
Loài: C. aegagrus
Phân Loài (Loài phụ): C. a. hircus
Dê nhà đã được thuần hóa,
thuộc Phân loài (Loài phụ) C. a. hircus
(Tên khoa học, Danh pháp ba phần): Capra aegagrus hircus
Tên khoa học (Danh pháp hai phần): Capra aegagrus
Về Phân loại học, dê thuộc Lớp Hữu Nhũ (Lớp thú có vú), Bộ Artiodactyla, cùng Bộ với trâu, bò, là những loài thú có số móng guốc chẵn, và cùng Họ với trâu và bò.
Phân bố
Có thể phân biệt 2 nhóm: dê nhà và dê sống hoang dã.
- Dê nhà đã được thuần hóa từ khoảng 10.000 đến 11.000 năm về trước, được biết có lẽ đầu tiên ở vùng Cận Đông (Near East, Proche-Orient), gồm các vùng Tây Nam Á, vùng giữa Địa Trung Hải, Iran, v.v...
Dê được nuôi trong chuồng trại hoặc nuôi thành đàn tùy theo vùng, tùy phương cách chăn nuôi của từng dân tộc, diện tích trang trại, ... Dê được chăn dắt đi tìm thức ăn hoặc được thả rong trong những khu vực riêng biệt, có hàng rào chắn để tránh không cho dê phá phách làm hư hại cây cối và hoa mầu chung quanh trang trại.
- Dê hoang dã sống từng đàn ở nhiều môi trường có những điều kiện khí hậu và địa hình khác nhau, được phân bố khắp nơi trên thế giới, từ những vùng đồng bằng, rừng rậm đến những vùng đồi núi, từ những vùng có khí hậu nóng bức như ở Phi Châu đến những vùng lạnh lẽo băng giá như ở Âu Châu.
Riêng ở lục địa Úc Châu, dê không phải là một loài động vật có tự nhiên (native fauna) trên lục địa này. Dê đã được du nhập vào lục địa Úc Châu (introduced mammal) từ Thế Kỷ thứ 19 (khoảng năm 1832 và 1833) theo những chuyến thuyền di dân đầu tiên của người Anh, cùng với một số gia súc, gia cầm và thú nuôi khác như trâu, ngựa, thỏ, mèo, chó, v.v... Dê được chăn nuôi chủ yếu để lấy sữa và thịt hoặc lấy lông.
Những đàn dê sống hoang dã trên lục địa Úc Châu ngày nay là những “con cháu” của những con dê đã thuần hóa được du nhập vào Úc, nhưng đã bị lạc đàn (đàn dê nuôi theo lối thả rong hoặc chăn dắt), vượt thoát từ những trang trại trong những vùng định cư của người da trắng, hoặc “bị bỏ rơi” khi người da trắng rời bỏ một số vùng định cư vì một lý do nào đó. Thí dụ từ khoảng năm 1861, những giống dê Angora và Cashmere được du nhập để lấy lông, nhưng việc chăn nuôi thất bại, nên những con dê này đã trở về lối sống hoang dã.
Ngày nay, những đàn dê sống hoang dã tập trung nhiều nhất ở Tiểu Bang Tây Úc, ở nhiều vùng phía Tây của Tiểu Bang New South Wales và một số vùng thuộc Tiểu Bang Nam Úc. Dân số của những đàn dê sống hoang dã đã lên đến khoảng từ 200.000 đến 350.000 con.
Trừ những vùng đầm lầy ngập nước, những vùng sa mạc khô cằn và những khu rừng mưa nhiệt đới, những đàn dê hoang dã trên lục địa Úc Châu sinh sống ở tất cả những môi trường sống có những điều kiện thuận lợi như có những hang, những hốc đá, những tảng đá hình mái che, v.v... là nơi trú ẩn, cũng như cây cỏ, rừng rậm là nguồn thực phẩm và những ao hồ là nguồn nước uống.
Vì là một loài thú ăn tạp, những đàn dê sống hoang dã có những ảnh hưởng rất lớn đối với thảm thực vật và môi trường thiên nhiên của lục địa Úc Châu. Thảm thực vật bị phá hủy dần, dẫn đến sự xói mòn đất đai, đặc biệt ở những vùng có khí hậu bán khô hạn (semi-arid climate). Những đàn dê sống hoang dã cũng có những ảnh hưởng rất lớn đối với những loài thú có tự nhiên trên lục địa Úc Châu (native fauna), vì có sự cạnh tranh sinh tồn giữa những đàn dê sống hoang dã và những thú rừng về thực phẩm, nước uống và nơi trú ẩn.
Một số đặc tính Sinh Vật Học
· Hình dáng và kích thước, trọng lượng
- Kích thước:
Đầu và thân mình:
- Dê đực từ 120 cm đến 162 cm (trung bình 150 cm)
- Dê cái từ 114 cm đến 147 cm (trung bình 133 cm)
Chiều dài đuôi:
- Dê đực 12 cm - 17cm (trung bình 15 cm)
- Dê cai 12 cm -16 cm (trung binh 14 cm)
Trọng lượng:
- Dê đực từ 16 kg đến 63 kg (trung bình 58 kg)
- Dê cái từ 15 kg đến 49 kg (trung bình 44 kg)
- Bộ lông:
Thân thể dê được bao phủ bởi một bộ lông tơ mịn. Tùy theo những điều kiện của môi trường sống như địa hình, khí hậu, ... mà lông dê có kích thước khác nhau. Ở những vùng đồi núi cao có khí hậu mát mẻ hoặc lạnh, bộ lông dê dài và rậm. Còn ở những vùng nhiệt đới, đồng bằng, ... có khí hậu nóng bức, bộ lông dê ngắn và thưa thớt hơn.
Về màu sắc, tùy theo giống dê mà bộ lông có màu sắc khác nhau. Màu lông thường là đen, trắng, xám, nâu, vàng, v.v... Bộ lông có thể có một màu hoặc nhiều màu, như bộ lông màu đen có đốm trắng màu nâu đen hoặc vàng có vá trắng, ...
Đặc biệt ở loài dê, con đực và con cái đều có bộ râu ở hàm dưới ... “râu dê”!
Mắt dê cũng đặc biệt: con ngươi (đồng tử) hình chữ nhật nằm theo chiều ngang, không có hình tròn như ở hầu hết các loài thú.
- Chân:
Dê thuộc Bộ Artiodactyla – Bộ Móng Guốc Chẵn. Những loài thú thuộc Bộ này có những đặc điểm:
- Đầu các ngón chân được che chở bởi lớp móng guốc dày và cứng bằng chất sừng (keratin).
- Chân có số móng guốc chẵn, móng guốc được tách làm hai phần đều nhau, đó là các ngón chân thứ ba và thứ tư, trọng lượng cơ thể của con thú được phân bổ đều trên hai ngón chân này. Những loài thú có số móng guốc chẵn gồm dê, cừu, trâu, bò, ... (Họ Bovidae), hà mã (Họ Hippopotamidae), heo (Họ Suidae), hươu cao cổ (Họ Giraffidae), hươu nai (Họ Cervidae), lạc đà (Họ Camelidae), ...
* Khác với Bộ Móng Guốc Chẵn (Bộ Artiodactyla), những loài thú thuộc Bộ Móng Guốc Lẻ (Bộ Perissodactyla) có số ngón chân là số lẻ, ngón chân giữa hay ngón chân thứ ba thường to hơn các ngón chân kia, trọng lượng cơ thể dồn lên ngón chân thứ ba này, thí dụ như các loài ngựa, lừa, ... (Họ Equidae), tê giác (Họ Rhinocerotidae), lợn vòi (Họ Tapiridae).
- Sừng: Sừng dê có nhiều hình dạng khác nhau, sừng thẳng đứng (như ở các giống Saanen), sừng cong ngược về phía sau (các giống Boer) hoặc có dạng uốn cong hình trôn ốc (một số giống sơn dương), ...
Bộ phận tiêu hóa
Cũng như trâu và bò, dê là loài thú nhai lại (thuộc Bộ phụ Ruminantia), bộ phận tiêu hóa có những đặc điểm của các loài thú nhai lại. Nhưng trâu và bò chỉ ăn cỏ rơm mềm, còn dê là loài ăn tạp hơn, dê có thể ăn đủ các loại cây cỏ có thân và cành cây dai và cứng, và cả vỏ cây thô ráp, ...
- Răng:
- Dê có tất cả 32 răng
- Hàm trên của dê không có răng cửa, chỉ có một khối xương to, đối diện với 8 răng cửa ờ hàm dưới, dùng cắt nhỏ những cành cây, cọng cỏ dài, ...
- Bên trong là 12 cặp răng hàm để nghiền thức ăn ...
- Không có răng nanh
- Dạ dày:
Trong thiên nhiên, các loài thú ăn cỏ rất dễ bị tấn công bởi những loài thiên địch như hổ, báo, sư tử, ... vì vậy những loài thú này phải “tranh thủ” ăn cho thật nhanh, sau đó sẽ nhai lại và tiêu hóa thức ăn khi đã đến một nơi an toàn.
Để thích ứng với “cách thứa ăn uống” này, dạ dày của các loài thú nhai lại như trâu, bò, dê, cừu, ... có cấu trúc đặc biệt: có 4 ngăn còn được gọi là dạ dày nhỏ.
- Dạ cỏ (rumen): lớn nhất, dung tích có thể đến 270 lít, khoảng 80% dung tích dạ dày, chiếm gần hết phân nửa thể tích xoan bụng bên trái. Dạ cỏ chẳng qua là một “túi lên men” chứa thực phẩm thô là những cành lá, cọng cỏ, v.v... chỉ mới được cắt nhỏ và chưa được nhai kỹ. Nơi đây thực phẩm thô được lên men bởi nhiều loại vi khuẩn và vi sinh vật đơn bào, có khả năng phân hủy phân tử cellulose là thành phần cấu tạo chính của vách tế bào thực vật. Trong quá trình lên men, khí methan và thán khí (khí CO2) được tạo ra, thỉnh thoảng làm cho con thú phát ra những tiếng “ợ!”. Sự lên men cũng tạo ra một số sinh tố cần thiết cho con thú như sinh tố B, E và K. Xác của những vi khuẩn và những vi sinh vật đơn bào cũng là nguồn chất đạm cho loài thú nhai lại.
- Dạ tổ ong (reticulum), nhỏ nhất, khoảng từ 1 đến 2 lít, mặt trong có nhiều ô hình 5 góc giống như tổ ong, dùng để nghiền nhỏ thức ăn.
- Dạ lá sách (omasum) có chức năng nhào trộn thức ăn nhuyễn sau khi được nhai lại và đôi khi được lên men trở lại ở da cỏ. Nơi đây, nước được hấp thụ trở lại trpớc khi thức ăn được chuyển xuống dạ hình múi khế để tiếp tục được tiêu hóa. Cấu trúc mặt trong của dạ lá sách có nhiều lá giống như các trang sách, làm tăng diện tích bề mặt của thành dạ lá sách, do đó làm tăng khả năng hấp thụ nước từ thức ăn của dạ lá sách.
- Dạ hình múi khế (abomasum), mềm và xốp. Đây là “dạ dày chính thức” có chức năng nhồi thức ăn và tiết ra các dịch vị làm tiêu hóa thức ăn đã được lên men.
· Sinh trưởng và sinh sản
Dê là giống gia súc có khả năng sinh sản cao.
Dê trưởng thành sinh dục rất sớm, khoảng từ 7 đến 8 tháng tuổi.
Nếu trọng lượng cơ thể từ 25 kg trở lên, dê cái bắt đầu động đực và có thể giao phối vào khoảng 6 đến 8 tháng tuổi, Thời gian mang thai khoảng 140 đến 150 ngày. Thường dê sinh mỗi lứa 2 con, dê con bú sữa mẹ trong khoảng 60 ngày. Thường mỗi 2 năm dê sinh sản được 3 lứa, trong những diều kiện sinh sống thuận lợi, dê có thể sinh mỗi năm 2 lứa.
Nói riêng ở lục địa Úc Châu, mùa sinh sản của những đàn dê sống hoang dã ở những vùng có khí hậu ôn đới khoảng tháng Giêng đến tháng Sáu, cao nhất là khoảng tháng Hai. Ở những vùng khô hạn (arid areas), mùa sinh sản của những đàn dê hoang dã không rõ rệt.
Sơ lược về kỹ thuật chăn nuôi dê
Hiện nay trên thế giới có khoảng 300 giống dê được chăn nuôi để lấy thịt và lông.
· Sơ lược về một vài giống dê được chăn nuôi trên thế giới
Anglo-Nubian
Giống Anglo-Nubian (ở Mỹ chỉ gọi là Nubian) là giống dê có bộ lông dài, được phối giống từ nước Anh. Chiều cao có thể đến 89 cm và trọng lượng có thể lên đến 79 kg.
Đặc điểm của giống này là có hai tai to và dài.
Được nuôi để lấy thịt và sữa. Được biết trong sữa có hàm lượng chất béo cao.
Angora
Giống Angora được nuôi để lấy lông. Mỗi cá thể có thể cho khoảng 5 kg lông mỗi năm. Mỗi năm người ta thu hoặch lông 2 lần.
Australian Cashmere
Được phối giống ở Úc. Có bộ lông dài và rậm. Nuôi để lấy lông.
Boer
Giống dê Boer được nuôi chủ yếu để lấy thịt, đặc điểm có thân hình to lớn và cân đôi, khối lượng thịt lớn. Con đực khoảng từ 90 kg đến 154 kg (200 – 340 lbs), con cái khoảng từ 86 kg đến 104 kg (190 – 230 lbs). Tăng trọng nhanh, có thể tăng trọng đến khoảng 181 g (0.4 lbs) mỗi ngày trong những điều kiện chăn nuôi thích hợp.
Giống dê này được nhân giống và phát triển ở Nam Phi, và được nhập cảng vào Mỹ từ Úc Châu và Tân Tây Lan vào khoảng năm 1994.
Pygmy
Đặc điểm giống dê Pygmy có cặp sừng to và bộ lông dài.
Giống dê Pygmy nhỏ con, chỉ cao từ 38 cm đến 50 cm (15 in đến 20 in), có nguồn gốc từ Châu Phi, nguyên thủy được gọi là giống Cameroon Dwarf. Trọng lượng có thể đạt đến 39 kg.
Được nuôi chủ yếu để làm cảnh và lấy sữa, tuy thân hình không to lắm nhưng cũng cho sản lượng sữa cao. Đôi khi cũng để lấy thịt.
Saanen
Giống Saanen Goat có bộ lông dài màu kem, có nguồn gốc từ Thung Lũng Saanen Valley ở Thụy Sĩ (do đó có tên Saanen).
Đây là giống dê sữa được coi là to nhất thế giới, có thể cân nặng đến hơn 91 kg. Một con dê cái có thể cho khoảng gần 4 lít sữa mỗi ngày.
· Sơ lược về kỹ thuật chăn nuôi dê
- Chọn giống
Nguyên tắc căn bản là chọn những con thú giống khỏe mạnh, có thân hình cân đối, có khung xương và bộ phận sinh dục phát triển mạnh, không bị khuyết tật.
Hàng năm nên đổi giống mới để tránh giao phối cận huyết hay đồng huyết (cùng huyết thống) và sinh ra đàn dê con có những đặc tính di truyền "ưu thế lai".
- Phối giống
- Tuổi phối giống: dê cái trên 7 tháng tuổi, dê đực khoảng từ 8 đến 9 tháng tuổi.
- Đối với dê cái, mỗi chu kỳ động đực từ 18 đến 21 ngày, mỗi kỳ khoảng 2 đến 3 ngày. Nên cho phối giống vài ngày thứ hai mỗi kỳ.
- Đối với các giống dê nuôi lấy thịt thì tỷ lệ 1 dê đực giống cho 40 dê cái. Tuy nhiên có thể giảm tỷ lệ này: mỗi 20 đến 25 dê cái cần 1 dê đực dể phối giống. Nếu phối giống theo mùa thì từ 3 đến 4 dê đực cho 100 dê cái.
- Chuồng trại
Ở những nơi không có điều kiện chăn thả, dê có thể được nuôi trong chuồng trại. "Chuồng sàn" là loại chuồng trại thích hợp nhất cho dê, sàn cao hơn mặt đất khoảng 0,5 m. Diện tích chuồng trại phải rộng rãi, thích hợp cho từng lứa tuổi. Dê dưới 6 tháng tuổi: 0,3m2 đến 0,5 m2 cho mỗi con, dê trên 6 tháng tuổi: 0,7 m2 đến 1 m2 cho mỗi con, dê đực giống: từ 1,5 m2 đến 2,5 m2 cho mỗi con.
Ngoài ra, nếu có điều kiện, cần có thêm "sân chơi". Sân phải cao ráo, không bị đọng nước. Diện tích "sân chơi" rộng rãi từ 2 m2 đến 4 m2.
Ve sinh chuong trai, Vệ sinh chuồng trại, tẩy trùng thường xuyên, đều đặn,… để phòng ngừa các bệnh nhiễm.
· Một số bệnh thường gặp ở dê
Điều kiện vệ sinh chuồng trại có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa các bệnh nhiễm.
Có thể chia ra làm hai loại bệnh:
1- Bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn và siêu vi khuẩn
- Bệnh tiêu chảy. Thường xảy ra ờ dê con khoảng từ 4 đến 10 ngày tuổi, do sức đề kháng còn yếu. Dê con thường dễ bị nhiễm những vi khuẩn đường ruột từ vú dê mẹ hoặc sữa mẹ. Triệu chứng phân nhão hay lỏng, có màu trắng hoặc vàng nhạt và có mùi hôi. Dê con bị ốm và lông bị xù xì do mất nước.
- Bệnh viêm phổi và hệ thống hô hấp. Có thể bị nhiễm bệnh ở mọi lứa tuổi. Bệnh có thể do nhiều loại vi khuẩn như Mycoplasma pneumonia, Pasteurella multocida, v.v… Bệnh có thể gây tử vong.
- Bệnh viêm ruột hoại tử. Mầm bệnh là độc tố của trực trùng hiếm khí Clostridium perfringens lan truyền theo thức ăn và nước uống. Triệu chứng sốt cao, tiêu chảy, phân có lẫn máu hoặc chất dịch nhờn,... dê bị nhiễm bệnh bỏ ăn và có thể bị chết.
- Bệnh viêm lở miệng. Xoan bên trong miệng và môi sưng và lở loét do một loại siêu vi khuẩn gây nên.
- Bệnh lở mồm long móng (foot and mouth disease). Do siêu vi khuẩn gây nên. Bệnh làm cho con thú ăn uống, đi lại khó khăn nên làm giảm sự tăng trưởng hoặc giảm sản lượng sữa.
- Bệnh tụ huyết trùng. Chủ yếu do vi khuẩn Pasteurella multocida, ngoài ra còn thường kết hợp với những loại vi khuẩn khác như Mycoplasma, Staphylococcus, Streptococcus, v.v… Triệu chứng sốt cao, chảy nước bọt, nước mũi, cổ họng sưng, tiêu chảy có máu,... có thể gây tử vong.
- Bệnh thối móng. Do vi khuẩn Spherophorus necrophorus truyền nhiễm qua các vết thương ở chân, do đi lại trên nền đất, chuồng trại ẩm ướt,...
- Bệnh viêm vú. Xảy ra ở dê cái nuôi để lấy sữa, do chăm sóc bầu vú không kỹ, hoặc vắt sữa (bằng tay) không đúng kỹ thuật, bầu vú không sạch dễ bị nhiễm trùng, sưng đỏ, ...
2- Bệnh do những ký sinh trùng
- Bệnh cầu trùng, do nguyên sinh động vật (protozoan) Eimeria và một số vi khuẩn đường ruột gây ra. Triệu chứng tiêu chảy có máu hoặc không có máu do chảy máu bên trong niêm mạc ruột.
- Bệnh do nhiễm các loại giun sán, gồm giun đũa (Ascaris), sán dây (Taenia), … sống ký sinh trong ruột, sán lá gan (Fasciola hepatica, F. gigantica) ký sinh và phát triển trong gan và ống dẫn mật. Bệnh lan truyền qua thức ăn và nước uống, hoặc do ăn cỏ ở các đầm lầy nước đọng, ...
- Bệnh do giun phổi Dictyocaulus ký sinh trong phế quản và phế nang phổi. Dê bị ho, còi cọc, chảy nước mũi, ...
- Bệnh do ve hút máu. Ở dê, hai loài ve Damalina và Linognathus bám trên da hút máu, làm cho dê ốm, còi cọc, lông xù, chậm phát triển, ...
- Bệnh ghẻ. Do hai giống Psoroptes và Sarcoptes sống ký sinh trên da, làm cho dê ngứa ngáy, rụng lông, ...
Nói riêng về lục địa Úc Châu, những đàn dê sống hoang dã có thể bị nhiễm nhiều bệnh của gia súc, gia cầm như:
- bệnh lở mồm long móng (foot-and-mouth),
- bệnh rinderpest, một loại bệnh dịch trâu bò do siêu vi khuẩn rinderpest gây ra,
- bệnh dại do siêu vi khuẩn rabie, bệnh truyền nhiễm cấp tính của hệ thần kinh (rabie),
- bệnh bluetongue do siêu vi khuẩn BTV (Bluetongue virus) gây ra và gây tỷ lệ tử vong cao. Côn trùng là tác nhân chính gây sự lây nhiễm bệnh cho gia súc. Con thú có những triệu chứng nóng sốt, miệng chảy nhiều nước bọt, mí mắt và lưỡi bị sưng phù. Đặc điểm lưỡi có màu xanh (cyanosis) do ác mô gần da thiếu oxy.
Những đàn dê hoang dã là nguồn bệnh chính làm lây nhiễm các bệch dịch ở gia súc. Sự kiểm soát dân số và chiến dịch loại trừ những đàn dê sống hoang dã đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển ngành chăn nuôi của Úc và trong việc bảo vệ môi trường thiên nhiên của lục địa Úc Châu.
Một số tài liệu tham khảo
Strahan, Ronald Ed. (1992) The Australian Museum Complete Book of Australian Mammals – The National Photographic Index of Australian Wildlife. Angus & Robertson Publishers. p.516
http://en.wikibooks.org/wiki/Anatomy_and_Physiology_of_Animals/The_Gut_and_Digestion
http://fyi.uwex.edu/wbic/2012/01/18/back-to-basics-ruminant-digestive-system/
Một số websites về các giống dê và hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi dê
http://hoinongdan.cantho.gov.vn/DesktopModules/CMSP/DinhKem/127_CN.GS.05_Ky-thuat-chan-nuoi-de.pdf
http://thongtinkhcn.com.vn/vn/tin-tuc/detail.php?ELEMENT_ID=207534
https://farm-animals.knoji.com/17-incredibly-handsome-longhaired-goat-breeds-and-their-importance/