Mẹ ơi! Con mẹ lớn rồi,

Con đi làm mướn, kiếm lưng cơm người

Cơm người! Khổ lắm mẹ ơi.

Không như cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn.

Quả thật cơm người đổ lắm mồ hôi, phải vất vả bươn chải, chứ có đâu như những ngày còn thơ ấu, mẹ nâng niu chìu chuộng dỗ dành. Nếu cuộc đời của một con người trải qua thật nhiều ngôi nhà, thì cũng trải qua thật nhiều ngôi trường: trường học và trường đời. Những kỷ niệm của tuổi thơ, có lẽ không in đậm nét bằng những kỷ niệm của những ngày học ở Giảng đường Đại Học. Bởi lẽ ngôi trường Đại Học là nơi người ta đạt được mảnh bằng để định đoạt cuộc đời. Với đa số, Đại Học cũng là ngôi trường cuối cùng, trước khi bước vào cuộc chiến cơm áo, gạo tiền của trường đời.

Trước ngày 30/04/75, nhóm Sinh Hóa của thầy Đinh văn Hoàng và nhóm Sinh Lý của cô Mai Trần Ngọc Tiếng học trên Thủ Đức. Hằng ngày mọi người chờ xe buýt ở đường Hồng Thập Tự để lên Chi khoa Thủ Đức. Cả ngày quây quần bên nhau, học lý thuyết tới thực hành, mọi người vô cùng gắn bó. Hơn nữa, sinh viên cũng không nhiều, nên hầu như cả lớp đều biết nhau, chứ không như học chứng chỉ dự bị SPCN ở Sài Gòn, mỗi lần thầy giảng có tới mấy trăm sinh viên, thực tập thì chia ra từng nhóm nhỏ vì vậy ít biết nhau nhiều.

Sau ngày 30/04/75, chúng tôi trở lại trường, cả hai nhóm Sinh Hóa và Sinh Lý trên Thủ Đức đều sinh hoạt ở Sài Gòn. Chúng tôi được chia thành nhiều nhóm, sau giờ học lý thuyết là giờ sinh hoạt nhóm. Đây là thời gian đáng nhớ nhất.

Trước khi niên học bắt đầu vào tháng 9/75, mọi người chỉ tham gia sinh hoạt đường phố: người thì làm “chim bay cò bay”, tức là hướng dẫn giao thông, tránh nạn kẹt xe, kẻ thì đi dọn dẹp rác ngoài đường. Tôi còn nhớ, ở gần bót Cảnh Sát đường Cộng Hòa (Nguyễn văn Cừ) có một đống rác khổng lồ, suốt bao nhiêu năm cứ nằm đó, kẻ qua người lại mà cứ thản nhiên xem như chuyện bình thường cho tới khi nhóm sinh viên Khoa Học, trong đó có tôi cùng quyết tâm dẹp hẳn. Quả thật, chỉ chưa tới một tuần, đống rác đã biến mất, một khoảng đất trống sạch sẽ hiện ra cho trẻ em vui chơi. Tôi cứ suy nghĩ hoài, tại sao chỉ đơn giản như thế mà người cứ để đống rác nằm đó từ năm này qua tháng nọ. Nhất sĩ nhì nông, sĩ tử ngày xưa chỉ biết vác bút theo thầy, nay ta lại phải vác cày theo trâu. Sinh viên chúng tôi, từ nhỏ tới giờ có bao giờ phải chân lấm tay bùn đâu, mà hiểu được người dân nghèo lao động. Toàn là cậu ấm cô chiêu, dù là sinh viên nghèo như tôi thì cũng chỉ đi dạy kèm, cầm bút, quá lắm thì đi phụ buôn bán lặt vặt, tay chân hoàn toàn chưa hề lấm bùn. Ngày nay, sinh viên của tất cả các trường đều phải đi lao động thực tế.

“Con kênh xanh xanh” Lê Minh Xuân là địa điểm lao động đầu tiên mà dân Khoa Học xí chỗ. Em tôi học Phú Thọ thì đi nông trường Phạm văn Cội hay Tây Ninh gì đó. Lao động mười hai ngày, xe buýt đưa chúng tôi đi ngang qua chợ Bà Chiểu. Ngày đầu tiên tới nơi cũng gần chiều, các tổ trưởng bắt mọi người phải xuống ruộng ngay. Con trai thì vác leng (là những ống sắt tròn được cắt dọc, có cán dài dùng để xắn và xúc đất). Con gái thì đi tay không. Nhìn những mảnh ruộng phèn xâm xấp nước toàn cây cỏ dại, mênh mông và mênh mông. Ai cũng phải xuống. Lúc đầu các tiểu thư công chúa lắc đầu lè lưỡi, do dự rồi cũng phải xuống thôi. Lội bì bõm đi theo tổ trưởng, đi loanh, đi “dzòng dzòng”. Đỉa bám ống quần, trùn đeo tay áo, bù mắt bay vù vù. Thỉnh thoảng xa xa nghe nhiều tiếng hét của mấy cô bị đỉa bám. Vậy mà “lâu dần đời mình cũng quen”. Lội bì bõm chán chê thì nghe tổ trưởng tuyên bố “sai địa bàn”. Không phải chỗ này, lộn rồi. Quái quỉ, lộn cái gì? Tìm cái gì? Ai có biếtđâu, toàn ruộng là ruộng. Ngày hôm sau thì chúng tôi mới hiểu, hôm qua xuống ruộng là để làm quen, chứ có tìm cái gì đâu. Chúng tôi phải đào một con kênh thật lớn để mang nước ngọt vào, rửa bớt phèn, cải tạo đất, biến đất vô dụng thành hữu dụng, và cũng để các cậu ấm cô chiêu nếm mùi “lao động chân tay”. Quả thật nếu không có “bị bắt” đi lao động thì cả đời chẳng ai biết “cơm nắm” là gì. Chúng tôi được chia ra và ở chung với nhà dân, nam riêng, nữ riêng. Nước uống thì hạn chế, có các xe bồn cung cấp cho từng căn nhà. Nước ngọt dùng để nấu ăn, chứa sẵn ở các lu, tắm giặt, rửa ráy đều dùng nước phèn. Để đánh răng, súc miệng, tụi tôi lén lấy một ly nhỏ nước ngọt, súc miệng bằng nước phèn khó chịu quá. Chỉ sau mười hai ngày lao động, khi về nhà, lúc đánh răng tôi còn bi ám ảnh, đến nỗi giật mình khi thấy mình lấy nước quá nhiều, rồi mới chợt nhớ ra mình đang ở nhà mà.

Tôi nhớ Lê Minh Xuân không xa thành phố lắm. Có nhiều bạn vẫn mang theo xe Honda để có thể “dzọt” về thăm nhà chớp nhoáng, bởi vậy Tuyết ở bên khoa Sinh, dân Khoa Học Đà Lạt bị dẹp, phải xuống học chung ở Khoa Học Sài Gòn. Một bữa kia Tuyết bị xỉu, anh bạn cùng tổ vội vàng chạy về chỗ ở, lấy xe Honda vù về nhà Tuyết báo tin. Nhà Tuyết là một biệt thự có cổng sắt, kín cổng tường cao. Nghe tiếng bấm chuông bà người làm đang quét sân ló đầu ra, thấy một anh chàng áo quần rách bươm, mặt mày lem luốc, bà tưởng là ăn mày, hé cổng vứt cho tờ giấy hai chục đồng rồi đóng ập cổng lại, chẳng thèm nói câu nào. Báo hại anh chàng ú ớ cải chính. Trần thị Tần thì ngượng ngùng vì vài hôm bố lại đạp xe xuống đưa cho cái nầy cái nọ.

Chỉ có mười hai ngày, dụng cụ chỉ có leng và cuốc, như một phép lạ, mảnh ruộng toàn cỏ dại đã biến thành một con kênh rất lớn, ở giữa là một bờ đất rộng chắc nịch, xe có thể chạy được. Mọi người đứng hai hàng dài, chuyền khối đất từ người đầu tới người cuối, sau cùng chỉ còn một nắm tay. Nghỉ trưa thì ăn cơm nắm với muối hột. Muối hột nhé, chứ không phải muối trắng mịn như bây giờ đâu. Trước cửa nhà mỗi tổ được phát mấy khúc củi còn nguyên khối, cắt ra từ các thân cây to, một thúng dưa gang muối và mấy quả bí đỏ. Tất cả chỉ có thế. Con trai thì bửa củi. Con gái thì nấu cơm. Bí đỏ cho ít nước là xào, bỏ nhiều nước là canh. Món mặn đã có dưa gang kho muối. Vậy mà ai cũng xúm xít ăn vì đói, không có đủ gạo cho mỗi tổ, chúng tôi phải dành cơm cháy cho bữa điểm tâm, còn cơm nắm thì mang ra chỗ làm. Thấy vậy, tôi đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng: “việc gì bạn làm đầu tiên khi về tới Sài Gòn?, bạn đừng nói đi thăm cha viếng mẹ, bạn đừng nói là gọi người yêu dấu”. Anh chàng Hạnh đã nói thẳng: “về tới Sài Gòn, sau khi tắm rửa sạch sẽ, đi ngay tới tiệm phở làm một tô đặc biệt”. Bạn thấy chưa? Có thực mới vực được đạo, chính sách “củ cà rốt và cây gậy” lúc nào cũng là thứ mà “phàm phu tục tử” phải cúi đầu răm rắp. Chỉ có những bậc chân tu mới thoát khỏi ái dục, ái sắc. Thân của mình đã bị các con ma đói bắt làm nô lệ. Một bậc sư tổ đã chỉ cái nhà cầu nói rằng: “dẫu người ta có ăn gan hùm, gỏi sứa, cao lương mỹ vị, thì sau khi trôi qua cái cổ, xuống dạ dày, cặn bã thải ra cũng ở cái nhà vệ sinh kia thôi”.

Ngày về, khi xe đi ngang chợ Bà Chiểu, Hạnh biệt danh là “Hạnh móm”, vì cái miệng “móm xọm” và anh chàng ròm (hình như Tiền Lạc Quan?), miệng lúc nào cũng lách chách, khi thấy từng núi bí đỏ chất cao, Hạnh móm đã giơ hai tay che kín mắt la lên: “không dám nhìn nữa đâu, gặp mi suốt 12 ngày rồi”.

Sáng vác leng đi, tối vác về, con đường xa tít, vừa đi, vừa nói, vừa ca hát, chẳng phiền hà. Ôi đẹp làm sao thuở học trò!

Xúc đất đào kênh, cho tới khi chập choạng tối, từng đoàn người lũ lượt trở về, vẫn là con trai vác leng, con gái đi tay không. Hồi đó, chưa biết nước phèn làm mục vải, tôi mặc quần sa ten đen, loại này rất thông dụng lúc đó. Hôm đó có trăng lưỡi liềm, tôi đi trước bỗng nghe Hạnh “móm” gọi, anh chàng muốn tôi chờ để cùng vừa đi vừa nói chuyện. Khi về tới nhà ở, tôi mới giật mình khi thấy cái quần mình mặc đã rách tả tơi, hai ống đã tuột chỉ, trở thành một cái váy dài, tôi không hề biết, cứ hồn nhiên nói chuyện rôm rả với Hạnh.

Các bạn đã về trước, đang sửa soạn tắm rửa, tôi mắc cở quá, dậm chân đùng đùng. Mọi người cười um sùm, lại còn đề nghị: “thôi bà thay cái quần khác rồi giả bộ qua hỏi thăm Hạnh, để anh chàng nghĩ là hồi nãy mắt quáng gà, chứ có phải quần rách đâu”. Tôi thở dài và nói “hèn chi, hồi nãy tui thấy sao mà hôm nay trời mát thế, ai dè tại quần mình rách teng beng”.

Được một lúc sau thì nghe tiếng anh Nguyễn văn Thắng “y tế”, anh có một túi đồ nghề mang theo những thứ thuốc lặt vặt la lên: “đâu, cô nào cho tôi coi mắt đâu”. À thì ra có một cô bị nhặm mắt, anh tới nhỏ thuốc chớ có phải coi mắt coi mũi gì đâu.

Sau khi đi đào kênh ở Lê Minh Xuân, chúng tôi lại đi “dạy dân trồng nấm” ở Mộc Hóa, Long An (Mộc Hóa là huyện thuộc tỉnh Long An, cách Thành phố Tân An khoảng 70 km). Thiệt là oái oăm, giá cứ đổi là “học dân trồng nấm” nghe còn đỡ mắc cở. Trồng nấm gì mà thu hoạch lèo tèo. Tôi nhớ là các ụ rơm, đốt cho cháy xém để lấy tro làm phân bón, sau đó ủ rồi chờ mấy ngày sau nấm mọc ra, gọi là nấm rơm. Chúng tôi cũng ở nhà dân, ở đây đỡ hơn ở Lê Minh Xuân, nhưng cũng vẫn là nơi nước phèn. Gà ở đây rất bạo dạn, khi chúng tôi bưng bát cơm ăn, gà nhảy lên cánh tay và mổ lia lịa hết sạch bát cơm. Thiệt bản năng sinh tồn của mọi loài quá mạnh, trẻ con ở mấy buôn Thượng, chỉ biết đi là đã lẫm chẫm ra hứng miệng uống nước ở mấy ống lồ ồ dẫn nước, thấy mình cầm củ khoai thì giơ tay ra xin, vì biết là thứ ăn được.

Dân Long An ở trong sâu, xa đường lộ, chứ thật ra có xa gì thành phố lắm đâu, vậy mà hôm chia tay, sinh viên có tổ chức buổi văn nghệ giúp vui, dân chúng nô nức đi xem. Đàn ông thì cầm đuốc dẫn đầu, các cô gái thì tóc thắt nơ hai bên, má phấn môi son đỏ chót, nhìn cứ tưởng là diễn viên. Còn diễn viên thì quần xắn móng lợn, mặt thì để mộc mạc, không có chuẩn bị gì đâu. Mỗi lần có tiệc tùng thì phải năn nỉ ỉ ôi, chẳng ai chịu hát, còn ở đây người dân giơ tay xung phong xin hát. Thật là bất ngờ cho cả “Ban Tổ Chức”, đành dành cho dân chúng biểu diễn. Hóa ra không phải mình biểu diễn cho dân xem, mà là ngược lại. Đi trồng nấm thì nhàn hơn đi đào kênh vì chỉ ủ rơm, chờ ngày nấm ra, trong lúc chờ đợi, chúng tôi được tham gia đủ trò chơi: kéo co, nấu cơm v.v…

Tổ của tôi gồm có Trần thị Tần Tổ trưởng, tôi (Lại thị Mơ) làm Tổ phó. Mỗi lần thi với tổ khác, tôi và Tần một phần thật thà, một phần hai đứa nghĩ mình là dân nội trợ nên rất tự tin. Nhớ có lần thi nấu cơm, nhúm lửa rất khó vì bằng xơ mía, củi thì ướt mà gió thì thổi vù vù, cuối cùng cơm cũng cạn, bỏ than lên mặt vung cho cơm chín. Đến chừng Giám khảo Tiền Lạc Quan và một anh nào đó tôi quên rồi, mỗi người đi chấm một tổ. Tiền Lạc Quan chấm tổ của tôi. Thí sinh phải giở nắp vung cho Giám khảo chấm, kẹt nỗi không có đồ lót, lập cập làm tro rớt vào cơm, cơm lại chưa chín. Trong khi đó, tổ bên kia ăn gian, nấu hơi chín sương sương, tới lúc thi chỉ đem đun lại xăm xắp, rút ngắn thời gian, trong khi tụi tôi thật thà, đi từ giai đoạn vo gạo, bởi vậy làm sao chín kịp (về sau tụi tôi mới biết, do tụi nó thú nhận). Tiền Lạc Quan nói: “Tổ bên kia cơm là mười, bên chị là chín rưỡi”. À à, anh chơi chữ phải không? Tôi và Tần cầm cái cây hăm dọa: “không cần biết chín rưỡi hay mười gì hết, anh chỉ cần nói một tiếng đậu hay rớt?” Tiền Lạc Quan hắng giọng, chân chuẩn bị, miệng tuyên bố: “rớt” rồi phóng mình chạy, tụi tôi rượt theo trong tiếng cười nắc nẻ của mọi người.

Sau đó, các đợt lao động giảm dần để mọi người tập trung vào học chuyên ngành, chỉ còn họp tổ chính trị, thường là ngồi ở hành lang. Tôi nhớ Lê Như Kha (đã mất) hay đánh đàn ghi ta, Nguyễn Ngọc Ngân (nhà ở chợ Vườn Chuối) đóng kịch.

Sau đó, mọi người lần lượt từ giã trường học để vào trường đời, nhưng những kỷ niệm đó không bao giờ phai nhạt.

Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên!