Âm lịch có 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn (xưa đọc là “Thần”), Tỵ, Ngọ, Mùi (còn đọc là “Vị”), Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi địa chi được biểu trưng bởi một con thú quen thuộc với dân gian.
Tuy âm lịch Việt Nam và âm lịch Trung Hoa tương tự nhau, nhưng những con thú biểu trưng cho các địa chi không hoàn toàn như nhau. Do vậy, khi đọc những tài liệu nói về âm lịch bằng tiếng Anh ta thường thấy có một vài năm con thú biểu trưng cho những năm ấy không giống như những con thú biểu trưng trong lịch Việt Nam. Có lẽ do sự giao lưu, tiếp xúc của người Tây Phương với Đông phương đầu tiên với Trung Hoa từ đầu Thế Kỷ thứ 19 nên người Tây phương biết đến lịch Trung Hoa nhiều hơn lịch Việt Nam, do đó họ dùng những con thú biểu trưng cho các địa chi trong năm âm lịch theo lịch Trung Hoa.
Riêng năm Mùi, con thú biểu trưng cho địa chi “Mùi” hay “Vị” là con Dê trong lịch Việt Nam, nhưng trong lịch Trung Hoa là con Trừu (Cừu), tiếng Hán Việt là “miên dương” 綿 羊: dê bông.
Lý do của sự khác biệt này có lẽ do những điều kiện địa lý, môi trường, khí hậu, cũng như kinh tế. Ở Việt Nam, người ta không có nuôi cừu để lấy lông như ở những nước ôn đới. Con dê (dê nhà, đã được thuần hóa) trong đời sống dân gian, quen thuộc với người Việt hơn con trừu. Còn nhiều loại dê khác như sơn dương (dê núi), linh dương, … không quen thuộc lắm.
Nhiều tục ngữ, thành ngữ, ... có đề cặp đến con dê. Có thể kể “Dê tế thần”, “Cà kê dê ngỗng”, “Lùa dê vào miệng cọp”, “Treo đầu dê bán thịt chó”, “Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi”, v.v... Nhiều ca dao như:
“Giả vờ bịt mắt bắt dê,
“Để cho cô cậu dễ bề với nhau ...
“Ru em buồn ngủ buồn nghê,
“Con tằm chín đỏ, con dê chín mùi,
“Con tằm chín đỏ để nuôi,
“Con dê chín mùi làm thịt em ăn...
Cũng phải kể những thành ngữ, tục ngữ “rặt” tiếng Hán Việt như “Dương chất hổ bì” (bề ngoài là da cọp thấy dữ dằn, nhưng bên trong là tánh dê, nhát hít không oai nghi như cọp), tương tự như “Hồ giả hổ uy” (Cáo mượn oai hùm) ; “Kiến ngưu như kiến dương” (Thấy trâu bằng dê), “Hổ trục quần dương” (cọp đuổi bầy dê: một thế đất tốt), “Đố phốc trụ lương, văn tẩu ngưu dương” (Con mọt làm gãy được rường cột ; Con muỗi đuổi được trâu dê), v.v... cùng nhiều điển tích như “Tô Vũ chăn dê” (“Tô Vũ mục dương”, đời Hán Vũ Đế), “Năm bộ da dê” (“Ngũ Cổ Đại Phu Bá Lý Hề”, đời Chiến Quốc), v.v...
Nhất là những thành ngữ có ý nghĩa khôi hài, tiếu lâm như: “cười dê”, “có máu dê”, “dê xòm”, “thả dê”, “35 con dê”, “già dê già dịch”, “băm lăm con dê” hay nói tắt là “băm lăm” (ba mươi lăm: 35), hoặc động từ “dê”... thường được áp dụng để chọc cười, châm biếm, kêu ngạo những “ông già” mê gái hay thích theo đàn bà con gái. Còn có nhiều tiếng lóng để chỉ con dê ám chỉ tính “mê gái” như “ông thầy”, “sư phụ”, ...
“Con người Bùi Kiệm máu dê,
“Ngồi chai bộ mặt như giề thịt trâu ...
(Lục Vân Tiên)
Ngay cả cây so đũa dùng trong thành ngữ cũng được suy diễn từ tính cách này, như trồng so đũa, có lẽ vì dê thường thích ăn lá so đũa hơn nhiều loại cây cỏ khác.
Về họ Dương có 4 họ khác nhau, nhưng đồng âm, Hán tự có nhiều cách viết khác nhau: 羊 揚 (扬 敭) 楊 陽 (昜) có nghĩa như âm dương cũng có khi bị chọc ghẹo là “dê”, vì “dương” 羊 tiếng Hán Việt có nghĩa là con dê.
Do vậy số 35 đối với đàn ông con trai có lẽ được coi là “số hên”.
Có lẽ do trò đánh số đề mà số 35 tượng trưng cho con dê. Trong các số đề, số 35 là con dê, cũng như số 30 là con cọp, do đó con cọp cũng được gọi là “ông Ba Mươi” để tránh gọi “cọp” hay “hổ” để “kỵ húy” sợ gọi cọp sẽ ra bắt ăn thịt.
Viết bài “Năm Mùi nói chuyện dê” thì có lẽ thường quá, vì đã có nhiều tác giả viết về chuyện dê rồi, mà “nói chuyện về dê” thì nhiều lắm, không thể tóm gọn trong một bài viết ngắn.
Vậy xin chép lại một số hình tượng về con dê
1- Trước hết là ký tự hay chữ viết tượng hình: chữ cổ Trung Hoa (chữ Hán)
Hán tự là loại chữ tượng hình.
Thí dụ chữ “mã” 馬 có 4 chấm phía dưới tượng hình 4 chân ngựa. Có lẽ con ngựa được nhìn ngang nên ký tự tượng hình con ngựa được vẽ có 4 chân. Còn con dê, có lẽ được nhìn từ phía trước đầu nên chữ “dương” 羊 có 2 nét phía trên tượng hình 2 sừng dê.
Một số thư pháp viết chữ “dương” 羊
Thư pháp vẽ nguyên hình con dê
Một tiệm bán thịt dê ở Hải Nam có treo tấm bảng vẽ hình con dê, dùng thư pháp vẽ hai chữ “dương nhục” (羊 肉) nghĩa là thịt dê. Trong hình có thể thấy 2 phần: phần đầu con dê có 2 sừng là chữ “dương” (羊) nghĩa là con dê, và phần sau, cái mình con dê, chỗ có nhiều thịt là chữ “nhục” (肉) nghĩa là thịt.
羊肉 (dương nhục): Thịt dê
Chữ “dương” (羊) qua các thời đại
Qua các thời đại, chữ viết tượng hình cũng thay đổi dần. Để chỉ con dê, các chữ tượng hình vẽ con dê cũng thay đổi dần cho đến lối viết chữ “dương” ngày nay: 羊
Bạch dương khai bút? cát tường như ý
Thư pháp chữ “dương” (羊) chữ tượng hình con dê có hai sừng cong
Chữ “Mị” : tiếng dê kêu “be be”
(Hình thư pháp từ trang mạng aitupiancom@163.com)
2- Hình tượng con dê trong Thiên Văn và Tử Vi Tây phương
Trong lịch Đông phương hay âm lịch có năm Mùi hay Chi Mùi, con thú biểu trưng là con Dê. Còn trong Tử Vi Tây phương mỗi năm có hai tháng có tuổi con dê: Aries và Capricorn
Aries: Tuổi của những người sinh từ 21 tháng 03 tới 20 tháng 04. Aries được dịch là Miên Dương, Bạch Dương hay Dương Cưu. Miên dương (綿羊) nghĩa là “dê bông” tức con trừu hay cừu, bạch dương (白 羊) nghĩa là con dê màu trắng, và dương cưu (羊 鬮), mượn hình tượng con dê để bói.
Chòm sao Aries: hình vẽ và ký hiệu
Capricorn: Tuổi của những người sinh từ 22 tháng 12 tới 19 tháng Giêng. Capricorn được dịch là Nam Dương (chưa rõ chữ “nam” có nghĩa giống đực 男, hay “Nam” nghĩa là phía Nam 南). Chòm sao hay tuổi Capricorn, tiếng Trung Hoa là “Ma Yết” 魔 羯 (“yết” 羯 nghĩa là con dê đã bị thiến!)
Chòm sao Capricorn: hình vẽ và ký hiệu
3- Hình ngũ giác và hình ngôi sao có hình tượng đầu con dê đực
Những hình ngũ giác và hình ngôi sao (Pentagram hay Pentacle) được biết là những biểu tượng huyền bí, siêu nhiên, dùng trong nhiều Pháp thuật, như phù phép của phù thủy, có thể có khả năng triệu thỉnh những Thần Linh và Quỷ Thần thật linh nghiệm.
Các cạnh của hình ngôi sao giao nhau tạo thành một hình ngũ giác ở giữa. Năm cánh sao kết hợp năm nguyên tố cấu thành vũ trụ: đất, nước, gió, lửa và yếu tố tinh thần, tâm linh.
Những hình ngũ giác có hình tượng đầu con dê đầu tiên xuất hiện trong quyển La clef de la Magie Noire (Chìa khóa của những Bí Thuật) của nhà Siêu Nhiên (occulist) người Pháp Stanislas de Guaita, xuất bản năm 1897.
Những hình tượng “Sabbatic Goat” được Eliphas Levi sáng tạo từ Thế Kỷ thứ 19.
Trên đầu, giữa trán của những hình tượng này đều có hình ngôi sao.
Hình ngôi sao có sừng (Horned Pentagram): Đây là biểu tượng của “Thần có sừng” (Horned God) hay “Dương Thần Mendes” (Thần Dê Mendes Goat). Trong Giáo phái Wicca, vị Thần này tượng trưng cho “chiều phân cực dương của vũ trụ, điển hình là một “Shaman có sừng” (horned Shaman – “shaman”: nhà ngoại cảm những “xác cô xác cậu”, “đồng bóng”, “môi giới”, v.v... có những ma thuật và có khả năng “xuất quỷ nhập thần”...) có liên hệ với những vị Cổ Thần về Cây Cỏ và Săn Bắn (ancient Gods of Vegetation and the Hunt): Thần Pan của Hy Lạp (Greek Pan – vị Thần Đồng Áng, nửa thân người, nửa thân dê, có chân và sừng dê), Thần Cernunnos của người Celt (Celtic Cernunnos) và Thần Ammon của Ai Cập (Egyptian Ammon/Amun-Ra).
Biểu tượng này còn được gọi là “biểu tượng mặt trăng có sừng” (horned moon), là biểu tượng của Nữ Thần Diana đặc biệt của Giáo phái Wicca (Dianic Wicca).
Hình ngôi sao ngược, đỉnh ngôi sao hướng xuống dưới, biểu tượng của quỷ Satan (Devil), biểu trưng quyêần năng của quỷ (evil)
Trong hình ngôi sao ngược trên, có các chữ “SAMAEL” và “LILITH”.
Truyện Thần Thoại Do Thái, Samael là Nữ Ác Thần (female demon), một nhân vật trong truyền thuyết Talmadic và Lilith trong Truyện Thần Thoại của người Do Thái (Jewish Mythology).
Những ký tự ở đỉnh các cánh của hình ngôi sao là những ký tự Hebrew, đọc là “Leviathan”, tên một linh vật trong truyền thuyết Do Thái.
http://en.wikipedia.org/wiki/Baphomet
http://www.jesus-is-savior.com/False%20Religions/Freemasonry/freemasonry_exposed.htm
4- Mano Cornuto
Dấu tay có hình tượng đầu con dê có hai sừng: Dấu hiệu của Quỷ Satan (Signs of Satan)
Mano Cornuto, tiếng Ý nghĩa là dấu tay có hình tượng 2 cái sừng ; “cornuto” nghĩa là “có sừng”, “có mọc sừng” – có lẽ là sừng dê!
Dấu hiệu này cũng được thông dụng ở nhiều nước Âu Châu như Albania, Ba Tây, Bồ Đào Nha, Columbia, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Tiệp Khắc, v.v... và cả ở Việt Nam!
Cử chỉ và ý nghĩa như nhau ở tất cả các nước này: khi đứng chụp hình chung, một người bạn ở phía sau để dấu tay này sau đầu của một bạn phía trước, để chọc ghẹo, phá giỡn, ý nói người bạn đó bị “cặm sừng”!
(Có lẽ khi qua Việt Nam, dấu hiệu này đã bị “tam sao thất bổn”, dùng 2 ngón tay trỏ và ngón giữa làm biểu tượng cái sừng để sau đầu người bạn khi đứng chụp hình?)