Kiên Giang ngày 13 tháng 6 Nhâm Thân (1932)
Ngọc lịnh Thầy xưa đã dạy troàn,
Hoàng ngôn Thầy định tại Kiên Giang,
Ðại thừa Thầy nhóm vầy sum hiệp,
Ðế chiếu Thầy ngăn kẻ bạo tàn.
Nghe thi:
Nhâm Thân đột múa ráng coi chừng,
Non cấm Thầy xem kém vẻ xuân,
Chơn Lý Ðạo mầu tua cẩn thận,
Gìn lòng son sắt kẻo ăn năn.
Nghe lời Thầy dạy:
Ðượm cây cỏ Nhâm Thân bước tới,
Rưới hồng ân tắm gội các con;
Khuyên con bổn phận lo tròn,
Ðừng lòng chác oán cưu hờn nhau chi.
Rèn lòng hai chữ Từ Bi,
Sớm trưa kinh kệ qui y theo Thầy. (1)
Thầy đã dạy rẻ mây vén ngúc,
Con bao đành lấp ngọc vùi châu;
Hoài công vung quến bấy lâu,
Trông con sửa lổi hồi đầu ăn năn.
Ðường ngay Thầy dạy phải phăng,
Trước sao sau vậy vùng vằng ích chi. (2)
Chữ bĩ thái thạnh suy chỉ rõ,
Tánh tham sân ái ố khuyên chừa;
Tà ma ngoại đạo kế lừa,
Gạn trong lóng đục, ngăn ngừa lắm con!
Gìn lòng gan sắt dạ son,
Hớ hinh một phút hao mòn công phu. (3)
Ma quỉ dụng lời rù tiếng quến,
Miển sao cho kẻ mến người ưa;
Trách con thấy quấy chẳng chừa,
Còn theo đeo đuổi sớm trưa chẳng rời.
Dạy con Thầy chỉ cơ Trời,
Chánh Tà Yếu Lý hết lời biện phân. (4)
Các con bởi phân vân Tâm Tánh,
Chẳng biện phân đàng chánh nẽo tà,
Ham chi cái thói phù hoa,
Ham chi cái giọng hê hà bãi buôi.
Ham chi cái lối ngược xuôi,
Làm cho bọn quỉ dể duôi lộng vào. (5)
Sức Chơn Lý như phao đang nỗi,
Nơi Ðịnh Kiên là cội là nguồn;
Ðịnh Tường gió vụt mưa tuôn,
Kiên Giang tấp nập luôn luôn đêm ngày,
Thương con đang tỉnh hóa say,
Tại lòng dục vọng ham bày phô trương. (6)
An Thiên Hội Thầy đương mở cuộc,
Dụng các con làm Ðuốc Thiêng Liêng;
Phong con Thầy có kệ khuyên,
Trách con chẳng nể chẳng kiêng lời Thầy.
Cho nên quỉ kế tiếp tay,
Giục xuôi con trẻ bỏ ngay chơn truyền. (7)
Thầy quảng đại vô biên vô lượng,
Thương các con nghiệp chướng dẫy đầy;
Lời tà con để vào tai,
Sớm khuya con đọc đêm ngày con xem.
Lời Thầy con nỡ im lìm,
Ðặt bày kiểm dượt đặng thêm tay phàm. (8)
Bạch y Ðạo nhà Nam tối kỵ,
Nỡ đành lòng lập vị cãi Thầy;
Xiết bao ngậm đắng nuốt cay,
Con còn như thế, người rày thể nao?
Thầy đà ruột héo gan xâu,
Khuyên con tu tỉnh kẻo đau lòng Thầy. (9)
Ngày xuân nhựt chẳng dầy vuôn tấc,
Khuyên các con tuân Luật Cao Ðài;
Tam Thanh luật cả chớ phai,
Thinh thinh biển rộng sông dài núi cao.
Con ôi! Tỉnh giấc chiêm bao,
Thầy còn nhiều lúc âm hao phân trần. (10)
Lập quốc Ðạo thiên tân vạn khổ,
Dạy các con phổ độ chúng sanh;
Các con mãng tại cầu danh,
Lớn làm nhỏ học tranh dành thấp cao.
Miệng Ngô mà bụng ở Tào,
Dựng phe kết đảng ngăn rào lấp sông. (11)
Khen các trẻ chẳng lòng hổ thẹn,
Nỡ dạ nào quên tiếng Thầy khuyên;
Kể từ Thầy lập An Thiên,
Biết bao nhiêu nỗi than phiền với con.
Rằng: khuyên lớn nhỏ lo tròn,
Giúp Thầy chuyển Ðạo sắt son trọn niềm. (12)
Thương con dại nghĩ thêm tím ruột,
Cứu cơn nguy Thầy buộc dỉ hơi;
Cạn sâu thêm tỏ đôi lời,
Khuyên đừng tật đố rã rời nhau ra.
Trăm điều nên xét gần xa,
Củng đều máu mủ thịt da của Thầy. (13)
Lời hằng ví: một cây tròi trọi,
Làm sao cho nên nỗi hòn non;
Giữa sông bổng nỗi nên cồn,
Nhờ nhiều hột cát đấp dồn mới cao.
Ðông mày thì tây có tao,
Giúp lời giúp sức việc nào chẳng nên. (14)
Trăm việc phải chí bền mới được,
Một bước cho một bước vững vàng;
Ðừng tin những tiếng hoang đàng,
Ðừng tin những tiếng dịu dàng quỉ ma.
Ðừng mê những việc cao xa,
Ðừng mê những việc dối ta dối Trời. (15)
Khuyên các trẻ nghe lời Thầy dạy,
Ðừng ham lo bay nhẩy phi thường;
Tu Chơn Thiệp Quyết chỉ tường,
Chánh Tà Yếu Lý mọi đường biên phân.
Ðạo Thầy như nước trong ngần,
Ðạo không xao dợn phân vân rộn ràng. (16)
Ðạo Thầy ở khắp tràng vỏ trụ,
Ðạo Thầy lo khuyên nhủ nhơn sanh;
Khuyên người bỏ dử theo lành,
Chẳng khuyên ở núi, ở ghành, ở hang.
Chẳng khuyên theo thói dị đoan,
Chẳng khuyên hiệp lũ vầy đoàn dối dân. (17)
…
Hành Ðại Ðạo đừng cần sang trọng,
Cũng đừng so nhà rộng chòi tranh;
Cân là: cân sự học hành,
So là: so cái chí Thành động Thiên.
Cân là: cân kiếp thiêng liêng,
So người: quỉ cụ thần kiên anh tài. (28)
...
Trước dẩu có một hai vít tích,
Khuyên con đừng chích mích nhau chi,
Từ đây đường cả chung đi,
Hiệp tâm chúng trí đừng nghi chuyện rồi.
Cây xanh nhờ có nhiều chồi,
Đạo nên nhờ có Thầy Trời giúp cho. (30)
Đức Chí Tôn dạy:
Hiệp chí đồng lo Đạo nước nhà,
Hiệp vầy đoàn thể, ớ con Ta!
Hiệp hòa trên dưới tình liên lạc,
Hiệp thuận anh em nghĩa mặn mà,
Hiệp ý keo sơn gìn dạ một,
Hiệp đường Táng Mạng buổi Kỳ Ba,
Hiệp tâm chúng trí đừng nghi lẫn,
Hiệp được gần rồi, mới hiệp xa.
Đàn đêm 20 tháng 7 Nhâm Thân (1932)
Ngọc Kinh định mở Đạo nhà Nam,
Hoàng điện đành buông để giáng phàm,
Thượng trí khá mau ra giúp sức,
Đế Vương nào ví Đạo kỳ Tam.
Nền Ðại Ðạo xanh um cổ thọ,
Ðuốc Cao Ðài rạng tỏ Ngũ Châu;
Khuyên con bền bĩ trước sau,
Một lòng khắng khít cùng nhau chớ rời.
Lòng con Thầy đã thấu rồi,
Giáng đàn Thầy lập vị ngôi Thánh Tòa. (31)
Khắp trần thế còn xa Thánh Huấn,
Bởi các con chưa đặng Nhứt Tâm;
Con ôi! Muốn rõ cao thâm,
Gần Thầy, Thầy sẻ chỉ lầm lạc cho.
Học Ðạo thì ráng lòng lo,
Hành Ðạo thì chớ so đo cân lường. (32)
Nhắc đến lúc Trung Ương Thầy lập,
Gióc lòng thâu Tam Thập Lục Thiên;
Lẽ gì Ðạo đã được yên,
Lẽ gì Ðạo khỏi chinh nghiên đến rày.
Lẽ gì Ðạo được nỡ mày,
Có đâu Ðạo phải đắng cay trăm bề. (33)
Cũng vì trẻ chia phe chia đảng,
Cũng vì con làm lãng làm lơ;
Kinh Thầy con đã nghi ngờ,
Lời Thầy con lại bơ thờ bỏ qua.
Ruột rà ngay thẳng bỏ ra,
Nịnh hùa chuốt ngót bối da đem vào. (34)
Thầy bệ Ngọc khát khao trông đợi,
Ước cho con bước tới đường ngay;
Trông thôi trông đã mõi mày,
Ðợi thôi càng đợi càng ngày càng xa.
Ráng thương Thầy chút với mà,
Thương Thầy đặng hiệp đặng hòa cùng nhau. (35)
Thầy đã dạy đâu đâu cũng một,
Bỡi xa nhau nên cuộc mới chia;
Ðừng cho kế quỉ phân lìa,
Ðừng cho miệng thế tiếng bia vang đồn.
Ðạo chia nhiều phái nhiều môn,
Vì chưng cơ bút mình tôn lấy mình. (36)
Con phải biết chương trình hiệp nhứt,
Phải lọc lừa tịnh thất hiệp vào;
Các nơi cơ bút lao nhao,
Ðều kêu hiệp lại con trao lời vàng.
Ðừng cho tách cõi tách đàng,
Càng xa Thánh Huấn nó càng tư riêng. (37)
…
Phùng, con chớ cơ cầu húng hính,
Chức Thiên Sư Thầy định trước rồi,
Con đừng chặc dạ kín môi,
Hiệp Thiên Đài đó, con ôi! giúp Thầy.
Phong con Chưởng Quản Đài này,
Có con ắt được rẻ mây trong Trời. ((46)
Khuyên con phải tuân lời Thầy dặn,
Lọc đồng loan dùng thẳng nới tay,
Bày chim vừa sập sận bay,
Làm sao biết được cung mây mấy từng,
Miễn cho hớn hỡ Trời xuân,
Ngàn hồng muôn tía vui mừng rước xuân. (47)
Chức Chưởng Quản phải cần học hỏi,
Bảy chơn như lộn cỏi trần gian,
Hạ mình con phải hỏi han,
Rước về làm bạn Đạo càng thêm cao,
Dạy con đã dạy hồi nào,
Vì con bê trể để sao lãng hoài. (48)
Định Tường đêm 24 tháng 7 Nhâm Thân (1932)
Ngọc bản danh đề định đã lâu,
Hoàng phong thăng thưởng kẻ mày râu,
Thượng thương quyết dựng nền Chơn Lý,
Đế đạo tràng tuông khắp Á Âu.
Thầy lóng đủ các lời con trẻ,
Ðứa thì vui, có kẻ bần dùn;
Cám ơn các trẻ có lòng,
Thầy dầu nhọc sức hao công sá gì.
Ðã hay Ðạo vốn Vô Vi,
Nhưng cần phải chổ đặng qui mối giềng. (51)
Khuyên trẻ phải hết riêng Tâm Tánh,
Ðồng cùng nhau lo gánh Ðạo Trời;
Thì Thầy thở được dài hơi,
Thì con được việc được lời đó nghe.
Khuyên con rộng rãi trăm bề,
Ðã rằng Ðại Ðạo chớ chê bực nào. (52)
Dưới Trời Ðất đồng bào cả thẩy,
Bị lỗi lầm nên quấy nên sai;
Thầy nhìn con cã gái trai,
Ngày nay lạc bước ngày mai cũng về.
Quên đâu rằng quán rằng quê,
Nên Thầy chước lượng lập bề dổ khuyên. (53)
Thầy quyết dựng cái nền Chơn Lý,
Cửu Trùng Ðài lập vị cho thành;
Con nào thảo thuận làm anh,
Ðạo là gạo muối để dành độ thân.
Con nào xiêu lạc cơ bần,
Trở về thì được mọi phần ấm no. (54)
Thầy thương trẻ nên lo cần kiếp,
Cửu Trùng Ðài cho kịp thời kỳ;
Thầy đà cạn nghĩ kỹ suy,
Càng lâu càng lộn thau chì đó con.
Muốn cho Ðạo được vuông tròn,
Nghe lời Thầy dạy trành tròn chẳng nên. (55)
…
Ðừng có dạ chia lìa như trước,
Ðừng lòng lo nắm được phần mình;
Ðừng lòng chích mích em anh,
Ðừng lòng tật đố cành nanh chữ quyền.
Lo sao Ðạo khỏi chinh nghiên,
Lo sao Ðạo được thông miền Ngũ Châu. (69)
…
Sách có chử: "phụ tùng phu xướng",
Hể vợ hiền là tướng của chồng,
Chồng nên nhờ vợ coi trông,
Chồng nên vợ cũng bản phong danh đề.
Giúp Ca con phải dặt dè,
Biết bao yêu quái dựng phe kết đoàn. (72)
…
Tòa Thánh sẵn trùng phùng hội hiệp,
Khuyên các con liên tiếp cùng nhau;
Chúng sanh thức tỉnh mới mau,
Chúng sanh mới hưởng phong trào Thuấn Nghiêu.
Ớ nầy, trẻ dại rất yêu,
Nghe Thầy nhứt định Qui Điều mà theo. (75)
Qui Điều:
Ớ các con yêu dấu, nghe Qui Điều Thầy đây mà thi hành, chớ không tuân theo mà có tội…
Cao Thiên Đàn (Rạch Giá)
Đêm 14 tháng 4 năm Quí Dậu (1933)
(Tường Khánh chấp bút)
Ngọc lành dể để người nao,
Hoàng kiến khuyên con ghé mắt vào,
Đại đức mới mong chầu đại điện,
Đế quyền thức tỉnh giấc chiêm bao.
Thầy mừng các con. Nghe Thầy dạy:
Tìm ngọc báu non trèo biển lặn,
Kiếm châu lành giãi nắng dầm sương;
Ðạo cao phải học mới tường,
Mênh mong biển rộng khó lường không đong.
Ngày đêm khuyên ráng chí công,
Dầu cho cầm thú có lòng cũng nên. (76)
Ngày tháng tựa đường tên thắm thoắt,
Sớm cùng trưa con ác chẳng chờ;
Tu cho biết bến biết bờ,
Tu đừng bày việc vất vơ phĩnh người.
Mị ly, vọng, lượng, hại đời,
Tránh sao cho khỏi lưới Trời bủa giăng. (77)
Nền Chơn Lý trang bằng rất quí,
Mối Vô Vi Âu Mỷ đương tìm;
Thương con Thầy dạy tất tim,
Sao con nỡ để sắn bìm phủ leo.
Thương con Thầy chỉ lái lèo,
Con đành hờ hõng cái dèo gió giông. (78)
Ðồng một Ðạo mà lòng chia rẽ,
Bởi nghi quyền, tranh thế mà ra;
Ðặt lời Thầy dạy chia ba,
Dối người thì dể, dối Ta dể gì?
Thần Tiên lụy nhỏ ai bi,
Cám thương sanh chúng mắc kỳ nạn vương. (79)
Thầy đã mở Trung Ương là gốc,
Dạy các con chủng tộc thương nhau;
Năm châu một thể đồng bào,
Dầu người khác giống cũng nhao rún mình.
Cầu cho tránh sự đao binh,
Cầu cho thiên hạ thái bình muôn năm. (80)
Ðạo chẳng dạy đường lầm nẽo quấy,
Ðạo chẳng truyền bùa giấy phép ma;
Con ôi! Muốn rỏ Ðạo Cha,
Ðạo Cha chánh trực, vô tà, vô tư.
Ðạo Cha chép để thi thư,
Ðạo Cha khuyên trẻ ba dư học hành. (81)
Ðạo gốc dạy dân sanh làm phải,
Ðạo dắc người đường phải chánh chơn;
Ðạo khuyên Trung Hiếu Nghĩa Nhơn,
Ðạo khuyên con trẻ xót thương nhau hoài.
Ðạo không tách một rẽ hai,
Ðạo là hiệp nhứt cả loài thế gian. (82)
Thương con dại lầm đường lạc ngõ,
Ðường chánh chơn đành bỏ chẳng màng;
Thần Tiên cạn tiếng gián can,
Anh em ủ đột, khô khan tâm bào.
Chỉ Trời, chỉ Ðất, chỉ sao,
Nói Nam, nói Bắc, nói khào giành tin. (83)
Dạy Thiên Ðạo giống hình ảo thuật,
Thương các con trí thức ở đâu;
Khéo tin nhửng việc cơ cầu,
Khéo tin nhửng việc dấu đầu dấu đuôi.
Thế thần chước quỉ giục xui,
Gặp cơn giông tố đuổi ruồi được chăng? (84)
Nghe Thiên Ðạo chẳng cần ai chỉ,
Thiên Ðạo là Thiên Lý nơi Tâm;
Thử xem con trẻ còn nằm,
Biết nhìn cha mẹ chẳng lầm người dưng.
Ngày đêm xây chuyển không ngừng,
Bốn mùa tám tiết một chừng không sai. (85)
Tìm Thiên Ðạo cần ai phải chỉ,
Lòng chí thành suy nghỉ thì ra;
Ðạo Trời nào phải yêu ma,
Ðạo Trời nào phải dối Ta gạt Người.
Ðạo Trời nào phải trò cười,
Ðạo Trời quí báu muôn đời sách ghi. (86)
Hành Thiên Ðạo Vô Vi phải biết,
Chữ tùy thì biến diệt phải thông;
Thánh nhơn thừa thữ lục long,
Nào ai biết đặng lại phòng bôn chôn.
Phải thông hai chử Hà Ngôn,
Âm thinh sắc tướng phải chôn Ngươn Thần. (87)
Thầy biết quỉ muôn phần nhiều mối,
Lập Thánh Tòa Thầy hội Trung Ương;
Lời Thầy chánh chánh đường đường,
Các con mặt trái cang cường chẳng tuân.
Nghe không củng tại số phần,
Song Thầy củng ráng đặng ngăn chỉ dùm. (88)
Thầy hằng dạy hiệp sum một cửa,
Chọn Trung Ương là giửa trung tim;
Ðông, Tây, Nam, Bắc thuận êm,
Bộ đi cũng vững, thuyền tìm cũng xuôi.
Các con tới tới lui lui,
Minh minh bạch bạch, khỏi chui nhủi người. (89)
Tiếng dậy khắp Thầy Trời dạy Ðạo,
Cả Năm Châu tôn giáo mội không;
Các con sao nở đành lòng?
Các con sao nở vội vong ơn Thầy.
Các con chẳng phải dại ngây,
Các con mau tỉnh nghe Thầy bớ con! (90)
Cao Thiên Đàn (Kiên Giang)
Đêm 15 tháng 4 năm Quí Dậu (1933)
Ngọc báu Thầy dành để sẵn nơi,
Hoàng phong thiên chức phải trò chơi,
Đại đồng thế giái Thầy chưa định,
Đế định khuyên ai chớ dể ngươi.
Thầy trước nói Ðạo tròn thoạt méo,
Bỡi các con chẳng khéo mà ra;
Tiếng đồn Chơn Lý bay xa,
Các con nỡ để loài tà lộn xen.
Các con Ðạo học thấp hèn,
Lại thêm đải sĩ chiêu hiền cũng không. (91)
Kìa Chiêu Thánh Thầy phong tận mặt,
Ðược phong rồi tự đắc tự kiêu;
Nào hay kiêu ngạo bấy nhiêu,
Ðều là thuốc độc tinh yêu nhuộm vào.
Dầu cho Tiên Phật phẩm nào,
Có lòng tự thị phải nhào chơn ngươn. (92)
Ma quỉ dụng giọng đờn tiếng quyến,
Xui giục người nhiều chuyện hoang đàng;
Nhỏ to thầm tính mưu gian,
Quến người trí thức mê mang tinh thần.
Các con mau tỉnh lần lần,
Có ngày may được xá ân của Thầy. (93)
Trăng gặp lúc vừng mây che khuất,
Người phải tua nổ lực tu hành;
Tu cho mục đích đành rành,
Tu đừng lập vị, lập danh, lập quyền.
Tu cho quỉ phục thần kiên,
Tu đừng lo lập chùa chiền hại dân. (94)
Thầy chuyển Ðạo lẫy lừng bốn biển,
Thầy có đâu triếu mến chùa to;
Con nào muốn lập cơ đồ,
Bịa danh huyển hoặc đừng hô danh Thầy,
Rìu trăng chẵng dụng đốn cây,
Rìu trăng dụng để đốn tay gian hùng. (95)
Thầy nhắn nhủ khắp cùng con dại,
Ai dạy làm việc phải thì nghe;
Chớ ham hiệp lủ vây bè,
Trăm điều cẩn thận kiên dè lắm con.
Ðừng nghe tiếng ngọt lời ngon,
Khinh khi luật nước hao mòn thần linh. (96)
Loài quỉ mị làm chinh Ðại Ðạo,
Bịa danh Thầy hại báo chúng sanh;
Trung Ương Thầy đả định rành,
Tiếng bay tỏ rạng danh đành chép ghi.
Từ nay chánh giống Tam Kỳ,
Trung Ương là chỗ Thầy qui Ðạo tràng. (97)
Tiền, trung, hậu, tam giang kỳ quái,
Vốn mưu tà dẩn sái Ðạo cao;
Tịnh vân đạo đức dường bao,
Rẽ phân thủ túc dạ nào đành yên.
Làm cho sanh chúng hão huyền,
Danh nêu hắc tịch bản biên A tỳ. (98)
Mau sám hối từ bi xá tội,
Ðể lâu ngày khó rổi cho tiêu;
Nhọc lòng công quả bấy nhiêu,
Ham danh một phút Thiên Ðiều khó dung.
Thấy con Thầy cũng động lòng,
Ðộng lòng Thầy phải não nùng khuyên con. (99)
Tình liên lạc xử tròn một mực,
Qui Trung Ương hiệp nhứt như xưa;
Ðừng cho quỉ lận ma lừa,
Nhơn sanh đồ thán tội dừa tại con.
Ðừng cho Ðại Ðạo hao mòn,
Ngày đêm nhứt nguyện nước non thái bình. (100)
Tu thì phải giử gìn Tâm Ðạo,
Tu đừng cho quả báo luân hồi;
Minh mong thiên vỏng khôi khôi,
Chớ khinh mà mắc, mắc rồi khó ra.
Ðạo nào Ðạo lại rẽ ba,
Ðạo là có Một phải Hòa mới nên. (101)
Mưu chước quỉ có bền đâu được,
Khuấy các con đục nước béo cò;
Than ôi! Con dại lầm to,
Miệng chậu kiến bò, nói chuyện thiên văn.
Thương con Thầy dạy ân cần,
Khá tỉnh lần lần mới gọi Chơn Tu. (102)
Ðèn Chơn Lý phá mù sanh chúng,
Sao các con chẳng dụng rọi đường;
Rọi trong phế phủ cang trường,
Rọi ngoài luân lý cang thường cho xong.
Rọi cho thức tỉnh giống giòng,
Rọi gần cho rỏ đặng phòng rọi xa. (103)
Ớ trẻ dại! nghe Cha than thở,
Bỏ nhửng điều lầm lỡ xưa nay;
Phải lo vén ngúc rẽ mây,
Tạnh êm sống gió kịp ngày qui Nguyên.
Phải lo Nhơn, Nghĩa vẹn tuyền,
Ðừng cho xao dợn mới yên Ngươn Thần. (104)
Sẵn Lương Tri làm căn làm cội,
Bỏ Lương Tri học hỏi đâu xa;
Lương Tri vốn thiệt Thầy nhà,
Lương Tri báu lạ của Cha sẵn truyền.
Cạn lời Thầy độ hửu duyên,
Chuyển Mê Khải Ngộ kẽo phiền lòng Cha. (105)
Cao Thiên Đàn (Kiên Giang)
Đêm 15 tháng 4 năm Quí Dậu (1933)
(Tường Khánh chấp bút)
Ngọc sắc Thầy phê thưởng Nữ Ban,
Hoàng ngôn Đạo định tại Kiên Giang,
Đại phong cho trẻ tùng Chơn Lý,
Đế chiếu ngày nay mới được troàn.
Nghe Thầy dạy:
Thể Liên Nữ Phổ Ðà lảnh sắc,
Nơi Kiên Giang dìu dắc nữ ban;
Cũng vì mưu quỉ kế loàn,
Canh Thân phá hoại dẩn đàng cấm sơn.
Làm cho sanh chúng cưu hờn,
Làm cho sanh chúng Lý Chơn nghi ngờ. (106)
Quỉ dụng kế đoạt cờ Chơn Lý,
May các con suy nghĩ hồi tâm;
Con ôi! Ðạo cả cao thâm,
Huyền cơ bí quyết phải tầm mới ra.
Ngày nay con biết đến Cha,
Thì Cha rộng lượng bỏ qua chuyện rồi. (107)
Thương nữ phái đắp bồi công nặng,
Sớ Ðiêu Cung phê thuận đã lâu;
Quỉ vương dụng kế rất sâu,
An Thiên hiệp hội cơ màu phá tan.
Làm cho sanh chúng dở dang,
Làm cho thủ túc sanh đoan bất hòa. (108)
Nay mừng thấy con đà sum hiệp,
Thể Liên Tiên tâu tiếp sớ xưa;
Cầu Cha rộng rưới ơn mưa,
Xin phong nữ phái kẽo trưa kiếp chầu.
Nghe tâu Cha phúc quặn đau,
Nầy nghe tiếng ngọc lời châu Cha troàn. (109)
…
Ớ các trẻ! ráng gìn Chơn Lý,
Chơn Lý là Đạo quí của Thầy;
Đạo Thầy dạy bảo xưa nay,
Rõ Chơn Lý Đạo có ngày siêu thăng.
Đạo Thầy phẳng lặng trang bằng,
Đạo không rộn rực lăng xăng quến rù. (132)
Thương trẻ dại công tu chưa mấy,
Nên có người chỉ quấy dắt hư,
Con ôi, Phật vốn Ðại Từ,
Chí Thành mới thấy Chơn Như Báu Trời.
Một lòng chung thỉ chớ dời,
Thiên đường rộng mở có người dẫn cho. (133)
Cao Thiên Đàn (Kiên Giang)
Đêm 29 tháng 4 năm Quí Dậu (1933)
(Tường Khánh chấp bút)
Thể dường mặt nước, Đạo dường trăng,
Liên lạc anh ba chiếu một vừng,
Tiên quế xanh um hơi bát ngát,
Nữ bang khuyên ráng chuộng tinh thần.
Bần Đạo mừng cho nữ phái đã được xướng danh. Nghe Thi:
Hèn quê phận gái Đạo Tam Kỳ,
Kỉnh Phật thờ Trời gọi lễ nghi,
Tánh hạnh gắn ghi câu Tứ Đức,
Tinh thần nương cậy cửa Tam Qui;
Sương giăng trước mắt tuồng danh lợi,
Gió thổi ngoài tai tiếng thị phi,
Thế tục khen chê tình thế tục,
Một lòng xu hướng cảnh Từ Bi.
Tịnh đàn nghinh tiếp Đức Mẹ.
Diêu đài cảnh sắc bổn thiên sinh,
Trì thủy phong quang ánh nguyệt minh,
Thánh lịnh đặc ân gia nữ phái,
Mẩu tình tử Đạo hiển nhi vinh.
Mẹ mừng các con lưởng phái:
…
Thấy con trẻ gầy mòn thân thể,
Lòng Mẹ xuôi giọt lệ nhỏ xa,
Con ôi! Muốn gặp mặt Già,
Tam Kỳ Đại Đạo lơ là chẳng nên.
Phải ráng sức cho bền công quả,
Phải ngăn ngừa quỉ phà đó con,
Bến xưa người cũ nỉ non,
Từ đây mưu kế dập dồn chớ tin.
Lời Mẹ đã đinh ninh dặn trước,
Chớ lạc lầm lở bước sai kỳ,
Quỉ ma mưu kế khó bì,
Cũng xưng rằng Mẹ Diêu Trì, con ôi!
Ớ các trẻ! Nghe lời Mẹ dạy,
Đồng một lòng tin cậy lẫn nhau,
Nữ Nam một thể đồng bào,
Rọi gương Chơn Lý chớ sao lãng lòng.
Trong phận gài cũng công, cũng quả,
Rõ Lý Chơn mựa khá từ nang,
Lo sao tiết gái rở rang,
Sao cho danh gái Kiên Giang bản đề.
Ớ con trẻ! Ráng nghe cho kỷ,
Kiên Giang là Chơn Lý cội nguồn,
Định Tường Đạo đã đúc khuôn,
Định Kiên liên lạc Trung Ương sum vầy.
Mặt tình kẻ đổi thay mối Đạo,
Mặt tình ai tráo mạo danh Thầy,
Con ôi! Ghi nhớ lời này,
Lý Chơn đâu có : đây vầy đó kia.
Mẹ kiếu các con.
Ngọc bút châu phê sẵn mấy hàng,
Hoàng phong mỡ rộng cảnh Kiên Giang,
Đại hùng, đại lực minh Chơn Lý,
Đế đức dồi dào khắp bốn phương.
Bên Nữ phái dặn dò khuyên nhủ,
Những việc xưa lổi củ Thầy quên;
Từ đây đường cả thẵng lên,
Thầy còn dạy chọn nhiều tên bãn đề.
Kiên Giang sắc chỉ đả phê,
Cội nguồn Chơn Lý mựa hề đổi thay. (134)
Này Nam phái, nghe Thầy cử đặt,
Ngọc bản xưa chọn mặt đành rành;
Vì sao tính quất lo quanh,
Khiến nền Chơn Lý rong xanh phủ thềm.
Các con đành đoạn yêm liềm,
Các con đành đoạn chẳng kềm chế nhau. (135)
Khuyên các trẻ một màu một ý,
Hoà hiệp nhau tâm chí cho phù;
Ðồng lo vén ngút mây mù,
Chớ cho uổng phí công phu bấy chày.
Trăng trong gió mát hay hay,
Này công, này quả, này Thầy, này con. (136)
Thầy tâm chí hao mòn biết mấy,
Các con đành phải quấy thiệt hơn;
Thầy đau đớn dạ từ cơn,
Khúc khiêu can gián khuyên lơn phân trần.
Quỉ ma nay Sở mai Tần,
Miểng con Chơn Lý nắm chân theo Thầy. (137)
Thầy đã dạy rẽ mây vén ngút,
Thầy trước phân chạm ngọc khãm vàng;
Thầy đà rọi đuốc chỉ đàng,
Tại con yếu dạ mõng gan quên lời.
Tại con tu giởn, tu chơi,
Tu quyền, tu thế, tu đời, tu quen. (138)
Ai cũng nói Cha hiền con thảo,
Cha như Thầy, con thảo nào đâu?
Kiên Giang Chơn Lý mở đầu,
Kiên Giang Chơn Lý cơ cầu hơn ai.
Thôi không tiếng một lời hai,
Lể gai tiếng ví, dụng gai lệ thường. (139)
Thấy các trẻ lương khương tấn thối,
Nghi ngờ vì giọng rổi tiếng kèn;
Tin chi cái thói đê hèn,
Tin chi cái lối tắt đèn là ma.
Khuyên con một dạ thật thà,
Mấy khi Chơn Lý đôi ba con đường? (140)
Thầy mở lớp học đường sơ giảng,
Giảng cho con một đoạn Ðạo Trời;
Ðạo Trời có Một không hai,
Ðạo là Sự Sống cứu người thế gian,
Ðạo không đợi cãi đợi bàn,
Ðạo lo giãi cứu cái màng Người Ta. (141)
Trời có Một thì Ta có Một,
Có Ta rồi nên cột có Người;
Người nên, Ta được thảnh thơi,
Ta Người chung hiệp Một Trời nào ba,
Ta Người nếu rẻ nhau ra,
Ta Người chia rẻ quỉ ma chen vào. (142)
Bỏ "Cái Ta" thì nào có quỉ,
Còn "Cái Người" củng bị cái ma;
Quỉ ma cũng tại Người Ta,
Ta Người chung Một, quỉ ma tàn hình.
Ðừng rằng: Ta trọng Người khinh,
Khinh thanh, trọng trược, tại mình rẻ chia. (143)
Thầy sơ giảng một tia Chơn Lý,
Con đêm ngày suy kỹ nghiệm cang;
Phân minh tà chánh rỏ ràng,
Nghiêm tường mới hết nghi nan Ðạo Ðài.
Cao Ðài có một không hai,
Ðaì cao nêu vọi nhắm sai nghi lầm. (144)
Thầy thường dạy Ðạo Tâm phải quyết,
Nay giảng thêm cho biết Ðạo Trời;
Khuyên con bền chí chớ lơi,
Thì Thầy vui dạ nhiều lời dạy thêm.
Trường trai khổ hạnh ngày đêm,
Hóa chơn thanh ngụy, luật nghiêm đặt bày. (145)
Nghe lời dạy khá thay Tâm Tánh,
Phải chuyên cần đường chánh mà theo;
Kìa loài ma quỉ trổ đèo,
Phật Trời ngoài miệng, tinh yêu trong lòng.
Giả Thầy móc cuả, lường công,
Con ôi ! Ðạo vốn sắc không muôn đời. (146)
Giảng Chơn Lý một lời chẳng vị,
Ðạo quang minh, ích kỷ phải hư;
Ðạo là đại nguyện đại từ,
Ðạo không mưu kế chuyện ngư, ngao, cò.
Ðạo chung khắp kẻ Hớn, Hồ,
Ðạo nào dạy lập cơ đồ cơ giang. (147)
Cao Thiên Đàn (Kiêng Giang)
Đêm mồng 1 tháng 5, năm Quí Dậu (1933)
Ngọc cao vô giá gọi Vô Vi,
Hoàng điện chen vai quí kịp kỳ,
Đại đức mới mong nên đại vị,
Đế ân một mảy chẵng tư vi.
Thầy trước dặn ngựa hay vì bởi,
Bởi đường dài nên mới biết hay. (150)
Con ôi! Sanh chúng long dong,
Con ôi! Sanh chúng mắc vòng quỉ vương,
Con ôi! Sanh chúng chẳng tường,
Nghe lời phỉnh gạt tai ương đâu ngờ. (151)
Chớ nghe những việc cơ cầu,
Nghịch Thiên hành sự tội âu vạ tràng.
Nghe lời Thầy dạy mới ngoan,
Đứng cho túng nước mà vang đến Thầy. (153)
Đứng nghe Thầy giả chìu lòn,
Đừng cho kế quỉ hao mòn thân danh. (154)
Con phải biết sự Tu chẳng dể,
Phải dể thì đâu để đến con. (156)
Các con biết Ðạo là Bác Ái,
Thầy chẳng cho làm sái Qui Điều;
Ðừng ai thêu dệt, dệt thêu,
Ðừng ai bày chuyện bày điều dối dân.
Lòng ma miệng Phật bảo đừng,
Luật Trời Luật nước phải tuân mọi đàng. (161)
Ðạo Thầy bủa khắp tràng võ trụ,
Ðạo Thầy lo dạy đủ Tây Đông;
Ðạo lo hoà hiệp đại đồng,
Ðạo không trốn tránh, bồi giồng, xẻ mương.
Ðạo không cất lẫm, đấp đường,
Ðạo không cầu sám, quì hương làm gì. (162)
Ðạo chẳng dạy cầu kỳ dối thế,
Ðạo chẳng cho bỏ phế luân thường;
Ðạo là chánh chánh đường đường,
Ðạo không bùa chú giống phường bàn môn.
Ðạo không sửa méo làm tròn,
Ðạo là Chơn Lý chẳng mòn chẳng hao. (163)
Cao Thiên Đàn
Đêm 30 tháng 5, năm Quí Dậu (1933)
(Tường Khánh chấp bút)
Ngọc côn kim hữu nghĩa cho tròn,
Hoàng chiếu Thầy phê chọ bốn con,
Đại đạo kén lừa tay đại nhậm,
Đế ân cố cập nặng dường non.
Thầy sắp đặt trước sau thứ lớp,
Khuyên Định Kiên hòa hợp đừng phai,
Ớ con! Thầy chẳng dạy sai,
Ớ con! Thầy đã dạy hoài, nhớ chăng?
Ớ con, Đạo vốn trang bằng,
Ớ con! Chơn Lý ráng phăng ráng tìm. (164)
Vừng trăng có lúc dinh khuy,
Nước sông rông kém châu nhi tuần hườn.
Đạo là Đạo Đức, Trí, Nhơn,
Tín Trung Nghĩa Dỏng, cho hơn thói đời. (166)
Ðừng ai tưởng tìm Tiên trên núi,
Núi buổi này căn cội của ma;
Thần Tiên đương kiếp ta bà,
Giáng trần phổ độ sơn tòa bỏ hoang.
Quỉ vương gặp nước dẩy tràn,
Dẫn người đầu mục đãng sang phá đời. (171)
Thầy cặn chỉ một lời kỳ chót,
Lưới Trời thưa chẳng lọt mẩy thu;
Con nào muốn gọi Chơn Tu,
Mười Khuyên ráng tập công phu đêm ngày.
Khắp nơi đâu cũng có Thầy,
Thầy là Chơn Lý tràn đầy thế gian. (172)
…
Miền Đông Thái say mê giấc mộng,
Cũng vì chưa biết trọng Lý Chơn,
Muốn cho gặp đặng Thiên Ân,
Lại không có chí keo sơn trọn nghì.
Đoàn ma lũ quỉ kéo trì,
Mà vui, mà vẻ, mà đi, mà mừng. (188)
Thấy có trẻ tự tân tự hối,
Muốn trở về căn cội Trung Ương,
Tánh phàm tấn thối lương khương,
Ma ma Phật Phật Thầy thương vô cùng,
Thiên Ân trách nhậm giao Phùng,
Hiệp cùng … (189)
Còn nhiều chỗ nết xưa vừa đổi,
Nay muốn chung một hội một thoàn,
Các con khuyên chớ từ nan,
Dắc dìu em dại công càng lớn công.
Biết đem Chơn Lý vào lòng,
Dứt vòng ngoại đạo sẻ trông ơn Thầy. (190)
…
Biết bao kẻ đạo cao ẩn tích,
Ðành vùi thân tịch mịch chán đời;
Ðạo cao tuy biết tại Trời,
Ðạo hư cũng bởi thiếu người Ðạo Tâm.
Có người cầm "chỉ nam châm",
Nào sa bể khổ, đâu lầm bến mê. (193)
Cao Thiên Đàn
Đêm 1 tháng 5 nhuần, Quí Dậu (1933)
(Tường Khánh chấp bút)
Ngọc quí nhờ công thợ trát ma,
Hoàng ân rưới mát khắp gần xa,
Đại khai Chơn Lý minh tà chánh,
Đế Đạo xưa nay có một mà.
Nầy, Châu Bút Thầy phê một đoạn,
Ngọc Kiên Tinh trước án nghe phân;
Tân An trọn địa phải cần,
Khắp miền Vàm Cỏ, trọn phần Đồng Nai.
Giao con gánh nặng đường dài,
Đừng lòng than thở mà hoài công phu. (194)
Thầy ung đúc mấy thu con xét,
Chơn Lý nầy định quyết phần con;
Lý Sanh Ðạo Thể tròn vuôn,
Khí Sanh Ðạo Tướng muôn muôn trùng trùng,
Lý Sanh Khí Hoá vô cùng,
Mới thành Ðạo Dụng giúp công ơn Thầy. (195)
Ðạo càng học càng ngày càng mới,
Ngày mới rồi ngày mới một ngày;
Mới rồi dạy kẻ mới hay,
Hoàn toàn Ðạo Dụng mổi ngày mới thêm.
Trọn lành mà được cẩn nghiêm,
Cao kiên hữu tướng hốt chiêm vô hình. (196)
Tướng vô hình, vô thinh, vô xú,
Mới trọn lành trọn đủ Ðạo Nguyên;
Ðạo Nguyên Ðạo Thể tự nhiên,
Tự nhiên vô vật, vô tiền, vô danh.
Một Ba, Ðạo Thể chia rành,
Ba rồi về Một, Ðạo thành Vô Vi. (197)
Con gánh lúc thời kỳ Ðạo Dụng,
Phải đem mình giải mộng chúng sanh;
Giải tiêu nhơn dục vọng tình,
Lóng xong ngọn suối giọt xanh trong ngần.
Con ôi ! Ðạo pháp đả phân,
Ðạo Nguyên con phải dò lần nơi Tâm. (198)
Con có chí dốc tầm Ðại Ðạo,
Ðạo nơi mình Tam Giáo đồng qui;
Trong mình đả sẳng Lương Tri,
Con ôi ! Ðừng ngại đừng nghi lời Thầy.
Muốn cho con đủ chơn tay,
Giúp Trời, hành Ðạo, nghe nầy lịnh ban. (199)
…
Cao Thiên Đàn (Rạch Giá)
Đêm 18 tháng 6 năm Quí Dậu (1933)
Khương từ lãnh mạng hiệp chư hiền,
Thái cực đồ dùng báu tự nhiên,
Công dụng công tâm trừ quỉ mỵ,
Giáng đàng chấn chỉnh cuộc An Thiên.
Lão chào chư chức sắc lưởng phái. Tịnh đàn tiếp giá Đức Chí Tôn.
Ngọc là vật báu của Trời sanh,
Hoàng bút châu phê chữ đã rành,
Đại cuộc An Thiên rồi kỷ niệm,
Đế ân truyền xa kẻ làm lành.
Này các trẻ có duyên tìm Ðạo,
Chữ lời Thầy dạy bảo chớ sai;
Mênh mông biển rộng sông dài,
Trời che Ðất chở chẳng hai con đường.
Anh em hoà thuận, nhịn nhường,
Ðừng lòng ích kỷ, sâm sương rã rời. (204)
Kể từ thuở Ðất Trời gầy dựng,
Sanh loài Người chí nhẩn tới nay;
Nhiều phen giáng thế chỉ bày,
Tuỳ theo thời cuộc cũng Thầy mà thôi,
Rằng tuy khác biển cách vời,
Hể ở dưới Trời thì một Mẹ Cha. (205)
Tuy khác tiếng, khác da, khác giống,
Nhưng cũng đống sự Sống như nhau;
Dưới chơn cho tới trên đầu,
Tay chơn máu thịt chổ nào khác đâu.
Ớ con! Khắp cả hoàng cầu,
Trước đều một rún, một nhao, một nhà. (206)
Từ vô thỉ lịnh Cha đã dạy,
Dạy các con đến cõi trần gian;
Mỡ mang khắp cã Hồng Hoan,
Giúp tay Bàn Cổ Tam Hoàng lập công.
Công thành qui vị thưởng phong,
Ðừng cho đến đổi bụi hồng vương mang. (207)
Cung Bạch Ngọc hai ban lựa nhón,
Chọn con nào chưa trọn chơn ngươn;
Ban cho Nhứt Ðiểm Linh Quang,
Giáng trần công quả hoàn toàn Bổn Lai.
Lập xong danh phận Tam Tài,
Trở về hớn hở lâu đài Ngọc Kinh. (208)
Chốn Ngọc Kinh còn gìn nhiều bực,
Ðặng châm nom đốc suất công trình;
Giúp công hóa hoá sinh sinh,
Phong vân vủ lộ đẩu tinh huyền hoàn.
Âm Dương hàn thử tuần hường,
Cầm giềng mối chánh Càn cang giúp Thầy. (209)
Nối Nhơn Hoàng đổi thay Thánh Ý,
Mến hồng trần quên nghĩ Ngọc Kinh,
Tánh phàm chen lộn vào mình,
Thất tình lục dục biến thành quỉ vương,
Cưả nhà nấu nướng điểm trang,
Trau giồi xác thịt quên đàng Thiêng Liêng. (210)
Muốn cho trẻ có duyên trở lại,
Thầy phải sai ba phái Nhứt Kỳ;
Di Ðà, Thái Thượng, Phục Hi,
Giáng trần phổ độ duy trì Ðạo Cha.
Thái Thượng sửa tánh phàm tà,
Phục Hi hoạch quái, Di Ðà giác mê. (211)
Thầy cũng dạy đề huề Tiên Thánh,
Trước cùng sau lảnh gánh giáng phàm;
Ðông Tây Nam Bắc gia tâm.
Năm châu em dại ráng tằm cho ra.
Dắt về cho tận mặt Cha,
Ðại phong an hưởng Thánh Toà Ngọc Kinh. (212)
Còn những kẻ chưa thình Tâm Tánh,
Lưu phàm trần khổ hạnh tu thân;
Nước non bồi bổ Tinh Thần,
Ngươn Chơn ung đúc bổn căn trau giồi.
Ðạo thông sẽ trở về Trời,
Cùng Cha sum hiệp đời đời an vui. (213)
Mười hai trẻ được hồi Ngươn Vị,
Dư hằng hà chẳng kể chánh chơn
Một lòng xu hướng quỉ vương,
Khinh khi nhaọ bán sự nhơn đức Trời,
Mê sa ma quỉ lả lơi,
Bỏ điều “Minh Thệ” trổ mòi bàn môn. (214)
Oai Trời định diệt phồn yêu mị,
Giáng thiên tai hồng thũy thao thao;
Thay Thầy sửa trị phong trào,
Nối Nghiêu có Thuấn lãnh trao chơn truyền.
Thương đời Tiên Thánh liền liền,
Giáng phàm tế độ luân phiên dạy đời. (215)
Dư ngàn năm đến đời Thương Trụ,
Tà loạn chơn rất phụ lòng Thầy;
Thánh Nhơn cho giáng Kỳ Tây,
Ðao binh kiếp số diệt bầy tinh yêu.
Sa tăng tội ác khó tiêu,
Bắt về giam đợi Thiên Ðiều xử phân. (216)
Thương Cơ Phát ân cần việc bạo,
Phú Ngôi Trời dạy Ðạo hoá dân;
Phú cho mười bực Hiền Thần,
Lãnh truyền Ðại Ðạo xa gần thế gian,
Truyền lần đến cỏi Nam Bang,
Cháu con Hồng Lạc vén màn Chỉ Nam. (217)
Nhà Cơ Phát tám trăm năm có,
Truyền Ðạo Trời vô số huyền công;
Hềm còn yêu chuộng thần thông,
Hoá lòng vọng tưởng chẳng phòng yêu ngôn.
Lần lần sa lạc bàn môn,
Thần Tiên ma quỉ chẳng còn biện phân. (218)
Nhìn thấy trẻ dương trần Thầy ngán,
Chẳng còn chi rằng đáng con Thầy;
Biết sao cho được giải khuây,
Nhị kỳ phổ độ Thầy rày phải sai.
Bởi thương các trẻ miệt mài,
Trần gian ảo mộng lại hoài Chơn Ngươn. (219)
Hoá bốn phách chẳng sờn lao khổ,
Trắng vàng đen phổ độ cả ba;
Ấn kia trước có Di Ðà,
Nay cho tái thế Thích Ca giáng phàm.
Thái Thượng hoá kiếp Lão Ðam,
Truyền Kinh Ðạo Ðức nơi Hàm Cốc Quan. (220)
Luận dạy việc kinh ban tế thế,
Bởi sanh dân bỏ phế luân thường;
Kế Châu cho giáng Tố Vương,
Ân cần lập kỹ trần cương dạy đời.
Hiếu Trung cội gốc con người,
Trọn điều Nhơn Ðạo tuỳ thời tu Thân. (221)
Nơi Tây bộ nhiều lần Ðạo mở,
Quỉ vương thường phá vỡ Ðạo nhà;
Phải sai Con Một của Cha,
Máu hồng chuộc tội cã và thế gian.
Bộ Châu nào mới mở mang,
Cũng đều sai Thánh đế ban tin lành. (222)
Muốn biết trẻ nhiệt thành nguồn cội,
Cho sa tăng đái tội lập công;
Con nào thiệt dạ thính tùng;
Cỏi Trời dành để vô cùng sự vui.
Con nào gian ác chẳng thôi,
Chiếu lời Minh Thệ, Ngũ Lôi hành hình. (223)
Dư một lúc hơn nghìn năm rưởi,
Biết bao phen vận hội trở xây;
Phật Tiên lắm lúc châu mày,
Thánh Thần nhiều buổi chầu Thầy lụy rơi.
Rằng con chẳng những y lời,
Bàn môn tã đạo coi Trời như không. (224)
Kẻ chẳng kể luật công Thiên Lý,
Kẻ thì theo tà mị dị đoan;
Xiết bao kiếp số tai nàn,
Hớn qua, Tống lại, Minh sang, Thanh rồi.
Cải Trời thì bị Luật Trời,
Trời nào có dạy cướp ngôi tranh quyền. (225)
Con đã dại Thầy yên sao được,
Kiếp Ngũ Lôi kế dượt gần đây;
Nếu con tránh được buổi nầy,
Mới được chầu Thầy, cực lạc tiêu diêu.
Nếu con ma quỉ tinh yêu,
Ngũ Lôi hỏa kiếp diệt tiêu linh hồn. (226)
Muốn cho con được tròn tỉnh ngộ,
Ðệ Tam Kỳ Phổ Ðộ phải ban;
Xét coi cả cỏi Dinh Hoàng,
Có Châu Nam Thiệm Hồng Bàng khá khen,
Một lòng Ðạo Ðức tập rèn,
Ít mê vật chất đê hèn như đâu. (227)
Tuy chưa rỏ nhiệm mầu Ðạo Ðức,
Song có lòng kỉnh Phật thờ Trời;
Lịnh sai Tiên Thánh các nơi,
Giúp người lầm lạc phục hồi bổn sơ.
Phổ thông dụng báu huyền cơ,
Khải thông Ðại Ðạo trên bờ Nam Bang. (228)
Thay Tam Giáo lập bàn Tam Trấn,
Tùy theo thời độ dẩn chúng sanh;
Ðộ cho bỏ dử về lành,
Bỏ điều tà vạy đừng canh cãi Trời.
Tam Kỳ ân xá các nơi,
Hể biết nghe lời thì được qui nguyên. (229)
Phế Ngọc Kinh Nam Thiên giá hạnh,
Thầy bổn thân thấy cảnh đau lòng;
Các con rắn rắn rồng rồng,
Coi lời Tam Trấn như không chẳng màng.
Lại thêm bày lớp dị đoan,
Mê sa ma quỉ tội tràng vạ lây. (230)
Thương các trẻ Thầy day cán bút,
Cao Thiên Ðàn gạn đục lóng trong;
Khuyên con bỏ tánh cuồn ngông,
Giàu lòng bác ái mạnh lòng từ bi.
Ðường ngay con cứ con đi,
Ráng tìm đến chỗ Thầy qui mà vào. (231)
Lập Trung Ương Thầy trao gánh nặng,
Dạy các con dứt hẵng phàm Tâm;
Ðừng lòng chia rẻ mà lầm,
Ðừng lòng dại dột mà cầm rằng khôn.
Xét coi nội quả càn khôn,
Có ai qua được Chí Tôn là Thầy. (232)
Thầy thương xót một bày con dại,
Kiếp “Ngũ Lôi” hiện tại đương giàng;
Thầy thương, Thầy dạy, Thầy than,
Mông cho con chớ ngổ ngang lời Thầy.
Ví bằng kiếp số đến ngày,
Ăn năn đã muộn kêu Thầy uổng công. (233)
Lò Tạo Hoá mấy ông Thợ Tạo,
Ai tạo chi quả báo luân hồi;
Ðã rằng Thiên vỏng khôi khôi,
Sơ nhi bất lậu mắc rồi khó ra.
Tiên phàm Phật Thánh tà ma,
Chưởng qua thì phải dắt qua tại mình. (234)
Con muốn được trường sinh bất tử,
Chữ trường sinh giãi thử Cha nghe;
Khuyên con học phải kiên dè,
Ðừng theo tả đạo khó về ngôi xưa.
Giãi cho con rõ đặng chừa,
Hiểu rồi mới biết đặng ngừa bàn môn. (235)
Con phải nhớ Linh Hồn hượt bát,
Vốn là Ngôi Bổn Giác Thầy ban;
Bởi con chưa được hoàn toàn,
Thầy cho xuống tại phàm gian trau giồi.
Dứt xong phàm tục được rồi,
Vô Vi Hiệp Nhứt về Ngôi Thánh Toà. (236)
Xuống phàm thế phải ra công nhọc,
Lãnh riêng phần săn sóc chúng sanh;
Lãnh phần chấp chưởng quyền hoành,
Cầm cân phạt dữ thưởng lành thế Ta.
Cầm quyền Chơn Lý Giái Ba,
Chí chơn, chí chánh, vô tà, vô tư. (237)
E con dại nên hư chẳng rõ,
Mà sai đường lạc ngõ Lý Chơn;
Một phần chuyên dạy nghĩa nhơn,
Giảng phân Ðạo Ðức, luân thường bổn nguyên.
Trung Dung bất diệc bất thiên,
Tu điều đức hạnh ròng chuyên Ðạo Trời. (238)
Lo lủ trẻ ham chơi lười biến,
Vì ăn lo, chưa đến chưa no;
Một phần trách nhậm rất to,
Gia đình giáo dục phú cho nghiêm từ.
Rèn lòng triêu tịch tư tư,
Ðông, Ngôn, Thị, Thính tảo trừ tà Tâm. (239)
Tứ Ðại Giã hiệp làm Nhứt Thể,
Vì trược thanh nặng nhẹ chẳng đồng;
Các con có đứa cuồng ngông,
Cũng còn có đứa vẫn thông minh nhiều.
Anh em sau trước dắt dìu,
Rèn lòng son sắt bỏ điều tà tây. (240)
Kìa ba sáu ngàn ngày như nháng,
Còn trông chi còn nán đợi chi;
Ðường ngay sao chẳng bước đi,
Ðường tà để bước, ôi thì, ôi thôi !
Kìa kìa cái bánh “luân hồi”,
Lăn qua lộn lại mấy đời thoát ra. (241)
Bánh luân xa thoát ra chẳng khỏi,
Thì Linh Hồn sao gọi trường sanh;
Muốn cho gọi được trường sanh,
Trường sanh vốn thiệt bất sanh đó mà.
Bất sanh mới được gần Ta,
Gần Ta mới được thoát ra “luân hồi”. (242)
Bánh luân xa lăn rồi lại trả,
Mà ai rằng tấn hoá nỗi chi;
Nếu không cách vật trí tri,
Luân hồi nhiều kiếp ngu si càng nhiều.
Biết đường Tánh Mạng mà theo,
Trương bườm Chơn Lý một lèo mấy ai? (243)
Con chử dạ chớ sai lời dạy,
Sáu loài ma dục quấy coi chừng;
Luân hồi xa nọ nhiều ngăn,
Mà ngăn lục dục hơn phân nửa rồi.
Nếu sa vào bánh “luân hồi”,
Thì mong chi nữa phục hồi bổn ngươn. (244)
Trị Nhơn Tâm còn hơn trị hổ,
Thất tình thường bởi nó mà sanh;
Ham mê phú quí lợi danh,
Khoe khoang sự nọ, nói hành sự kia.
Dẫu cho muôn kiếp chẳng lìa,
Lộn đi lộn lại cũng về bàn môn. (245)
Thầy chỉ tắt cho con được hiểu,
Tấn hóa là chỉ yếu phải Tu;
Tu cho phân biệt trí ngu,
Tu đường Ðạo Ðức tiếng rù đừng tin.
Ðạo đời hai cuộc phân rành,
Ðừng tin tưởng quấy, phải thành thật Tâm. (246)
Ðừng ham muốn âm thầm phép lạ,
Ðừng chuyên lo truyền bá dị đoan;
Ðừng ao ước việc mơ màng,
Ðừng tin tưởng việc hoang đàng quỉ ma.
Ðừng lo những việc cao xa,
Ðừng lo ích kỷ lợi ta, hại người. (247)
Phải Tin cậy Một Trời Ðộc Nhứt,
Phải ân cần tuyệt dứt phàm tâm;
Phải dồi Ðức hạnh cao thâm,
Phải cho Bác Ái, phải tầm Lý Chơn.
Phải suy xét kỹ mọi đường,
Phải lo an phận thủ thường là hơn. (248)
Con khá nhớ lời Thầy đã nói,
Ấy là đường thoát khỏi “luân hồi”;
Ðức Tin Công Quả vẹn rồi,
Tự nhiên con được phản hồi Ngọc Kinh.
Ấy là con dược Trường Sinh,
Trường Sinh bất diệt bất sinh thiên tề. (249)
Con ở thế mảng mê phép lạ,
Nên bị điều dối trá phỉnh phờ;
Tay kia đã kẹt hom lờ,
Hết đợi hết chờ đặng gở tay ra.
Con hư lây xấu đến Cha,
Con dử ắt là Cha mẹ phải mang. (250)
Thầy càng dạy con càng ngang ngạnh,
Kiếm thế thần đặng tránh cho xa;
Con ôí ! Tai nạn khó qua,
Nếu con chẳng kíp thoát ra cửa Bàn,
Thần thông dầu có muôn vàn,
Thiên Ðiều đâu thứ tôi loàn mà mong. (251)
Con muốn được thoát vòng tục lụy,
Phải tập rèn Chơn Lý cho rành;
Không thông ráng học ráng hành,
Không thông khuyên chớ cãi canh kê cà,
Không thông khuyên chớ bỏ qua,
Không thông thì phải ráng ra công tìm. (252)
Ðường Chơn Lý kim kim cổ cổ,
Mà ai nào đánh đổ hào ly?
Con ôi ! Tâm động thần bì,
Trúc cơ diện bích ích gì đó con?
Nếu con Tâm Tánh chẳng tồn,
Tự nhiên hạo khí hao mòn uổng công. (253)
Muốn thành Phật giàu lòng Bác Ái,
Chúng sanh đều chủng loại cùng nhau;
Phải lo Ðạo Ðức cho giàu,
Ðừng lo ích kỷ mượn màu Từ Bi.
Khuyên con chớ tánh tham si,
Chớ làm rồng cọp vân vi rộn ràng. (254)
Người ở thế muôn vàn tân khổ,
Lo sao cho phổ độ chúng sanh;
Của trần phải sạch sành sanh,
Sạch rồi chớ khá khoe danh với đời.
Của Trời thì giúp cho Trời,
Giúp Trời vì bởi mình tôi của Trời. (255)
Ở trần thế nghỉ ngơi chẳng được,
Cỏi “giái ba” là cuộc chiến trường;
Lợi danh Ðạo Ðức tranh thương,
Quỉ vương Phật Tổ hai đường chống nhau.
Mà ai Chơn Lý rõ sâu,
Thì được về chầu Bạch Ngọc cao ngôi. (256)
Ðừng tưởng vấy luân hồi tấn hoá,
Luân hồi là nhơn quả đó thôi;
Nếu ai nặng quả cuả đời,
Thì bị “luân hồi” vay trả trả vay.
Nếu ai công quả với Thầy,
Mãn kỳ trách nhậm là ngày siêu thăng. (257)
Mấy ai được một lần trọn phải,
Cũng sanh đi sanh lại nhiều phen;
Luân hồi nào có gọi tên,
Thát thai giáng thế thiêng liêng luật Trời.
Giữ sao đừng vấy bợn đời,
Tránh khỏi “luân hồi” là gọi Trường Sanh. (258)
Việc tu hành mối manh đả chỉ,
Con ráng tìm Chơn Lý mà phăng;
Sao cho nhứt nhựt mỗi tân,
Nhựt tân nhứt nhựt tự tân cho mình.
Khuyên con gìn dạ sắc đinh,
Chánh tà chơn ngụy phải minh cho rành. (259)
Ðường Chơn Lý chúng sanh chưa thạo,
Cứ quẩn quanh quả báo luân hồi;
Cho nên tã đạo dối Trời,
Hư hư thiệt thiệt mê người khá thương.
Ngày nay Chơn Lý bày tường,
Khuyên con tỉnh mộng bương bương trở về. (260)
Muốn học Ðạo đừng mê mới được,
Mê muội làm bạc nhược tinh thần;
Làm cho hủ bại bổn căn,
Làm cho dứt hẳn Lương Năng Tánh Trời.
Làm cho hồn phách rã rời,
Làm cho cách trở Ta Người xa nhau. (261)
Khuyên các trẻ mau mau tỉnh giấc,
Mới gọi rằng đáng mặt làm con;
Nước non dầu có hao mòn,
Trời còn, Chơn Lý vẫn còn tự nhiên.
Ngày nay con được hữu duyên,
Nên Thầy mở rộng “Khiếu Huyền” cho con. (262)
Ðiểm Linh Quang thường còn chẳng mất,
Muốn thành Tiên thành Phật phải “Tin”;
Quỉ ma yêu quái cũng mình,
Có lòng dục vọng khó nhìn “Chơn Thân”.
Con ngươi đen trắng chưa phân.
Mà mong điểm đạo truyền thần cho ai? (263)
Đàn tại Sa Đéc (8-9 Nov 1933)
(Tường Khánh chấp bút).
Ngọc đình sắc tứ luật điều qui,
Hoàng lịnh sa thừa kẻ tự khi,
Đại kiếp đại thành kỳ tám chục,
Đế ân rộng mở cảnh Vô Vi.
Các con chuộng Cao Ðài danh hiệu,
Mà không lo thấu hiểu Ðạo mầu;
Ngàn khuyên muôn dạy bấy lâu,
Lòng con bôi lọ một câu chưa rành.
Nói năng dường saỉ niệm kinh,
Gạn lòng lại thử ngọn nhành u ơ. (264)
Thầy thấy trẻ bơ vơ rất hổ,
Hổ nỗi con chưa rõ Ðạo Cha;
Ðạo Cha chánh trực vô tà,
Lời Cha đả dạy thiết tha từ nào.
Con mê giấc mộng ảo bào,
Lãng lơ Ðạo cả, ngọt ngào mồi ngon. (265)
Ðứa mảng tính dại khôn khôn dại,
Ðứa say mê ân ái ái ân;
Ðành quên Ðạo cả tinh thần,
Ðành vùi cát bụi Chơn Thân của mình.
Dầu cho hay biết tin lành,
Biết rồi cũng phủi cứ dành ý riêng. (266)
Tu nghe đọc Mười Khuyên lổ miệng,
Tu nghe cầu Ngũ Nguyện đầu môi;
Tu vầy Thầy gẫm than ôi !
Tu vầy sao thoát luân hồi đó con.
Tu vầy danh giá đâu còn,
Tu vầy Ðạo Cả ai tôn ai vì. (267)
Tu phải biết Tam Kỳ mở Ðạo,
Vì các con ngơ ngáo thiện duyên;
Mê man giấc mộng nhãn tiền,
Luân trầm khổ hải liên miên chẳng rời.
Khoe mình cậy thế gạt người,
Nghiệp chướng rối đời, trời thảm đất than. (268)
Sao chẳng xét oan oan tội dữ,
Sao không lo trung thứ làm đầu;
Trái oan, oan trái cơ cầu,
Trả vay, vay trả mảy thu chẳng lầm.
Xưa nay những đứa cơ thâm,
Thiên điều báo ứng khỉnh khầm đâu sai. (269)
Thầy thương xót muôn loài sanh chúng,
Thường khuyên rằng một rún một nhao;
Trách con đành dạ lãng xao,
Trách con chẳng kể đồng bào là chi.
Trách con mảng tánh Tham Si,
Trách con đồng, kẽm, thau, chì chẳng phân. (270)
Loạn phép nước Thánh Thần đâu chứng,
Luật tự nhiên cảm ứng hẳn hòi;
Khuyên con thấy đứa trổ mòi,
Khá trừ chớ để hoá giòi trong xương.
Ðạo Thầy chánh chánh đường đường,
Ðạo dạy can thường, luân lý, nghĩa nhơn. (271)
Ðạo chỉ rõ Thiên Chơn thanh tịnh,
Ðạo dạy rành Bổn Tánh linh thông;
Ðạo nguyên vốn thiệt hư không,
Ðạo Lý nghiệm cùng cách vật trí tri.
Ðạo Tâm đả gọi duy vi,
Ðạo ngăn cấm việc thị phi lăng loàn. (272)
Ðạo khuyên giữ bình an trật tự,
Ðạo nào cho chống cự Mạng Trời;
Ðạo không dạy việc rối đời,
Ðạo dạy con người “dỉ hiếu vi tiên”.
Ðạo lo công quả mảng viên,
Ðạo gốc chí thiền bất lỵ tu du. (273)
Các con sẵn trượng phu Tâm Tánh,
Khá mau lo xa lánh mê đồ;
Trời Nghiêu cổ phúc hàm bô,
Ðạo duyên thiện niệm qui mô sẵn sàng.
Tức Tâm tức Phật một đàng,
Lập công tiêu nghiệt dưởng an tinh thần. (274)
Thấy nhiều trẻ siêng năng cầu Ðạo,
Tưởng Ðạo Thầy ở dạo núi non;
Hoặc là ở bãi ở hòn,
Bạ đâu tin đó nghe đồn cứ đi.
Chẳng cần cạn nghĩ kỹ suy,
Ðói ăn bánh vẽ, ích gì mà mơ. (275)
Có trẻ tưởng Ðạo thơ là chắc,
Cứ lần mò lượm lặt đơn kinh;
Chẳng lo phổ độ chúnh sinh,
Lo trông hổ giáng lo rình long thăng.
Khác nào bịnh liệt trở trăng,
Mà tra tánh dược, bịnh căn sao lành. (276)
Cũng hiếm trẻ lập thành sáo ngữ,
Dày công phu nuốc chữ tam sao;
Khen cho hạnh khổ công lao,
Mà rồi công quả lạc vào bàn môn.
Dầu cho tiếng nổi như cồn,
Khác nào bông giấy điểm son ích gì. (277)
Chỉ cho trẻ đường đi phổ độ,
Ấy là đường cứu khổ tiêu tai;
Ðừng cho sanh chúng bi ai,
Ðừng cho sanh chúng vướng chài tứ phi.
Rèn lòng cẩn thận trí tri,
Một lòng son sắt qui y theo Thầy. (278)
Thầy thường dạy đừng bày chuyện lạ,
Thầy thường răn đừng tá danh Thầy;
Thầy thương trẻ dại thơ ngây,
Thầy dìu dắt trẻ đường ngay công bằng.
Thầy đâu dạy việc lố lăng,
Thầy đâu dạy vỏ, dạy văn, dạy phù. (279)
Thầy dạy trẻ việc Tu phải xét,
Thầy dạy con phân biệt chánh tà;
Thầy đâu dạy việc tinh ma,
Thầy đâu dạy việc bất hòa dưới trên.
Thầy khuyên việc phải việc nên,
Thầy đâu dạy trẻ học tên phong thần. (280)
Các con ráng cân phân cho kỹ,
Con phải tìm Ðạo lý mà theo;
Ðừng mê những việc hiểm nghèo,
Ðừng nghe những tiếng trớ trêu phỉnh phờ.
Trăng trong mây phủ trăng lờ,
Con phải biết bờ biết bến mới hay. (281)
Ðạo Thầy dạy càng ngày càng tới,
Bởi các con chưa mới lấy mình;
Lời Thầy đã dạy đinh ninh,
Con tua tam tỉnh, hớ hinh đặng nào.
Con mong mỏi đặng Ðạo cao,
Chánh Tâm thành ý, chớ sao lãng lòng. (282)
Ráng chí công dứt vòng dục vọng,
Ðừng để cho Tâm động mà hư;
Kìa xem những bực Như Như,
Thần, Tiên, Phật, Thánh trước trừ lục căn.
Nhứt Thành cho đặng trang bằng,
Tự nhiên con gặp Ngươn Thân Tánh Trời. (283)
Con phải nhớ những lời dạy trước,
Kiếp Ngũ Lôi kế dượt gần đây;
Con nào tỉnh tỉnh say say,
Kiếp đoạ căn đày, đừng trách móc ai.
Con nào mượn tiếng Cao Ðài,
Phải biết rằng Trời giữ luật vô tư. (284)
Còn những đứa “nhàn cư bất thiện”,
Sao quên câu “như kiến phế cang”;
Ðã sanh ra cõi trần hoàn,
An thường thủ phận đừng toan hại đời.
Công dư nên giúp cho Trời,
Bằng không khuyên chớ dối người gạt ta. (285)
Một đời vốn có ba tất thở,
Ðừng để cho vỡ lỡ công trình;
Phải lo giúp sức Hiếu Sinh,
Phải lo cho đặng công thành danh thơm.
Phải lo xuôi nước thuận bườm,
Phải cho biết nghĩa áo cơm cội nguồn. (286)
Dùng gươm Huệ dứt luồng tai ách,
Mượn cam lồ rửa sạch trái oan;
Dắt nhau đến bến Từ Hàng,
Trương bườm Chơn Lý tìm đàng Bổn Lai.
Nhứt Tâm đừng lựa nay mai,
Nhứt Tâm mới gặp Cao Ðài cảnh xưa. (287)
Thấy các trẻ mắc lừa mưu quỉ,
Quen giọng đờn quên nghĩ Chơn Thân;
Vầy đoàn hiệp lủ lăng xăng;
Ðồ danh trục lợi Nghi, Tần, hoành, tung.
Reo hò đạo đức ung dung,
Mà lòng nham hiểm nọc ong miệng lằng. (288)
Con phải giữ tấm thân là trọng,
Luật Cao Xanh lộng lộng chẳng sai;
Con nào vào cửa Cao Ðài,
Thì đừng lòng một dạ hai bán Trời.
Con nào muốn đặng nên người,
Thì phải giữ lời Thầy dạy mới nên. (289)
Thầy chực sẵn chiếc thuyền phổ độ,
Ðưa Người qua biển khổ sông mê;
Còn ai nặng kiếp chẳng về,
Thì tay thuyền chủ khó bề đợi trong.
Con nào muốn sạch bụi hồng,
Thì phải ghi lòng tin cậy có Cha. (290)
Muốn cậy Cha phải ra công khó,
Phải Chí Thành lo độ kẻ mê;
Sao cho lớn nhỏ đề huề,
Sao cho trên dưới đừng nghe chuyện xằng.
Sao cho ngay thật ở ăn,
Sao cho tánh hạnh mười phân vẹn mười. (291)
Ðừng để tiếng trò cười Chơn Lý,
Ðừng cho ai khinh bỉ Tam Kỳ;
Con ôi ! Tạo Hoá tiểu nhi,
Ai tuân thì được, ai khi thì lầm.
Ai mà có chút gỉa tâm,
Mượn danh Chơn Lý mưu thần phải vương. (292)
Ðuốc Chơn Lý Trung Ương sáng tỏ,
Người đi đường phải ngó mà theo;
Thuyền đi vững lái êm lèo,
Bộ đi tránh khỏi hiểm nghèo gai chông.
Ấy là Ðuốc Chủ Nhơn Ông,
Cả mưa chẳng tối, to giông không lờ. (293)
Ngọc bàn lố lố trọn trong tay,
Hoàng lịnh tùy thời cuộc trở day,
Đại giác đại thừa chờ đại mạng,
Đế ân tràng bủa khắp Đông Tây.
Các con chớ bơ thờ mối Ðạo,
Ðạo càng cao quỉ ngạo càng nhiều;
Thích Ca vững chí chẳng xiêu,
Gia Tô chắc dạ trăm chìu chẳng lay.
Quỉ ma mưu kế khó tày,
Ai biết có Thầy ma quỉ phải dang. (294)
Các con dốc tìm đàng Chơn Lý,
Trước lo trừ tà mị nơi Tâm;
Ðừng cho nứt mục trổ mầm,
Ðừng cho tược nảy, rễ đâm sanh chồi.
Có đâu đã chẳng phân bồi,
Lại còn để ý đặng soi đặng ngờ. (295)
Ngăn lụt nước, đê bờ phải chắc,
Dựng Ðạo nhà lục tặc phải trừ;
Ðừng cho thiệt thiệt hư hư,
Ðừng cho đứa dốt làm sư nhà thiền.
Phải cho khắn khít Mười Khuyên,
Phải cho bền vững năm giềng trước sau. (296)
Ðuốc Chơn Lý là đầu muôn việc,
Chơn Lý rành thì diệt tà tâm;
Con ôi Chơn Lý cao thâm,
Muốn tường Chơn lý phải tầm đầu giây.
Cung tường cao vọi ngút mây,
Phải dò mực thước tay Thầy bởi đâu. (297)
Mắt chưa thấy một bầu thế giái,
Cả miệng hô hoán cải Kiền Khôn;
Biết sao là méo là tròn,
Biết sao là xác là hồn nói nghe !
Khuyên con trăm việc dặc dè,
Thị phi việc thế chớ hề để tay. (298)
Muốn hành Ðạo đừng sai chữ Ðức,
Hành Ðạo cho thiệt mực một đường;
Noi trang Tứ Thánh làm gương,
Noi gương Ðạo Ðức chử “Thương” làm đầu.
Thương thì nhẫn nhịn nhường nhau,
Nhường nhau mới đặng trước sau thuận hòa. (299)
Tứ Ðại Thánh bốn nhà hiệp Một,
Mới đủ làm rường cột Cao Ðài;
Ðạo, Nhơn, Tâm vẫn có hai,
Hóa Nhơn thành Ðạo dồi mài cho Tinh.
Ðã Tinh lại Nhứt mới xinh,
Nhứt rồi cần phải giữ gìn Khuyết Trung. (300)
Mười sáu chữ giữ lòng bền chặc,
Vẳng đêm ngày như nhắc bên tai;
Chấp trung đừng để sót sai,
Thầy đà dạy hủy dạy hoài nhớ chăng?
Tu hành vốn tại số phần,
Con coi kiếp trước mấy lần có duyên. (301)
Con dẫu muốn thành Tiên thành Phật,
Phật ở lòng chơn thật mà ra;
Có duyên đặng kiếp người ta,
Nghe lời dạy dỗ bỏ qua thiệt mình.
Sao cho trọn kiếp phù sinh,
Học qui củ chánh đừng kinh kệ quàng. (302)
Con những mảng đa mang chử vọng,
Quên Ðạo Người lại trọng Thần Tiên;
Ðạo Người Hiếu Ðể vi Tiên,
Quên phần Hiếu Ðể Thần Tiên ai màng.
Suốt thông Hiếu Ðể mới ngoan,
Lầm thông Hiếu Để hại càng xiết bao. (303)
Con thử nghĩ Ðạo cao là mấy,
Ðạo đâu dùng việc quấy phỉnh con;
Ðạo lo sau trước vuôn tròn,
Ðạo đâu dạy việc chia môn rẽ vời.
Ðạo không cả tiếng lấp lời,
Ðạo dạy biết Trời, biết Phật, biết Thân. (304)
Con chớ học nghĩa nhơn ngoài miệng,
Con ráng xem kinh truyện Thánh Hiền;
Làm con không thảo ai khen,
Làm em không thuận như kèn không giăm.
Ðồng bào cốt nhục tình thâm,
Qua phần bầu bạn chớ cầm rằng chơi. (305)
Giềng bầu bạn nghiệm lời hơn thiệt,
Kẻo làm tay xảo quyệt tinh ma;
Con ôi ! Ích hữu có ba,
Còn phần tổn hữu cũng là dư trăm.
Bạn nhơn bạn nghĩa khó tầm,
Giống bạn âm thầm khuyên dứt nó đi. (306)
Thầy hết dạ Từ Bi với trẻ,
Sao các con chẳng nể lời Thầy;
Trớ trêu khen trẻ gan thay,
Chẳng kiêng núi vững, đất dầy, Trời cao.
Huỳnh lương là giấc chiêm bao,
Ráng học phong trào Ấp Tổn Thuấn Nghiêu. (307)
Sống tại thế chẳng ngoài bảy chục,
Lại còn vương hoạ phúc phi thường;
Thêm phần tật bịnh tai ương,
Sao không tích đức, bồi đường thiện căn.
Lo chi những việc nhố nhăng,
Lo chi những việc ăn năn muộn rồi. (308)
Cung Bạch Ngọc vô hồi cảnh đẹp,
Khuyên các con khá dẹp phàm tâm;
Trời trong, gió tạnh, trăng rầm,
Xuôi chèo bát nhã, khải cầm Chơn Như.
Tụng câu tử hiếu, phụ từ,
Ngâm bài âm chất đặng trừ thói mê. (309)
Lời chánh đáng ai hề thấy đếm,
Tiếng phỉnh phờ ngày đệm đêm rù;
Con ôi thân thể phát phu,
Muốn tu thì phải thiệt tu mới thành.
Sao cho Tiên tịch để danh,
Tu đừng bày việc tranh dành đảng phe. (310)
Tu phải biết Trời che Ðất chở,
Tu đừng cầu sóng vỡ nước tràn;
Tu đừng bàn việc cơ hàn,
Tu đừng bày việc hoá càng tiểu nhi.
Tu đừng bàn việc tiên tri,
Tu thì cứ giữ điều qui chớ rời. (311)
Tu phải biết cơ Trời tối trọng,
Tu phải trừ dục vọng tham sân;
Con ôi ! Ai phước có phần,
Ai tu nấy đặng, ai cần nấy thân.
Ớ con khắp cả dưới trần,
Muôn kiếp mấy lần mới gặp hội ni ? (312)
Ðừng ai tưởng Hoá Nhi bé bé,
Cầm Hoá Nhi dường thể trò chơi;
Nếu coi miệng sữa còn hôi,
Luận việc lở bồi, điền, hải, tang thương.
Khuyên con mau tỉnh mộng trường,
Ðừng học theo phường sóng gió nói ăn. (313)
Lời Thầy dạy phải chăng rành rạnh,
Nhắn các con Cao Lảnh ráng nghe;
Khuyên con cẩn thận kiên dè,
Ðừng lòng xu mị lập bè dối dân.
Tu cho biết Thánh biết Thần,
Biết Trời biết Phật mới rằng là Tu. (314)
Thấy các trẻ công phu khó nhọc,
Mà thiếu công năm lọc bảy lừa;
Chẳng coi cơn nắng mòi mưa,
Có ai đi chợ đợi trưa bao giờ.
Mạnh chèo còn kịp đến bờ,
Nếu chờ đúng ngọ trể giờ chợ tan. (315)
Chớ học việc dinh hoàng thế giới,
Ráng châm lo nội bãi Lạc Hồng;
Ðất hoang ruộng trống mênh mong,
Chung cùng: kẻ cuả, người công cho thành.
Ðạo là thanh tịnh tịnh thanh,
Quan Âm giữ mực Tịnh Bình Lưu Ly. (316)
Muốn giống tốt vựa y kỹ lưỡng,
Giống quá mùa vựa bướng không nên;
Ðạo là Hột Giống Tự Nhiên,
Hoá sanh Trời Ðất mối giềng Người Ta.
Ðạo Trời nào ở đâu xa,
Hể diệt lòng tà thì rõ Ðạo Chơn. (317)
Tôi nhơn nghĩa, nghĩa nhơn phải xét,
Nghĩa nhơn cho phân biệt chánh tà;
Hãy xem gương trước Thích Ca,
Ra tu cũng phải đôi ba lần lầm.
Biết lầm liền biết hồi tâm,
Hồi tâm mới đặng quỷ khâm thần nhường. (318)
Ai cũng nói rằng thương nòi giống,
Thương giống nòi phải trọng dân sanh;
Ai nuôi ai dạy trưởng thành,
Lớn khôn lại muốn tung hoành ngỗ ngang.
Dụm bè, hiệp lũ, vầy đoàn,
Chẳng kể thiên đàng điạ ngục là chi. (319)
Tu phải tránh thị phi huyễn hoặc,
Tu phải bồi Âm Chất Bổn Nguyên;
Ðừng lo danh hảo nhãn tiền,
Lo bề đức hạnh ròng chuyên Ðạo Trời.
Thầy đà ráo lưỡi cạn lời,
Chớ chác luân hồi kiếp kiếp chẳng buông. (320)
Tiếng làm lành nói tuôn cửa miệng,
Hỏi việc lành một chuyện cũng không;
Cất chùa đúc Phật bao đồng,
Chay mùa cúng lễ, gọi ngông rằng lành.
Con ôi ! Thầy chẳng vụ danh,
Vụ con sửa lỗi đừng sanh sự xằng. (321)
Trời lộng lộng chẳng rằng chẳng nói,
Ðố sao cho qua khỏi mắt Trời;
Khuyên con ráng mở con ngươi,
Mộng cườm ráng lể, ráng khươi cho rồi.
Khoan lo đến mắt của người,
Quáng gà cận thị, chớ cười mà chi. (322)
Lời dặn trước ráng ghi tất dạ,
Long, Sa, Kiên, Thầy đã dạy rành;
Sa giang Thầy đã gọi Khanh,
Thời kỳ trách nhậm Thầy đành cậy con.
Khuyên con bổn phận lo tròn,
Ðừng lòng thối thát, tiếng đồn sử xanh. (323)
Con mãn trọng tơ mành thân thể,
Rằng ốm đau nặng nhẹ võ vàng;
Con ôi ! Cái xú bì nang,
Phải lo trả kiếp còn màng nó chi.
Khải sơ lòng dạ trọn nghì,
Nên mới kịp kỳ dự cuộc Liên Hoa. (324)
Cường con khá tâm hòa ý hiệp,
Việc cũ xưa luôn dịp Thầy phân;
Con ruồi đổ nặng đòn cân,
Hãy noi Minh Ðức tự tân lấy mình.
Trung Dung gốc bởi Chí Thành,
Ðạo Thầy gốc bởi hoà bình thế gian. (325)
Thầy biết Lũy rõ đàng Chơn Lý,
Cũng vì đau nên tỵ nên hềm;
Tỵ hềm chích mích anh em,
Anh em chích mích Thầy thêm đau lòng.
Lũy con ráng trọng thủy chung,
Huynh đệ trùng phùng tiếng ngợi bốn phương. (326)
Kinh nhứt sự thì trường nhứt trí,
Rõ kinh quyền tự tỷ tỷ tha,
Giềng năm mà lại có ba,
Năm ba khắn khít sao qua cơ Trời.
Cơ Trời lộng lộng vơi vơi,
Ớ con ! Quẻ đoán đủ lời khỏi Trang. (327)
Rày ngọn bút Thiên Ðàn day cán,
Ðộ gần xa cho hẳn Ðạo Trời;
Sa giang thấy trẻ thiệt thòi,
Ðịnh, Kiên, lui tới đấp bồi chí công.
Thương thay các trẻ có lòng,
Cao Thiên sẽ chuyển Nhơn Phùng hiệp đây. (328)
Tháng mười một đến ngày mùng chín,
Cuộc Tu Mi Thầy định Trung Ương;
Các con nam nữ tựu trường,
Ðặng Thầy chọn mặt bảng vàng xướng tên.
Nhắn con Trần, Mạnh chớ quên,
Vựa, Tôi, Ngọ, Lũy một thuyền mới xinh. (329)
Khuyên các trẻ lòng gìn Trung Thứ,
Ðừng cưu mang hai chữ thù hềm;
Sao cho Ðạo rộng mở thêm,
Sao cho Ðạo được dưới êm trên hoà.
Như vầy con thế mặt Cha,
Như vầy con đặng dựa Toà Ngọc Kinh. (330)
Ngọc Sắc Thầy treo giũa Ngọc Đình,
Hoàng Ngôn thưởng phạt rất đinh ninh,
Đại ân Tứ Thánh đồng dâng biểu,
Đế bản nêu rành Bạch Ngọc Kinh.
Bạch Ngọc Kinh Ðiển Linh Thầy rọi,
Hiệp Thiên Ðài ánh rọi Thần phang;
Trung Thiên Ðiển giáng Thánh Ðàn,
Kiền Khôn thế giái ba ngàn bao la;
Tiêu thiều nhạc trỗi thi Ca,
Bắc Nam xướng hoạ một nhà chung vui.
Chung vui rộng mở cuộc ngày nay,
Chơn Lý bay xa hớn hở mày,
Ước được năm châu đồng một dạ,
Mới là xinh đẹp tiếng con Thầy. (331)
Tiếng con Thầy cỏ cây nở mặt,
Vọi Kiên Giang cao ngất Ðịnh Tường;
Khuôn linh gầy dựng Trung Ương,
Phơi gan sắc đá dọn đường gai chông.
Rọi gương Chơn Lý trùng Phùng,
Muốn sao trọn được Ðại Ðồng đệ huynh.
Ðệ huynh tuy thấy khác màu da,
Thầy đã tường phân vốn ruột rà,
Ví dẫu đờn Nam mà nhiệp Bắc,
Nhưng tuồng khéo sắp được bình hoà. (332)
Ðưọc bình hoà gần xa tương ứng,
Mũi núi xanh đúc vững một tòa;
Trời cao ai gọi rằng xa,
Bá, Tòng, đôi ngọn đông qua dờn dờn.
Riu đưa đầm ấm gió Nhơn,
Ðâu nao tuyết bủa, chi sờn gió xao.
Gió xao, tuyết bủa, núi càng xinh,
Tú khí nồng nàn Ðạo khí sinh,
Trăm cội xơ rơ, tòng bá vững,
Ðón ngăn gió bụi tấm phong bình. (333)
Tấm phong bình thinh thinh sẵn đúc,
Khí âm dương nhặc thúc ven tai;
Bóng ai thấp thoảng hiên ngoài,
Nhắc câu Tam Tỉnh gọi bài Mười Khuyên.
Chí thành nhẫn nại tâm Kiên,
Báu Trời ung đúc thiêng liêng sẵn người.
Sẵn người ứng chực báu Trời dành,
Tánh, Mạng, song tu chớ cãi canh,
Gương trước mắt soi hình với bóng,
Một điều sai trại hại trăm lành. (334)
Hại trăm lành tại canh tai cãi,
Báu Tam Kỳ vầy dại vậy khôn;
Trôn kim nếu chỉ chẳng lòn,
Mà mong sửa méo vá tròn sao xong.
Nửa cân, tám lượng đèo bồng,
Giống giây thưởng phạt hoá công ráng ngừa.
Ráng ngừa mắt Thánh với gương Thần,
Tạo Hoá bao giờ sái mực cân,
Trọn khéo, trọn lành ai có chỉ,
Chi bằng phải phải lại phân phân. (335)
Phải phân phân đừng cần dục vọng.
Sửa cơ Trời lại lộng phàm tâm;
Cơ Trời thính lại vô âm,
Lộng cơ Trời lại cơ cầm rằng ngoan.
Dứt lòng ích kỹ dưỡng an,
Tịnh Tâm mới được trông hoàn Ngôi Xưa.
Ngôi Xưa đâu để nhiểm hồng trần,
Gió cuốn mưa lồng mới rộn xăng,
Cay, đắng, chác, chua, thân nghiệp tạo,
Thanh nhàn mau dục lửa tham sân. (336)
Lửa tham sân tưng bừng mây cuốn,
Khẩu nghiệp làm hại uổng công phu;
Ảo bào mộng ãnh phù du,
Trần duyên nhân quả bao mù thế gian.
Ðã không thức tỉnh Linh Quang,
Vui say nghiệp chướng mê mang luân hồi.
Luân hồi quả báo Phật thường răn,
Con Phật mà mang hết nói rằng,
Phổ độ đã khuyên đừng dối thế,
Mắt Thần như chớp lại như giăng. (337)
Chớp lại giăng chẳng rằng chẳng nói,
Mà đố ai giấu khỏi phân hào;
Công bình ngọn bút Thiên Tào,
Ngay gian chơn ngụy giấu sao qua Trời.
Dần, Thân, Tỵ, Hợi tơi bời,
Bán Thiên mẹo dậu khuấy đời trẻ con.
Trẻ con chưa thạo các tuồng chơi,
Hụp, lặn nào hay chọc khuấy Trời,
Ngọn gió vừa rao xanh nám mặt,
Dị đoan vía dại một trò cười. (338)
Một trò cười tiếng đời người nhắc,
Ðạo đâu làm mê hoặc chúng sanh;
Ðạo là Bác Ái Công Bình,
Ðạo là phổ độ ba nghìn thế gian.
Chưa Đông tìm cách ngự hàn,
Chớ chờ Đông đến rồi than rét già.
Rét già mới rỏ luật công bình,
Hồi tưởng người nào mãi tuổi xanh,
Tích cốc phòng cơ toan sớm liệu,
Khuyên đời trân trọng cái danh thinh. (339)
Cái danh thinh giữ gìn cho lắm,
Lời Thầy răn như tẩm cam lồ;
Ðạo là Thanh, Tịnh, Hư, Vô,
Âm, Dương, phản phúc, Hà Ðồ, Lạc Thơ.
Chớ tin bản lạ mơ mơ,
Ngăn đường Chơn Lý dựng cờ văn minh.
Văn minh gốc chuộng tại tinh thần,
Linh Tánh Thầy ban đứa mỗi cân,
Chọn đất, chọn người, tùy thứ giống,
Chớ rằng đây hạ đó rằng xuân. (340)
Ðó rằng xuân, đây rằng đông chí,
Ðông chí thì Dương khí nhứt sanh;
Ðã ban cho sẵn Tánh lành,
Bỏ lành theo dữ, tại mình hỏi ai.
Chẳng tuân chiếu chỉ Thiên Ðài,
Ðể cười nhị thụ hoá sai chơn truyền.
Chơn truyền thọ, thọ, tại duy, duy,
Thánh Ý đừng lầm nẻo tứ phi,
Chơn Lý rẽ chia vì dục vọng,
Hồi tâm mau dứt cuộc tham si. (341)
Cuộc tham si dứt đi mới được,
Khuyên ai đừng dụng chước Thiên Cơ;
Trung thu chớ gọi trăng lờ,
Trước sau tại một nước cờ hư nên.
Tập roi mà thiệu lại quên,
Quan Âm, Long Thế, lạc quyền Trung Ương.
Trung Ương Chơn Lý dựng đầu tay,
Thức tỉnh người mê giấc mộng say,
Lằn đục tơ tầm no miệng kiến,
Già lời quên nghĩ trả là vay. (342)
Trả là vay gác tay nghĩ tột,
Cũng một nhành trái ngọt trái chua;
Ðạo không dạy việc tranh đua,
Ðạo dạy giúp vùa năm giống một Cha.
Khôn lanh sao bẳng thiệt thà,
Chung hiệp một nhà cứu sống thế gian.
Thế gian cũng một của nhà chung,
Ai nỡ chia ra đứa một vùng,
Ðã gọi đứa khôn thầy đứa dại,
Vụng mà gọi khéo nói sao cùng. (343)
Nói sao cùng không không, sắc sắc,
Có chánh Tâm mới dứt lòng tà;
Phật tuy số gọi hằng hà,
Trần gian yêu quái biết là mấy môn.
Ðành vùi cát bụi phấn son,
Ðảo điên trật tự, hao mòn thân danh.
Thân danh quí báu giữ cho tròn,
Có cái danh này mới có tên,
Có tuổi, có tên, danh phải có,
Danh là rường cột, Ðạo là nền. (344)
Ðạo là nền đừng quên mối Ðạo,
Có Ðạo rồi mới tạo thế gian;
Tin chi cái Ðạo mơ màng,
Học chuyện tuần hoàn sái Ðạo dễ yên.
Ðạo khuyên chánh trực tự nhiên,
Không thông hiểu Ðạo, chưa duyên hiện thời.
Hiện thời mối Ðạo tợ tơ vò,
Xâu xé nhau vì sự ấm no,
Quen nghiệp bán Trời đành phá Ðạo,
Ðạo nào có dạy việc mồ hồ. (345)
Việc mồ hồ nhăn nhô chán ngán,
Kế tinh ma mù quán tối tâm;
Cơ thâm thì họa cũng thâm,
Cháy mày vì lửa bắt ngằm dầu trong.
Tràng lây nhành liễu cội tòng,
Phí công vun quén, nhọc lòng sâm soi.
Sâm soi nào phải một đôi năm,
Họa phước vô môn tiếng chẳng lầm,
Bẻ nạn chống Trời, ngao tát biển,
Khuyên người hỏi lại cái lương tâm. (346)
Cái Lương Tâm phải cầm cho vững,
Mới thiệt rằng là đứng trượng phu;
Hãy xem cái bóng bạch cu,
Nào là xe ngựa lọng dù mà chi ?
Biết rồi thì chớ hoài nghi,
Tiền đồ làm trọng, thị phi chớ lầm.
Chớ lầm lạc lối, uổng công trình,
Ðường cả đồng đi dẫn chúng sanh,
Ái, ố, tham, si, tình thế tục,
Luân hồi ai có thế thay mình. (347)
Thế thay mình như hình với bóng,
Thì phải càng Ðức trọng Ðạo cao;
Dứt xong cái sóng phong trào,
Tín thành, tín ngưỡng, chớ xao lãng hoài.
Một đường thẳng bước Liên Ðài,
Áo xiêm rực vẻ, Bồng Lai chực chầu.
Chực chầu Tánh, Mạng chữ Thiên Ðình,
Phán đoán loài người phẩm trọng khinh,
Lưỡi sẵn có răng cần cẩn thận,
Khuyên ai chớ vội tánh phê bình. (348)
Tánh phê bình vô minh xúi dục,
Bởi nơi ngòi tam độc mà ra;
Ðất bằng bỗng nổi phong ba,
Tại đâu chia rẽ Người Ta, Ta Người.
Ráng lo phân giảng Lý Trời,
Ðừng lòng ích kỷ bị lời sàm ngôn.
Sàm ngôn ru rỉ dỉ bên tai,
Thảnh thót đờn ca giọng đủ bài,
Thương bạn ráng lo khuyên dứt bạn,
Chánh kim nam chỉ chẳng hề sai. (349)
Chẳng hề sai lòng hoài có một,
Mới gọi rằng rường cột Tam Kỳ,
Cớ sao tiếng dặn chẳng ghi ?
Trung Ương là chỗ Thầy qui Ðạo tràng,
Gióng cần Sông vị ngỡ ngàn,
Lưỡi thêm uốn ngạnh móc ràng Chỉ Nam.
Chỉ Nam chỉ rõ lượng Từ Bi,
Chỉ nghiệp nhơn sanh nặng thể chi,
Gươm Huệ ướm trao cho rõ mặt,
Giúp cơn ngư dước buỗi diên phi. (350)
Buổi diên phi Hóa Nhi cố cập,
Ðường Lý Chơn bồi đấp đã lâu,
Khen cho chung thủy một màu,
Càng nhìn Thánh Huấn càng sâu lại càng.
Nghiệm tường mới rõ tâm cang,
Muốn thử đá vàng nổi lửa thét coi.
Thét coi thiệt giả kẻo chưa tường,
Ma quỉ hêu đòi gẩm khá thương,
Tiên Phật ngao du đâu có được,
Cú kêu dữ miệng, có ai nhường. (351)
Có ai nhường bước đường tấn hoá,
Rõ cơ Trời mau khá gia tâm,
Giăng tay rước bạn tri âm,
Cao sơn. Lưu thủy, khúc cầm hửu thanh,
Vày vui đủ bạn công khanh,
Tứ dân, tứ thú, dựng thành Ðạo cao.
Ðạo cao cùng chẳng tại nơi mình,
Khuyên trẻ trau dồi cái Tánh Linh,
Cứu vớt chúng sanh cơn sóng khỏa,
Vững thuyền tế độ buổi nghiêng chinh. (352)
Buổi nghiêng chinh lòng gìn Bác Ái,
Tìm Lý Chơn chẳng nại công lao,
Cứu nguy thành lửa, cá ao,
Trước sao, sau vậy chớ xao cang trường,
Công dày, sức vững, chí cường,
Ðừng chia phe phái, cứ đường Trung Dung.
Trung Dung Ðạo Lý giữ đừng sai,
Bền bỉ từ xưa hỏi mấy ai ?
Kính, Cẩn, Trang, Nghiêm dè dặc lắm,
Nhứt Tâm, Nhứt Ðức, mới rằng trai. (353)
Mới rằng trai đủ tài tế độ,
Ngấm râu mày chớ hổ phận trai,
Gìn lòng chớ chút lầm sai,
Dứt lòng kiêu, lẩn, được dài huệ ơn.
Sao cho trong sạch bổn ngươn,
Nhớ lời dạy bảo thiệt hơn phân trần.
Phân trần với trẻ đã đòi phen,
Cái tánh kiêu căn rất đỗi hèn,
Ma chướng ráng chừa đừng bịnh rịnh,
Mới mong gặp gỡ cựu nhơn duyên. (354)
Cựu nhơn duyên sanh tiền khắn khít,
Lòng chí thành chẳng mích chẳng phai,
Mối lằng miệng thế biếm bài,
Ðá vàng một dạ, mặc ai sẻ sừng,
Công phu, hiệu quả, minh trưng,
Ðài linh vuông tấc ngàn từng suốt thông.
Suốt thông Ðạo cả bởi Trung Dung,
Bền bỉ đừng cho uổng phí công,
Sẵn giống, sẵn phân, người cũng sẵn,
Thiêng liêng cội cả ráng vun trồng. (355)
Ráng vun trồng cho sung cội đước,
Hãy nhớ câu hữu phước, hữu phần,
Dứt xong được tánh phàm trần,
Tách xa Bắc Ngụy, chẳng gần Ðông Ngô,
Vững vàng được bước tiền đồ,
Ðừng tin son vẻ, phấn tô tượng màu.
Tượng màu Bác Ái, dạng Từ Bi,
Phỉnh kẻ mờ mê lập cánh vi,
Khuyên trẻ biện phân đường mối chánh,
Vàng mười chớ để lộn đồng xuy. (356)
Lộn đồng xuy để nghi sanh chúng,
Ðừng cho ai rẽ rún Tam Kỳ,
Biện phân cho rõ thau chì,
Phải tường thị thị phi phi một vài,
Trung Ương lui tới anh tài,
Giữ một tâm hoài hiền đãi sĩ chiêu.
Chiêu hiền đãi sĩ trọng anh hào,
Người một ta mười Ðạo mới cao,
Khổ hạnh là đầu muôn cội cả,
Muốn nên danh vọng dạ dừng nao. (357)
Dạ đừng nao mới cao phẩm hạnh,
Chữ lời Thầy nhẫn nhịn làm đầu,
Một lời nhịn, giá mười câu,
Xót thương cho kẻ cơ cầu hiểm nham.
Tránh phường triêu tứ mộ tam,
Ðuôi ong nọc đỉa, máu tham chẳng cùng.
Chẳng cùng xét được dạ con buôn,
Phủi sạch ngoài tai chớ để buồn,
Ðạo vốn Không Không, không sắc tướng,
Chúng sanh càng mỏng mảnh hơn chuồn. (358)
Mảnh hơn chuồn thêm luồn dông dội,
Ðộ sanh linh phải bội công phu,
Chí công vén ngút vẹt mù,
Chỉ đường Chơn Lý nẻo tu cho người.
Gỗ săng khéo cẩn thêm tươi,
Bân bân văn chất, con người mới nên.
Mới nên đáng mặt đứa con Thầy,
Lúc thúc nuôi mình hổ cỏ cây,
Chơn Lý bủa tràng nưng Vỏ Trụ,
Ðừng cho thầm thẹn tiếng râu mày. (359)
Tiếng râu mày đổi thay thời thế,
Chí hùng anh lại để trò cười,
Màng đời đã rộng con ngươi,
Mê say khói mộng báu Trời đem thiêu,
Thần Tiên khoái lạc tiêu diêu,
Lấp tai khổ ách, sẵn liều trường sanh.
Trường sanh muốn được lắm công phu,
Ðộ kẻ phàm cho dứt cái ngu,
Ngu sắc, ngu tài, ngu trật tự,
Ngu danh, ngu lợi, mảng mê mù. (360)
Mảng mê mù vó cu lạc bước,
Nay nhầm đường ngư dước diên phi,
Dò lần hai chữ Học Nhi,
Học Nhi thì tập giải thi cung Thiềm.
Thông điều vãng cổ lai kim,
Nhớ câu Ðạo vốn phẳng yên như tờ.
Như tờ giấy trải chẳng hề xao,
Dạy bạn đừng ham cách lộn nhào,
Bình đẳng ấy là điều Trật Tự,
Quên bề Trật Tự khó trèo cao. (361)
Khó trèo cao nổi trào ưu thắng,
Bởi Tiên ban đã sẵn tên đề,
Trần duyên nay đã não nề,
Tiên duyên tu tỉnh mựa hề cải canh,
Chung linh tú khí khắp nghìn,
Chớ cho uổng phí công trình tiền thân.
Tiền thân khổ hạnh có ngày nay,
Nay cũng dày công mới gặp Thầy,
Thẳng bước chớ cho ngừng nghỉ gót,
Mình nên bạn cũng được thơm lây. (362)
Ðược thơm lây cả bầy con dại,
Ðừng ai làm phá hoại danh Thầy,
Hiệp Thiên Luật cả Cao Ðài,
Ðừng ai khoe giỏi nói hay cãi Trời;
Các con Nam Nữ nơi nơi,
Hễ rằng biết Ðạo nghe lời mới nên. (363)
Mối Chơn Lý cậy Kiên gỡ rối,
Ðứa vọng tâm quá vội tự kiêu,
Mượn danh tuân luật Qui Ðiều,
Song lòng dối trá trăm chiều gớm ghê,
Thầm toan kết đảng kết phe,
Ma quỉ một bè vinh mặt rằng khôn. (364)
Tại các trẻ muốn chôn Tánh, Mạng,
Ắc phải vương tai nạn phi thường;
Thầy đâu có dạ chẳng thương,
Thương sao cho được tai ương nó gầy.
Thầy thương nên mới tỏ bày,
Khuyên con Nam Nữ từ rày phải tuân. (365)
Cửa Hiệp Thiên ngàn từng chớn chở,
Cửu Trùng Ðài khuyên chớ vọng đàm,
Xanh nào lấn được xanh chàm,
Muốn thông Ðại Ðạo Nhứt Tam phải rành.
Mồ hồ lăng liếu mối manh,
Mà mong thống nhứt Ngươn Hanh mối giềng. (366)
Phải nghiệm xét Hậu Tiên Thiên Vận,
Ðặng suy cùng vô tận vô biên,
Ðạo tìm những trẻ hữu duyên,
Ai vô duyên chớ xưng Tiên, gọi Thần.
Ðạo là phẳng lặng trang bằng,
Ðạo không thữ thách nhố nhăn cãi Trời. (367)
Khuyên các trẻ nghe lời Thầy dặn,
Ðừng để lòng cừu hận tham si,
Dứt giây ma níu, quỉ trì,
Tìm đường Chơn Lý mà qui cho rành.
Ðừng nghe kẻ cãi người canh,
Vui nghe một phút tội hành lao lung. (368)
Biết sao nói cho cùng với trẻ,
Bởi vọng tâm quên kể lời Thầy,
Ðạo tuy ở khắp Ðông Tây,
Mà Ngôi Ðộc Nhứt là Thầy đó con.
Thầy đâu có dạ Tự Tôn,
Song Ngôi Chí Bửu, Chí Tôn là THẦY. (369)
Ứa nước mắt khuyên bày con dại,
Có lỗi thì ráng cãi ráng chừa,
Thẳng giây mực nẻ đường cưa,
Ðau lòng tại gỗ sớ thưa thịt tỳ.
Nhớ ngày Kỷ Niệm Tu Mi,
Con nào tội ác khó qui vào trường. (370)
Lập Trung Ương Nghĩa phương dạy trẻ,
Nhắc các con tiên Lễ, hậu Văn,
Anh em khắn khích muôn phần,
Dưới trên hòa thuận, khuyên đừng trắng đen,
Nước trong nhờ có lóng phèn,
Người nên nhờ có bạn hiền sớm khuya. (371)
Diệu Nghiêm Cung
Trung Thiên Giáo Chủ
Mừng các con, mừng chư đệ tử,
Đức Chí Tôn có vời Cửu Cung Thánh Mẩu, Tứ Đại Thánh Nhơn và chư
Thiên Tôn đến xem các con hành lễ, có để lời khen Tứ Bữu vừa biết làm
phận sự. Người dạy Bổn Tôn đam lời của Người và của Đức Mẹ đặng
truyền dạy các con Người, khuyên các con phải tận tâm phổ độc chúng sanh trong lúc mù mê, chẳng biết Chơn Lý là gì, các con phải dìu dắc chúng nó, kẻo chúng nó bị tai bay họa gởi, mà phải hư thân danh.
Các con định thần nghe lời truyền dạy.
Cửa Chơn Lý khoá chìa vừa hợp,
Mở cho con vài lớp Ðạo tràng;
Dạy con dài thở vắn than,
Khuyên con nam nữ lưỡng ban học hành.
Dạy con phải trọng thân danh,
Khuyên con phải sợ tiếng lành đồn xa. (372)
Con muốn được Ðạo Cha rộng mở,
Con phải lo hâm hở tự tân;
Học hành tua phải ân cần,
Thượng hành hạ hiệu lần lần dắc nhau.
Khuyên con bền bỉ thân sau,
Ráng ngừa những miếng có đầu không đuôi. (373)
Con đã rõ luân hồi bài dạy,
Trước mê sa đường quấy mới hư;
Công lao Cha đã chẳng từ,
Ra tay vớt trẻ khư khư chẳng nài.
Lòng Cha, lòng đã chẳng phai,
Lòng con bao nỡ cứ mài miệt chơi. (374)
Thầy nay phải cạn lời với trẻ,
Khuyên trẻ đừng bê trễ công trình;
Muốn cho kịp bước trường sinh,
Ðạo tràng khuyên chớ hớ hinh ngày giờ.
Nhiều con lòng dạ lãng lơ,
Ngày nay trễ bước chờ cơ hội nào. (375)
Con đã rõ ảo bào mộng ảnh,
Sao không lo Dưởng Tánh Tu Tâm;
Một đời hỏi lại mấy năm?
Một tháng đếm lại trăng rằm mấy con?
Dày công cát nổi nên cồn,
Dày công nước chảy đá mòn nên khe. (376)
Khuyên bỏ tánh vầy bè hiệp lủ,
Chớ phanh phui việc cũ trò đời;
Công dư nên giúp cho Trời,
Công dư nên giúp Ta, Người, đoàn viên.
Công dư bạn với Thánh, Hiền,
Công dư ráng nhớ lời khuyên của Thầy. (377)
Thầy thấy trẻ hay thay Thánh Ý,
Biết có mình quên nghĩ đến Trời;
Con ôi ! Thầy đã cạn lời,
Ý chi con nỡ lòng dời dạt phai ?
Ðạo tràng vắng trẻ đoái hoài,
Chuyên lo ích kỷ giồi mài phàm tâm. (378)
Cái phàm tâm hại ngầm sanh chúng,
Thương các con yêu trọng chẳng rời;
Lòng con nhuộm đã lâu đời,
Bao giờ rửa sạch Thầy Trời cứu cho.
Tham sân lửa đã cháy lò,
Tự tâm mê muội bo bo giữ gìn. (379)
Trẻ muốn được Ngọc Kinh bước đến,
Trước phải lo dứt bến mụi mê;
Lời Thầy hễ đọc phải nghe,
Hễ nghe thì phải ráng nghe cho rành.
Nghe rồi liền phải thi hành,
Thi hành thì chớ cải canh méo tròn. (380)
Thầy chẳng dạy các con điều quấy,
Dạy các con thấy quấy phải chừa;
Học hành chớ nại sớm trưa,
Tu hành thì phải ngăn ngừa quỉ ma.
Kiêu căng tật đố thói tà,
Biến lười nhát nhúa bỏ qua sao đành. (381)
Trẻ muốn được mau thành chánh quả,
Mà quên phòng cái họa vọng tâm;
Con ôi ! Chánh Pháp cao thâm,
Tự Tâm tự Tánh thâm trầm lắm con.
Phải lo kiến thức cho tròn,
Ðừng lo xa kiếm Thế Tôn nơi nào. (382)
Thầy những ước con sao dễ dạy,
Ðặng mau truyền cho thấy huyền cơ;
Ðịnh Tâm khuyên chớ hỏng hờ,
Ðịnh cho thanh tịnh dừng mơ việc ngoài.
Ðịnh, Huệ, một thể chẳng sai,
Ðịnh xong mới Ngộ, mê hoài sao nên. (383)
Học Ðịnh Tâm phải bền mới được,
Ðừng cho Tâm lo vượt cảnh ngoài;
Trong lòng đừng loạn đừng sai,
Ngăn ngừa ý mã rẽ hai Tâm Thần.
Tánh xưa trong trắng trong ngần,
Ðịnh xong liền thấy Huệ lần phát ra. (384)
Thiệt Ðịnh Tâm có ba bài học,
Thầy đã cho săn sóc có người;
Nếu ai cả biếng già lười,
Ðèn nào cháy được bởi trời gió dông.
Nước kia bằng muốn lóng trong,
Thì đừng vọc khuấy cặn bùn nó lên. (385)
Ai cũng muốn thành Tiên cho chóng,
Mà quên rằng Phật sống nơi Tâm;
Ðầu non chót núi vái thầm,
Hang cùng nẻo cố ráng tầm cho ra.
Sao không nhớ lại lời Cha,
Ðịnh Tâm thì thấy có xa đâu nào. (386)
Dứt các cảnh lãng xao trước mắt,
Có mà không, mới thật rằng không;
Ở đâu cho khỏi bụi hồng,
Ở bùn mà chẵng nhuốm bùn mới hay.
Hãy tuân những Luật dạy bày,
Tuân rồi mới rõ Luật Thầy thể nao. (387)
Dằn cái sóng phong trào phá họai,
Tưởng hại người nhè hại lấy mình,
Các con có tánh hay khinh,
Khinh sao cho được cao xanh Luật Trời,
Ráng nghe lời dạy con ôi!
Ðạo Tràng ráng đến để chơi ích gì! (388)
Thấy phía trẻ nữ nhi khờ khạo,
Mà có lòng mộ Ðạo sớm khuya;
Ngày đêm bốn vốc chẳng lìa,
Nhọc nhằn ráng chịu chẳng hề thở than.
Khen cho có chí đá vàng,
Hềm vì một nỗi bàn bàn chẳng quên. (389)
Thầy dạy trẻ dạy nên dạy khéo,
Thầy có đâu dạy lếu dạy khờ;
Dạy con biết bến biết bờ,
Dạy con bỏ tánh bơ thờ nhố nhăn.
Dạy con khuya sớm ân cần,
Dạy con thức tỉnh, dạy đừng bôn chôn. (390)
Dạy con biết phần Hồn làm trọng,
Dạy con chừa cái bụng đa nghi;
Ðức Tin, công quả trọn nghì,
Y theo Thánh Ðức Diêu Trì chớ sai.
Nếu con lần lựa nay mai,
Ðằng kiều khó bước, Liên đài khó mong. (391)
Lòng Ðức Mẹ ngùi trông con trẻ,
Nhiều con đành chẳng kể lời khuyên;
Trăm bề dều dụng ý riêng,
Bao giờ mới đặng đoàn viên trùng phùng?
Mẹ thương con, nói chẳng cùng,
Con đành xa Mẹ, nỡ lòng nào con! (392)
Lòng Ðức Mẹ héo von chua xót,
Ngày những đêm ruột hót gan xàu;
Một ngày, một đợi, một lâu,
Mà con đành đoạn rủ nhau hoang đàng.
Gặp người Mẹ nhắn Mẹ than,
Ðem lời giác dát gián can con giùm. (393)
Lòng Ðức Mẹ hay dùm, hay bọc,
Miễn lời ngay con lọt vào tai;
Con về mẹ rước hai tay.
Mẹ đà sắm sẵn mảo, giày, áo, xiêm.
Thương con bể khổ đấm chìm,
Quên quê cảnh củ trang nghiêm phụng rồng. (394)
Khuyên con dứt cái lòng phàm trược,
Ðặng nghe lời chỉ trước dặn sau;
Liên đài nhiều nất nhiều cầu,
Tánh phàm đeo đuổi khó hầu bước qua.
Nếu con mãn tánh ta bà,
Mẹ nào nở thấy con sa hố hầm. (395)
Muốn trẻ được định Tâm định Tánh,
Mẹ đã toan dựng cảnh Phổ Ðà;
Con dầu xiêu lạc mấy xa,
Lẽ đâu cảnh cũ quê nhà lại quên.
Ra tay đấp móng, xây nền,
Công phu viên mãn đoàn viên kịp chầu. (396)
Lời châu ngọc trước sau dặn bảo,
Khuyên con đừng mặc áo khỏi đầu;
Tuy rằng nghiệp quả đã sâu,
Tự Tâm sám hối thì mau được thành.
Con nào cượng lý cải canh,
Búa rìu chịu lấy Mẹ nhìn lụy rơi. (397)
Con biết Mẹ, thì Trời ban thưởng,
Con quên Trời, thì vướng họa tai;
Ớ con! Mẹ đã dạy hoài,
Ớ con mất nết, một hai phải chừa.
Ớ con đừng có đảo lừa,
Ớ con tỉnh giấc dây dưa ích gì. (398)
Này nam nữ ráng ghi vào dạ,
Khuyên con ngừa cái hoạ dị đoan;
Phật Tiên xa vọi muôn ngàn,
Phật Tiên đâu có rảnh rang quến rù.
Phật Tiên biết dạy người tu,
Phật Tiên chẳng dạy đứa mù nói ma. (399)
Cao Thiên Ðàn Kiên Giang
Ðàn đêm 10-11 tháng 6 Bính Tý
Nhằm đêm 27-28 July 1936
Ngọc Ðài giá hạnh phán phân minh
Hoàng bút châu phê Luật đã rành,
Ðại Ðạo muốn nên đừng cãi Lịnh,
Ðế kinh rộng mở bữa thêm xinh.
Con có chí cải tà qui chánh,
Thầy nỡ lòng nguội lạnh với con;
Dạy con lòng dạ sắt son,
Dầu cho biển cạn non mòn chớ quên.
Ðài cao núi dựng làm nền,
Lọng tàn dối giả sao bền gió dông. (400)
Kìa lũ kiến chòm ong khuấy rối,
Ðem miệng lằn lưỡi mối hại đời;
Hành vi chẳng sợ Luật Trời,
Luật Trời đâu để vui cười được lâu.
Nhớ câu: thiện ác đáo đầu,
Công bình là Luật cao sâu chẳng lầm. (401)
Khen cho đứa tìm tâm ích kỹ,
Khéo làm trò hồ mị khi cô;
Làm tuồng triêu Hớn mộ Hồ,
Ðông Tào chót lưỡi, Trương Tô tấm lòng.
Nào hay sẵn chực người Phòng,
Công thành thân thối Xích tòng tử du. (402)
Trời cao vọi mảy thu chẳng sót,
Ðứa cơ mưu đâu lọt lưới Trời;
Khen cho cả tiếng già lời,
Bịa điều huyễn hoặc phỉnh đời say mê.
Hiệp tam hiệp ngũ đề huề,
Luật Trời phép nước chẳng dè chẳng kiên. (403)
Dối mượn tiếng tuyên truyền Ðại Ðạo,
Quyết lòng lo giả tạo danh mình;
Chẳng lo đến buổi gặp ghình,
Túi tiền tuy sẵn, nhơn tình khó mua.
Thương cho những kẻ nịnh hùa,
Chẳng xem tiền giấy, tưởng bùa hộ thân. (404)
Ðuốc Chơn Lý ánh bừng cao ngọn,
Phá mù tan rọi bốn phương Trời;
Chọn người Thầy đã trao lời,
Cầm quyền giám đốc tùy thời độ chung.
Con nào nghe dạy còn trông,
Con nào nghịch mạng Ðại Ðồng khó than. (405)
Lửa thử thét ngày càng thêm hực,
Gió sàng dê thời khắc chẳng ngừng;
Ớ con ráng mở mắt bừng,
Ðừng cho cát bụi bít dừng con ngươi.
Con nào lòng biết sợ Trời,
Thì còn trông cậy gặp Người cứu cho. (406)
Thầy tuy sắm cái lò Tạo hóa,
Tạo Hóa Công nơi dạ các con;
Khoe khoan khéo, vụng, dại, khôn,
Sắt, gan, đồng, thép, yếu dòn bởi đâu?
Ðừng ai mặc áo khỏi đầu,
Biết đâu rún biển cạn sâu mà dò. (407)
Kìa anh én liếu lo hôm sớm,
Nọ phù du chuồn bướm trưa chiều;
Mênh mang võ trụ ngao nghêu,
Tưởng rằng Trời Dất bấy nhiêu là cùng.
Dập diều xóm kiến đoàn ong,
Chẳng dè sánh với muỗi mòng khác chi. (408)
Con một lớn biết đi biết chạy,
Thầy càng khuyên càng dạy càng thêm;
Nếu con chẳng chịu thúc kềm;
Thì con chớ trách Luật nghiêm của Trời.
Con nào biết chịu nghe lời,
Thì mau hối quá kịp thời đoàn viên. (409)
Thương cho trẻ có duyên may gặp,
Rày phải lo đừng vấp như xưa;
Bấy lâu năm lọc bảy lừa,
Lọc lừa càng lắm càng trưa ích gì.
Dầu cho viễn tẩu cao phi,
Ðố ai tránh khỏi Hóa nhi vô hình. (410)
Biết sao nói công trình Thầy dạy,
Dạy cho con xem thấy rẽ ròi;
Bấm tay thử nghĩ lại coi,
Vì đâu lặn mọc trễ hồi xiết bao.
Khuyên rày bỏ dạ cầu cao,
Kìa cơ chuyển Ðạo định trao đã gần. (411)
Trẻ hối ngộ Thầy mừng cho trẻ,
Có duyên xưa gặp kẻ giúp tay;
Gặp duyên đã gọi rằng may,
Gặp duyên bền chặt chẳng Thầy đố nên.
Gặp duyên phải giữ cho bền,
Cho bền vững gót đứng trên Trùng Ðài. (412)
An Thiên Hội một bài dạy rõ,
Ai xuôi con họa hổ bất thành;
Tại con ham muốn phù danh,
Bạn hiền đâu khứng đem mình giúp con.
Làm Người khuyên chớ bôn chôn,
Kìa kìa vực nỗi nên cồn mấy hơi. (413)
Ðừng muôn việc cứ Trời mà đổ,
Tạo Hóa Nhi hỉ nộ không chừng;
Nghe Trời thì được vui mừng,
Nghịch Trời Trời phải dậy bừng sấm oai.
Mảy lông Trời chẳng lọt sai,
Ðừng ai nói giỏi khoe hay mà lầm. (414)
Có trẻ biết Minh Tâm Kiến Tánh,
Thầy khen cho sửa hạnh ít nhiều;
Hôm mai em dại dắt dìu,
Ngày càng thêm mới đừng điều nhặt thưa.
Kìa Trời đang nắng rồi mưa,
Vừng ô lố dạng thoạt trưa rồi chiều. (415)
Thuyền Chơn Lý buôn lèo lướt sóng,
Giữa dòng khơi một bóng trăng thanh;
Trên trời dưới nước mông mênh,
Ðừng sai lạc hướng phải nhìn vào đâu.
Thình lòng một dạ trước sau,
Châm theo Bắc Ðẩu chẳng cầu Chỉ Nam. (416)
Tánh Trời phú phải đam cho trọn,
Chớ lăng xăng Tánh lộn với Tâm;
Tánh Tâm Tâm Tánh chớ lầm,
Tánh Tâm Tâm Tánh chớ cầm rằng chơi.
Bấy nay nhiều kẻ vá Trời,
Cũng nhờ Tâm Tánh chẳng rời rạt ra. (417)
Kìa thử xét đóa hoa búp kín,
Tánh Tâm đâu, Tâm Tánh là đâu?
Tâm là chỗ núp ẩn sâu,
Tánh là chỗ bị nhuộm màu khác xưa.
Tánh Tâm mê hoặc ráng chừa,
Tánh Tâm sáng tỏ hỏng hờ sao nên. (418)
Vật chất học khắp miền Âu Á,
Mẩn mê tìm vật lạ Ðịa-cầu;
Nghiên nghèo dồn dập trước sau,
Mảng lo giành giựt nhiệm mầu hóa công.
Sao không xét lại nơi lòng,
Bấy nhiêu mầu nhiệm Tâm trung sẵn sàng. (419)
Xét thì rõ con đàng Chơn Lý,
Chơn Lý là trừ mị diệt tà;
Mị tà nào có đâu xa,
Trong ngoài quanh lối lớp da thịt nầy.
Xét rồi ngó lại nhìn Thầy,
Thầy đâu có sắm đồ vầy cho con. (420)
Bừng mắt dậy tỉnh tuồng sẽ thấy,
Mê muội chi đường quấy lại trông;
Thấy con mê muội đau lòng,
Thấy con mê muội chẳng phòng giặc ma.
Giặc ma bảy đứa kê cà,
Rỉ rầm thầm thỉ cà rà khít khao. (421)
Phá cái giấc chiêm bao mấy kiếp,
Ðặng về mau cho kịp với người;
Ðạo Trời bủa khắp nơi nơi,
Ðông Tây Nam Bắc một Trời Lý Chơn.
Phải tìm cho gặp con đường,
Ðừng cho lạc bước để hờn kiếp sau. (422)
Trang phú quí lập lầu xây các,
Cuộc càng xinh, nghiệp ác càng sâu;
Thử coi thế giái hoàn cầu,
Tay vàng chơn ngọc bấy lâu trong mình,
Sao không xét lại mà kinh,
Báu Trời đâu để giồi vinh phong trần. (423)
Người Đạo Đức biết Thân làm báu,
Chơn Thân là rào dạo thế gian;
Chơn Thân đứng được vững vàng,
Thế gian kết cuộc muôn vàn sự vui.
Chơn Thân, Chơn Thể sánh đôi,
Thế gian hòa hiệp Ta Người một ngôi. (424)
Vượt thế gian kìa Trời Chúa Tể,
Thuyền rước người vượt bể trầm luân;
Muốn cho người rõ được chừng,
Ðài Châu Thiên đó là từng Ngọc Kinh.
Muốn cho vững bước tiền trình,
Tánh Tâm phải lặng như bình nước trong. (425)
Kìa trên có Chủ Ông săn sóc,
Khuyên con đừng lặn mọc hư thân;
Ðã rằng ai phước có phần,
Phước phần thứ lớp nấp ngăn chẳng lầm.
Luật Trời tuy gọi u thâm,
Song đều cũng tại nơi Tâm mình gầy. (426)
Con thử xét từng mây mấy lớp,
Thì con tường trường hợp Ta Người;
Ta Người đều Một với Trời,
Ta Người đâu có mến đời mẫn mê.
Ta Người mau thoát kiếp về,
Từng mây mấy lớp đều quê hương nhà. (427)
Chớ vụng tưởng có ba cảnh giái,
Dục, Sắc, Vô, rằng Ðại Tam Thiên;
Chia ba thêm kẻ đảo điên,
Rằng nào bổn chất tự nhiên dạng hình.
Rằng nào cảnh trí tú tinh,
Rằng nào Lý Trí tự mình xét suy. (428)
Sao chẳng xét Vô Vi Ðộc Nhứt,
Dụng Hữu Vi sanh Thái Cực Ðồ;
Chớ rằng Ðạo Thể hư vô,
Chẳng xem Ðạo Tướng có lò Hóa Công.
Kịp mau một kiếp tao phùng,
Châu Thiên Ðài đó Ðại Ðồng đệ huynh. (429)
Mau bước đến Ngọc Kinh chín bệ,
Kẻo kìa con ác xế đã hầu;
Một đời gẫm chẳng bao lâu,
Còn trông đợi muốn chực chầu những chi.
Mấy lời Thầy dạy phải ghi,
Con đường khôn dại thị phi chớ lầm. (430)
Con muốn được Thầy châm chỉ dạy,
Thì bỏ lòng tà vậy buổi xưa;
Khuyên đừng còn tánh đảo lừa,
Nhứt Tâm Nhứt Ðức đừng thưa thớt lòng.
Ðạo tràng trẻ phải dầy công,
Một năm biết được mấy cung trăng rằm. (431)
Mừng cho trẻ có tâm tìm Ðạo,
Thì những lời dạy bảo phải tuân;
Mấy muôn ngàn kiếp một lần,
Mấy muôn ngàn kiếp được gần mặt Ta.
Khá mau tỉnh giấc ta bà,
Tự nhiên được Trí Trung Hòa dưới trên. (432)
Các con muốn Thiêng Liêng vững chặt,
Thì phải lo kiên Luật chí công;
Chọn con đều giống rặt ròng,
Chín mười sao giống chẳng đồng giá cân?
Công bình là Luật bình quân,
Luật đâu có Luật so gần tính xa. (433)
Luật Trời đã đặt ra Kỷ Luật,
Cho các con biết mực tu hành;
Luật Trời đã dạy đinh ninh,
Con ôi giữ Luật sửa mình sớm khuya.
Ðồng bào khuyên chớ chia lìa,
Ðông Tây Nam Bắc cũng về một ngôi. (434)
Bỏ Cái Ta dạy rồi phải nhớ,
Còn Cái Người khuyên chớ nuối hơi;
Ðã nhìn con thiệt của Trời,
Trời kia là Luật con ôi phải nhìn.
Thương con lòng sắc dạ đinh,
Thương con Thầy phải đinh ninh dặn dò. (435)