(1936)
Vé số 1:
Trời mở Đạo dạy người thoát tục,
Trời nào cho đóng ngục nhốt người;
Trời cho người tỉnh biết Trời,
Trời cho người biết đặng người tìm phăng.
Từ khi có Trời đất có loài người đến nay, Đạo của Trời dạy đã khắp nơi rồi chẳng phải là ít, chẳng phải là không có, đâu đâu cũng đều dạy một cách, là dạy làm người phải “thương” nhau, sách vở Thánh Hiền Tiên Thánh để lại biết bao nhiêu. Kinh kệ của các vị Phật các vị Tổ cũng truyền bá khắp nơi, nào còn thiếu thốn chi nửa,mà đến đỗi Trời này còn phải bổn thân giáng phàm đặng khai Đạo Kỳ Ba này, nơi cõi hồng lạc này, là cõi nhỏ nhen thấp hèn hơn cả mọi nơi vậy? Vậy chớ Trời khai Đạo như vậy có ích chi cho Trời hay không? Có ích lợi chi cho Người hay không, mà đến đổi Trời phải nhọc công như thế? Chúng ta là người học Đạo, cần nhứt là phải tìm kiếm cho ra cái “Mục-Đích của Trời mở Đạo” đây cho thấy rõ, thì mới có thể biết Đạo là chi, rồi mới thương Thầy mến Thầy, quí Đạo trọng Đạo, bằng chẳng tìm xét cho ra Lý, thì là tu giởn tu chơi vậy thôi chớ nào phải là người chơn tu đâu.
Muốn tìm kiếm cho ra lòng Trời thế nào thì chẳng cần phải kiếm đâu cho xa lạ, hảy do nơi Thánh huấn của Thầy thì thấy rõ. Vì Thánh huấn chẳng có một việc chi mà Thầy hay là chư Tiên chư Thánh giấu giếm chúng ta. Thánh huấn của Thầy và của chư Tiên Thánh, chúng ta gọi rằng cao xa khó hiểu nên hay bỏ qua hoài, hoặc là đọc cho có chừng, hoặc là vì Lịnh Trên dạy, phải làm luận văn đặng trau đổi ý kiến, nên chúng ta phải làm cho có chừng mà nạp cho khỏi bị trách cứ, hoặc là đổ thừa thế này thế kia đặng tránh trốn, chớ còn Thánh huấn của Ngôi Chị là dễ hiểu dễ tìm hơn hết, sao chúng ta đành nỡ bỏ qua mà chẳng xét cho ra cho thấy, đặng tìm coi Mục Đích của Trời mở Đạo đặng làm chi? Nếu có công tìm thì thấy rõ ràng, kìa Ngôi Chị đã nói rõ ràng như vậy:
Trời mở Đạo dạy người thoát tục,
Trời nào cho đống ngục nhốt người;
Trời cho người tỉnh biết Trời,
Trời cho người biết đặng người tìm phăn.
Ngôi Chị đã nói rõ ràng câu ấy nơi bài Kinh Tam Thập Tam Thiên rồi, tại chúng ta mảng vọng tâm vọng cầu nơi chỗ cao xa mà quên do nơi nấc than dưới mà bước trước cho vững vàng, cứ vội ngón vội ngó nơi chót vót từng lầu cao mà hụt chơn sái bước hoài.
Sao chúng ta chẳng xét lại coi cho kỹ lưỡng, coi cái mà chúng ta tự bấy lâu này gọi là Đạo đó, chẳng luận là Đạo Trời, Đạo Phật, Đạo Tiên hay là Đạo Thánh chi chi, những Đạo ấy, dạy chúng ta những chi? Có phải là mỗi phe, mỗi Đạo, nỗi tôn giáo, mỗi chi, mỗi phái nào, họ cũng mượn tên Trời Phật Thánh Thần đặng rùng ép chúng ta, đặng ngăn đón chúng ta rằng phải tùng theo giáo lý của họ thì được về Thiên Đường, thì được về tịnh thổ, thì được về Tây Phương, thì được thành Tiên thành Thánh hay không? Họ chỉ biết dùng cách dối gạt rằng hễ muốn tùng theo giáo lý của họ thì phải cứ một lòng tin tưởng nơi họ, họ có đủ sức cầu Trời khẩn Phật giùm cho, đặng cho thoát khỏi những tội lổi chi chi của chúng ta, chẳng cần chi phải lao công nhọc sức làm gì, cứ việc làm ăn như thường, miểng là cho có bạc tiền đem dưng cúng cho họ là đủ rồi, bằng chẳng vậy, bằng chẳng chịu tín ngưỡng theo tôn chỉ của họ dạy, thì phải bị sa đọa vào 18 từng địa ngục, 72 cửa ngục sửa phạt khốn khổ vô cùng. Họ lại còn bày hình ghê gớm đặng cho chúng ta thấy mà dùng mình rởn óc nữa. Chúng ta nào có biết chi đâu, hễ ai nói đến Trời Phật thì chúng ta tin, chúng ta lạy, là vì lòng chúng ta đã tín ngưỡng Trời Phật đã lâu rồi, từ đời nào chí bây giờ chớ chẳng phải là một kiếp này mà thôi, vì vậy nên này thấy ai là người bề ngoài có vẽ từ bi thì chúng ta tôn kính chúng ta sùng bái, gọi mấy vị ấy là cao tăng, đại đức tu hành, còn chúng ta tự hạ mình chúng ta xuống mà tự gọi là chúng ta phàm phu tục tử, nên mới phải làm cho hết lòng đặng tỏ dấu kỉnh Phật thì phải trọng tăng chớ nào có biết chi nửa mà nói mà xét, có ai dạy ai chỉ Đạo là chi đâu mà biết.
Chúng ta mấy đời mấy kiếp mắc mưu bị kế quá rồi, vì vậy nên động lòng Trời, mà cũng vì sự tin tưởng không chánh đáng ấy nên phải sa vào tả đạo bàn môn, nên không hiểu căn cội của mình là từ Trời mà xuống, Trời là Cha Chung cho cả thế gian, Cha khắp cả nhơn sanh, ai biểu mình quên Cha Thật của mình đó chi, nên mới phải bị bọn giả dối lường gạt được, mà vẩn tin tưởng bọn kia là thần thánh còn mình là phàm là tục nên nó mới rù quến được đó. Trời vì động mối thương tâm, nên Trời mới mở Đạo Kỳ Ba này, nơi cõi Hồng Lạc đây, là chỗ ngu muội mê hoặc hơn hết, đặng Trời dạy cho chúng ta cổi cái lốt gọi là lốt phàm lốt tục đó đi, đặng nhìn đặng nhớ lại rằng mình là con ruột của Trời đó, đừng để cho ai phỉnh phờ gạt gẫm nửa được mà quên nơi quê cảnh xinh đẹp của mình đi.
Bởi Trời thấy tự bấy này, bọn tả đạo bàn môn kia, bọn dối Trời dối Phật kia, cứ đem những việc luân hồi quả báo mà gạt gẫm chúng ta một cách trái Đạo Lý, không chỉ cho chúng ta biết Chơn Lý chánh đáng là thể nào, cứ vẫn dạy chúng ta cúng tiền bạc gọi là cúng chùa lạy tăng goị là trọng Phật vậy là đủ, nếu chúng ta chẳng làm vậy thì bị luân hồi, phải bi trầm luân sa vào địa ngục không ai cứu cho. Cũng vì sợ sa vào địa ngục không ai cứu, mà cũng vì ham mê thiên đường nên mới dầm sương dầm nắng, cực khổ chẳng kể, hoặc là làm nhiều việc trái ngược Đạo Lý mà cũng không cần, miểng là cho có tiền có bạc đặng đem hối lộ cho mấy người gọi là thay mặt Trời Phật ấy, là cho họ độ rỗi linh hồn của mình cho khỏi bị giam cầm nơi 72 cửa rạt, trong vòng 18 từng địa ngục đó thôi, vì ỷ y họ có quyền phép và có nhiều vị Thần Thánh tùng quyền của họ sai khiến nên họ cứu mình nỗi. Chớ nào chúng ta có hay biết chi rằng chúng ta đều là Người của Trời sai đế mở mang khắp cõi hồng hoang giúp tay Bàn Cổ Tam Hoàng lập công đâu. Bởi chúng ta đã chẳng làm tròn phận sự mà ngày này cũng còn mê sa ma quỉ lả lơi, bỏ điều minh thệ với Trời mà không biết hồi đầu qui hướng đặng ăn năng tội lổi với Trời, lại còn đem lòng tin cậy nơi đâu, bảo sao không đời đời kiếp kiếp ở hoài nơi trên mặt đất này hoài mà vùi mà vấp cái xác thân mê muội này hoài; mảng tưởng 72 cửa rạt kia, 18 từng địa ngục nọ là ở đâu đâu dưới cái đất nẻ, có quỉ sứ nhăn nanh lố vút, có vạc dầu sôi thiệt, có kiếm thọ đao sơn (chổ hòn núi có cấm gươm chôm chởm đặng quăn thây người vào đó cho gươm giáo đâm lủng tim lủng phổi mà trị tội) , có nhiều nữa, nhiều nữa, 72 chỗ độc ác vô cùng, vỉ tưởng vậy mà quên rằng cửa ngục ấy đều ở tại dương gian đây, ai không làm xong phận sự giúp Trời thì phải bị đời đời ở hoài nơi hồng trần mà phơi nắng dầm mưa, cái mưa nắng nó cháy da phỏng tráng chúng ta đó, cùng là những sự thật, chỉ vợ yếu con thơ, nợ nần đau ốm nó cắn rứt chúng ta đó bằng biết bao nhiêu lần đau thương hơn là đao sơn kiếm thọ, hơn là vặc dầu sôi. Tại mình quên Trời thì mình phải chịu lao đao lận đận trăm điều cắn rứt như banh da bách thịt, đứt ruột đứt gan mà không hay, lại đổ thừa nơi đâu xa lạ. Cũng vì bọn tả đạo không cho chúng ta biết Chơn Lý đặng chúng ta hồi hướng, lại đổ thừa rằng vì không theo giáo lý của chúng nó nên phải bị kiếp kiếp ở hoài nơi cõi diêm phù đề này, cõi Nam Thiệm bộ châu này, nên phải bi luân hồi khổ não hoài, chớ chi theo giáo lý của họ thì đã được về Tây Phương lạc quốc rồi, sao chúng ta không tự xét lấy mình, những cái ngục mà nhốt chúng ta đó, là tự chúng ta tạo nó ra, hễ chúng ta tạo ra rồi, thì chúng ta theo mà coi chừng coi đổi, phải theo mà giữ mà gìn, chớ để cho ai coi cho bây giờ. Vậy thì những cảnh đoạn trường đó, những cái ngục nhốt chúng ta đó, đều do nơi chúng ta tin xàm tưởng vơ mà gây dựng nên biết bao nhiêu kiếp rồi, càng lâu ngày chừng nào thì những nền, những móng, những lầu đài kia càng to càng tác nó nhốt ta thâm thẫm không còn thấy mặt trời mặt trăng chi nữa, chớ còn trông gì mà về với Trời đặng, chớ có ai mà cứu vớt chúng ta được đâu. Ngục ấy là ngục tự mình làm rồi tự mình đóng cửa mà nhốt lấy mình đó thôi, chớ Trời có cho ai đóng nhốt mình đâu.
Vì vậy nên Trời mới mở Đạo Kỳ Ba này đặng dạy cho mình tự mình giải thoát lấy, cổi cho hết những món phàm tục đặng ra khỏi ngục thất kia đó thôi. Mà muốn cho thoát thì phải tỉnh mà nghe lời mới được. Trời rất thương chúng ta, vì chúng ta là con của Trời, nên Trời thấy chúng ta đã lâu đời vì mê tín nên phải bị luân hồi khổ hãi mà mắc vào lưới Trời rồi không về với Trời được.
Bởi bọn tả đạo bàn môn thấy chúng ta dốt nát quê mùa không thông Chơn Lý nên không về với Trời được, rồi chúng nó đặt điều ngục này ngục kia đặng dọa nạt chúng ta phải sùng phụng nó, vì vậy Trời thương xót chúng ta đã quá nỗi mê muội rồi, nên Trời phải mở Đạo mà chỉ cho chúng ta biết Chơn Lý Đại Đạo mà tự mình cứu lấy mình mà thôi, chớ Trời nào có cho ai lập ngục thất mà nhốt lấy ai mà phạt đâu. Hãy tự tỉnh nghe mà hiểu đặng tìm phăng cho thấy.
Trời mở Đạo dạy người thoát tục,
Trời nào cho đống ngục nhốt người;
Trời cho người tỉnh biết Trời,
Trời cho người biết đặng người tìm phăn.
Tôi đã giải cho trước rằng vì tại nơi các người bán Trời bán Phật kia gạt gẫm anh em chị em đã dư mấy kiếp rồi, rằng là hễ tuân theo giáo lý của họ thì được về thiên đường, bằng cãi họ thì sẽ bị sa địa ngục. Sao chúng ta quá khờ lắm vậy, sao chúng ta chẳng xét coi họ cũng là người như mình vậy, họ cũng là cha mẹ sanh đẻ như mình vậy, mà sao họ có tài gì mà cứu chuộc tội lổi cho mình được? Sao họ lại có được nhiều vị Thần Thánh cho họ sai khiến đặng họ cậy phải đem nhiều lời họ xin mà trao lại cho Trời Phật đặng tha tội lổi cho mình và cứu mình cho khỏi sa địa ngục? Mà những vị Thần Thánh của họ sai khiến đó là ai đâu mình có thấy không? Hay là cũng là đồ hình nộm, đồ hình gỗ, giấy vẽ của thợ mã bông; cũng là đồ in trong giấy tiền người thế kia mà họ đem ra đặng gạt chúng ta đó mà họ đặt tên rằng ông này ông kia? Còn Trời Phật nào đâu không biết, mà hình nộm này người thế kia, lại đem giấy tờ của họ đi mà chuộc tội lổi của mình đây? Có phải là họ bán Trời bán Phật ở đâu mà mình đây chịu gạt hay không? Có phải họ là một bọn đặt mối thầy kiện, mà thầy kiện ở đâu không biết thông ngôn, thầy kiện ở đâu không hay, mà mảng mình nghe tên ông thầy kiện đó hay giỏi rồi mình trao bạc không cho tên đem mối mà mình không hay không biết coi mặt mày ông thầy kiện có ừ hử gì hay không?
Người thế gian vì sao mà phải mướn thầy kiện? Là vì sợ có tội nên phải mướn người bào chữa cho mình. Nếu có tội thì là ai xử? Quan tòa xử. Biết sợ có quan tòa xử, nên phải mướn thầy kiện cãi lẽ, mà sao không đến tận mặt thầy kiện để bàn tính, lại nghe lời bợm đào mối nọ hâm dọa rằng phải bị án này, luật kia, rồi trao tiền cậy cho nó mướn thầy kiện giùm cho? Mà thầy kiện kia là ai? Là người thuộc luật đó. Luật của ai làm?
Luật của phép nước làm ra để trao cho quan tòa coi lấy đó mà xử những người nào có phạm vào đó thì phạt, còn ai không phạm thì thôi. Vậy thì Tòa xử là xử ai có phạm luật kìa chớ, còn nếu người không phạm luật thì Tòa nào có xử phạt chi đâu. Bằng người vô tội mà có kẻ nào xưng mình là thông ngôn trạng sư, hay là thông ngôn Tòa đến nói mình rằng là có tội, bảo phải chạy tiền chạy bạc đem nạp cho họ đặng họ mướn trạng sư cãi hộ cho khỏi tội, vậy thì mình có nghe lời họ hay không? Nếu nghe lời họ là mình là đứa ngu. Phải bắt quách nó đem nạp cho Tòa trị tội nó mới phải, chớ có đâu lại còn làm đầu đảng đem mối giùm cho nó mà có bà con mình cũng phải nạp tiền cho nó nữa? Mà trạng sư đâu không thấy, quan toà đâu cũng không hay, hỏi ở đời có ai ngu si mê muội đến bực đó hay không? Huống chi Nhơn Loại là con cái của Trời, Luật Trời là chí công vô tư, Trời sai chúng ta xuống phàm gian trao giồi Tâm Tánh giúp Trời hành Đạo, giúp tay Bàn Cỗ Tam Hoàng lập công đặng lập xong danh phận Tam Tài, vậy thì nếu chúng ta làm xong trách nhiệm thì trở về hớn hở nơi Ngọc Kinh, bằng làm chưa tròn trách nhậm, thì phải đời đời kiếp kiếp ở phàm trần hoài, ấy là bị Luật Trời phạt đó. Luật Trời đã phạt ai là người chẳng tuân Luật Trời, thì nó nào có cần phải đem mối mướn trạng sư, Thần Phật nào cãi lẽ được không? Nếu Trời cho Thần Phật nào cãi lẽ tâu rỗi giùm cho mình, thì chẳng là Trời ham hối lộ hay sao?
Thần Phật kia cũng ham hối lộ cho nhiều, nên sấm bọn tả đạo bàn môn làm thông ngôn đem mối hay sao? Có lý nào vậy hay không? Ở dưới Trời này có ai qua Trời được hay không? Có Thần Tiên Phật Thánh nào qua Trời hay không? Huống chi Thần Tiên Phật Thánh cũng là chúng ta đây. Mà ma quỉ tinh yêu cũng là chúng ta đây, vậy thì chúng ta còn cần phải nghe lời bọn dắt mối nào nửa, mà đi lo lót với ai cho được.
Bởi chúng ta đã lâu đời xa Trời quá rồi, nên bị bọn tả đạo kia giả dối gạt gẫm, rồi nó lại tự xưng rằng tổ của nó lại còn lớn hơn Trời nữa, nên hễ có đem hối lộ cho nó đặng cho nó nộp, nó thế cho tổ nó, thì khỏi tội, bằng không thì bị hạ ngục trầm luân, mà chúng ta cũng tin càng đi vậy, vì vậy mà Cha chúng ta là Trời đó mới mở Đạo Kỳ Ba này mà giải thoát cho chúng ta, nói rằng: Trời không có cho phép ai đống một cái ngục nào mà nhốt con cái của Trời hết, đừng nói chi tới 72 cửa, 18 từng. Trời để cho có một cõi Hồng Quan kia đặng lập công đó thôi; hễ ai lập xong công quả rồi thì về với Trời, bằng lập chưa xong thì phải bị ở đó hoài, ở nơi chỗ lửa nóng, nước sôi đó hoài, thì chịu lấy, chớ Trời không có cho ai đóng ngục nào nữa hết thảy. Trời bảo phải cho thoát kiếp mà về với Trời mà thôi.
Đã biết rằng Trời là chí công vô tư, còn bọn tả đạo thì lại dối gạt, dọa hẩm chúng ta hoài, vì vậy nên Trời Phải mở Đạo đặng thức tỉnh chúng ta, làm cho chúng ta thức tỉnh lại, cho tỉnh cái giấc mê dư muôn kiếp này, mê mang hoài mà quên Trời là Cha rất yêu dấu của chúng ta đó. Đạo Trời mở Kỳ Ba này có bao nhiêu đó mà thôi.
Đạo mở ra đặng kêu tỉnh chúng ta dậy đừng mê mẫn, mê hoặc, mê mang, mê mụi nữa, phải thức dậy mà nhìn mà coi, coi cái chỗ hồng trần này có phải là quê xưa cảnh cũ hay không, mà sao chúng ta cứ ngả ngớn vui chơi nơi đây hoài, đành quên cả sự nghiệp chức vụ lớn lao nơi Ngọc Kinh đi, đành nhìn nhận bọn bán Trời kia là lớn hơn Cha ruột của mình, đành đem Thân ngọc ngà châu báo này là Thân của Trời sấm cho, mà làm nô lệ cho kẻ phá danh Trời mà vui mà vẻ mà gọi rằng là Đạo Đức. Hãy thức tỉnh dậy mà nhìn lại Trời cho biết, hãy thức tỉnh dậy cho tỉnh táo mà nhìn lại Trời là Cha, là Cha rất yêu quí mà về với Cha. Có thức tỉnh mới có nhìn mà biết được, bằng mê mang sợ sệt lừ đừ hoài thì làm sao mà nhìn mà biết được. Song le Trời muốn cho mình tỉnh thì Trời nào có kêu gọi rằng mình là người quá mê muội rồi được đâu, nên Trời phải ban thánh huấn ra đặng kêu gọi cho có người thức tỉnh trước đặng thức tỉnh mình lại, vì Linh-Hồn là Con Một, song có kẻ bị Thần Hồn quá mê mà làm cho tối tâm, có kẻ Linh Quang còn sáng suốt nên đặng Trời thức tỉnh cho mau, cho sớm hơn, đặng Trời dạy trước, vì là con của thầy tuy có đứa cuồng ngông mê muội dạy dột mặc dầu, chớ cũng vẫn có đứa thông minh sáng láng dễ ăn dễ dạy, chớ có lẽ nào không đâu. Linh Hồn vốn có một đứa tỉnh được rồi thì các đứa kia dễ bề tỉnh hơn, như anh em đồng ngủ với nhau một chỗ, hễ có một đứa tỉnh trước được rồi thì kêu gọi thức giấc nhau dễ hơn là ông chủ kêu. Mà Trời kêu tỉnh ta đây đặng làm việc gì? Có chi lạ đâu, Trời kêu tỉnh ta đây đặng dạy chúng ta cho biết Chơn Lý đó thôi, vì Chơn Lý có Một, Đạo cũng có Một, Trời cũng có Một, chúng ta là Con cái của Trời cũng có Một mà thôi, có cần phải mướn trạng sư kẻ đem mối nào ở đâu xa mà giả dối xưng là Thánh Thần Tiên Phật nào nữa đặng gạt gẫm con cái của Trời đặn đâu. Chúng ta đây là Con của Trời, là Một với Trời, là Thánh Thần Tiên Phật hiện tại ở thế-gian đây, sao tự mình quá mê muội mà quên Trời đi? Cứ nhớ Đất hoài? Cứ nhớ quỉ hoài? Vì vậy nên ma quỉ mới gạt được đó. Trời thức tỉnh ta đậy dặng dạy cái Một đó. Cái Một đó là Một Căn, Một Cội, Một Nguồn với Trời đó, là Chơn-Lý đó. Hãy nhìn cho biết Trời, hãy tỉnh mà nhớ Trời, thì về với Trời được, đừng cậy ai, mướn ai, lạy ai cứu mình được đâu.
Mà ai Chơn-Lý rõ sâu,
Thì được về chầu Bạch-Ngọc cao ngôi
là vậy đó.
Trời đã thương nhơn loại quá ư mê mộng nên Trời đã cho có người sáng láng thông minh thức tỉnh trước rồi đặng chỉ trước cho biết đường đi nước bước cho biết Trời là đâu, Đạo là thế nào, Chơn Lý là làm sao, đặng kêu gào thức tỉnh chúng ta dậy cho sớm rồi, vậy thì chúng ta tuy chẳng phải là đồng thức một lượt, song le sự thức, sự tỉnh, sự biết của chúng ta ngày này đây cũng là nhờ Trời mới được, nhờ Trời mới có, nhờ Trời mới nên, vậy thì chúng ta phải biết Trời, ấy là Trời cho chúng ta biết Trời có vậy. Hễ đã tỉnh dậy rồi, thì chúng ta phải làm làm sao gọi là biết? Cho khỏi mang cái lốt tục nữa? Cho khỏi còn bị kẻ giả dối phờ phỉnh gạt lường lần nữa? Cho đặng gọi là con của Trời; đừng để cho mang tiếng là con hư lây xấu đến Cha.
Chẳng có chi lạ hơn nữa, là nếu chúng ta chẳng chịu thức, chẳng chịu tỉnh mà thôi, bằng chúng ta chịu thức, chịu tỉnh , chịu nhìn nhận cho biết Trời, chịu nhìn nhận biết có Một Trời là Cha, biết có Một Trời là Chúa Tể cả kiền khôn thế giái, biết có Một Trời là Ngôi Độc Nhứt vô nhị, biết có Một Trời là Đấng cầm quyền thưởng phạt chí công vô tư , biết có Một Trời là vô lượng vô biên, khoan hồng độ lượng, vô thỉ vô chung, biết có Một Trời là Đấng đã ban Linh Quang cho chúng ta xuống thế gian này đặng thay thế cho Ngài. Biết sợ có Một Trời là Đấng rất thương yêu chúng ta, vậy thì chúng ta phải cho tròn trách nhậm của chúng ta mà đối đãi lại với Ngài, mà trả ơn cho Ngài, mà đền đáp công ơn của Ngài, mà làm cho xong công việc của Ngài giao phó, vì chúng ta đều là tôi tớ của Ngài, là người tá canh của Ngài hết thảy, chúng ta chớ kiêu ngạo, chúng ta chớ ỷ mình chúng ta, chớ khoe khoan, chúng ta chớ gọi xác thân này là của chúng ta riêng, chúng ta chớ tưởng sự vinh hoa phú quí giàu sang này là của chúng ta tạo ra được, chúng ta chớ tưởng rằng con cái tôi tớ trong nhà của chúng ta mướn đó là của chúng ta mướn, mỗi mỗi sự vật chi của chúng ta có đây, chúng ta chớ tưởng là của riêng của chúng ta mà lầm, ấy là của Trời sấm, của Trời cho, của Trời ban phú cho chúng ta hết thảy đó, cho tới cái Linh Hồn chúng ta có nên mới biết khôn biết dại, biết phải biết quấy, biết lo biết lắng làm ăn đây cũng là Trời cho hết thảy, đừng gọi riêng của mình mà lầm, Trời muốn cho hay Trời muốn lấy lại đều do nơi quyền hành của trời hết thảy.
Vậy thì chúng ta phải biết:
Biết Trời do nơi Thánh Huấn của Trời đã thương đả dạy, đã chỉ biểu, đã nói cạn lẽ rồi, do theo đó mà tìm cho ra từ câu, từ tiếng, từ chữ cho hiểu nghĩa lý, rồi phải theo sự hiểu, sự biết của mình mà làm cho trúng ý Trời dạy, ấy là trúng Chơn Lý đó. Hễ nhầm Chơn Lý thì gặp được Đạo, gặp được Đạo là gặp được Trời, gặp được Trời nơi Tâm trước, rồi mới có thể làm Thánh Thần Tiên Phật được. Phải tìm ra Mối Chánh mà làm ấy là con Trời gập được Trời rồi vậy. Người biết Trời đó.
* * *
Vế số 2
Trời khuyên nhủ người tuân theo Đạo,
Trời khuyên người ráng tạo quả nhơn;
Trời khuyên công quả chớ sờn,
Trời khuyên phải nhớ Bốn Ơn chớ rời.
Chúng ta đã hiểu vì ý chi Trời mỡ Đạo Kỳ Ba này cho cõi Nam Thiệm Bộ Châu này rồi, và chúng ta cũng đã hiểu rằng Trời cho người tỉnh đặng biết Trời mà chỉ dạy lại chúng ta, dìu dắt lại chúng ta cho biết Trời và Chơn Lý, là Đạo chánh của Trời, chỉ bảo chúng ta khỏi luồn ma ách nó cám dỗ chúng ta mê mụi hoài, và Trời bảo chúng ta hễ đã biết Trời rồi, thì phải do nơi biết ấy mà dò, mà tìm mà kiếm, mà phăng cho ra mối khỏi còn sai lạc nơi đường tà nẻo vạy nửa.
Trời đã chỉ như vậy rồi mà trời còn e chúng ta không biết các mối chánh ở đâu mà tìm, mà phăng, nên Trời lại còn chỉ cho chúng ta như vậy nữa: hễ gọi là Con của Trời rồi, chịu nhìn nhận Trời là Cha rồi thì phải tuân, phải giữ, phải noi theo đường Đạo mà đi cho trúng đường. Chúng ta nếu ai muốn biết Đạo là chi, thì hãy dọc đi đọc lại bài Thánh-huấn của Đức Phù-Hựu thì hiểu rõ Đạo là chi.
Đạo có phải là chi đâu xa lạ mà không hiểu, song le ai có duyên muốn tìm Đạo như lời Đức Phù Hựu đã dạy thì mới thấy rõ không lầm không lạc, Đức Phù Hựu đã nói rằng: "Đạo của Trời lập ra dạy đời chẳng khác nào con Đường của vua đấp. Vua đấp đường là vụ cho dân biết đường mà đi cho đến chỗ đô thành của vua đã lập ra cho dân tựu tập thì chỗ ấy là chỗ chánh. Hễ ai biết nhằm con đường phải của vua đấp ra đó, thì đi nhầm chỗ của mình muốn đến, đi đến rồi thì phải tuân theo luật lệ của vua mà ở, phải giữ gìn sự trật tự của người thay mặt cho nhà vua cai trị, thì lo chi chẳng đặng bình an tấn phát".
Lời dạy của Đức Phù Hựu đã chỉ cho chúng ta ngó thấy rõ ràng trước mắt rồi đó. Đạo là cái đường đi, tỷ như cái đường đi của nhà vua cho phép đấp, cho phép tựu tập lại mà làm gia trụ, miểng là phải tuân luật lịnh cai trị của người thay mặt nhà vua mà ăn ở cho có trật tự thì là trúng luật, thì đặng bình an tấn phát, vì hễ ai trái với luật nước là sái với Luật Trời, mà Luật Trời tức nhiên là Luật Đạo vậy. Vậy thì ngày này chúng ta có duyên tìm Đạo thì hãy chọn coi chỗ nào có lịnh vua cho phép tựu tập lại đặng giảng Đạo lý, chỗ chánh của Trời đó, thì hãy đến mà lập gia trụ đặng làm ăn cho trúng Đạo, có đến nơi ấy mà tìm phăng, thì mới biết Đạo Trời là chi, đặng tuân theo mà giữ cho kỹ lưỡng; vì chỗ ấy Trời đã dạy cho người tỉnh rồi, thì nương theo người tỉnh ấy mà theo thì nào có lạc bao giờ.
Đức Phù Hựu cũng đã nói rằng: "Chúng ta, đường Đạo thì ngày này nghe nói chớ chưa thấy, có ai tuy thấy được chút ít, song chơn chưa bước đến được tới thềm, vậy thì làm sao mà biết được".
Nếu chúng ta chưa biết được thì hãy tin cậy nơi người đã biết đặng dìu dắt chúng ta chớ có chi đâu. Bằng chúng ta chẳng chịu nương theo người biết, vẫn cứ tự ỷ mình gọi rằng biết, rồi bước ra đường đi một mình, thử coi đến chừng sai lạc rồi trách ai được.
Đức Phù Hựu cũng đã dạy rằng: "Hễ người nào muốn xuất thân ra đi đường, thì trước hết phải cho có người thạo đường dìu dắt cho thì đi mới trúng, cũng đừng quá tin nơi mình biết coi nơi địa đồ, hoặc tin nơi mấy tấm thẻ dẫn lộ mà đi càn, nếu bị kẻ gian ngọt mật giết ruồi đánh lừa mà thâu hết vốn liến, đến chừng biết được thì ăn năn không kịp, chừng ấy mới tỉnh lại tiếc vì lúc trước ra đường ỷ mình là người thông minh, không cần người dẫn lối, tiếc như vậy có ích chi chăng?"
Cái vốn liến xác thịt này thì là tiền bạc nhà cửa ruộng đất, nếu bị chúng gạt thì chúng thâu chúng giựt hết vốn liến của chúng ta là vì chúng ta đi lạc, đi sái trên con đường đời.
Này chúng ta đi trên con đường Đạo mà chúng ta chẳng chịu tuân theo người đã thức tỉnh rồi, chúng ta ỷ mình là thông minh nên chẳng cần ai chỉ lối dẫn đường cho, cứ cho rằng tu là ăn chay niệm Phật vậy là đủ, hay là cứ đọc kinh xem sách mà làm theo cũng được, chẳng cần ai chỉ dẫn làm gì, làm vậy hoài thì nào có chi đâu mà gọi rằng lạc, mà gọi rằng hết vốn liến? Nhà mình mà mình lạc nỗi chi? Tiền bạc mình mình cất kỹ, có ai giựt được đâu mà hết vốn? Có ai cho ai vay hỏi gì đâu mà sợ chúng giựt mà gọi rằng là lạc đó. Lạc hoài, lạc đường đã mấy trăm kiếp rồi mà cũng còn chưa tỉnh, mà vẫn theo miếng cũ cứ đó mà cãi hoài. Dám hỏi: Vậy chớ chúng ta ở đâu mà đi đến đây? Đi đến đây làm chi mà không chịu trở về xứ sở? Cứ bịnh rịnh trên mặt đất này hoài? Tôi từng nghe mấy ông bà lớp xưa nói rằng: Sanh ký tử qui - Sống gởi thác về, ai ai cũng gọi vậy hoài, mà sao thấy lẩn bẩn ở hoài đây, ở hoài trên cõi hồng trần này, cho đến ông bà cha mẹ chúng ta, người nào qua đời rồi thì cũng còn xẩn bẩn còn ở đó với chúng ta hoài, nên chúng ta cứ cúng cơm đơm quả, ai đau ốm thì cúng lạy vái vang nồi chè, bữa giỗ, cơm canh, rượu thịt, cho họ ăn hoài, mà sao lại nói rằng về? Phải về được quê kiển rồi thì sao còn đòi ăn đó? Sao mình còn đây? Có phải là miệng nói sống gởi thác về, nhưng mà vì quên đường về nên còn ở đây hay không? Phải về quê kiển được rồi thì không còn đòi chúng ta nữa, mà chúng ta cũng phải cúng kiến mấy vị trước bằng cơm canh là đồ ăn xác thân này nữa.
Cớ chi mà lạc vậy?
Là quên mình là con của Trời. Cứ tưởng mình này là mình nên chẳng cần ai thức tỉnh chỉ dẫn cho là đi về, tự mình ỷ khôn rồi ra đường phải lạc.
Lạc rồi quây về, đáo lại chỗ cũ là trên mặt đất này nữa, đáo đi đáo lại nhiều lần chừng nào, thì Linh Hồn càng phải tối tâm, mù mịch chừng nấy. Luân hồi nhiều kiếp, ngu si càng nhiều, hóa ra cái vốn của Thầy ban khi xưa đã hết mà đến chết, tay không cũng vẫn tay không, như vậy chẳng phải là lạc, chẳng phải là mất vốn hay sao? Ấy là tại ỷ khôn, ỷ lanh, ỷ giỏi chẳng cần ai chỉ lối đem đường, mà dẫu cho có muốn có người chỉ dẫn cho nữa, là cứ nghe theo bọn ngọt mật chết ruồi kia, nó rù nó quến giọng quyển giọng đờn mà thôi, chớ nào có nghe theo đường chánh lẻ ngay mà chịu nhìn mình là con của Trời đâu, cứ gọi mình là kẻ đày đọa giam cầm trong 72 cửa ngục, nên phải nhờ cậy bọn kia vái van cho mới được tiêu được rỗi mà thôi.
Cho đến ngày này cũng còn nhiều người cũng vẫn tin tưởng như vậy hoài, vì vậy nên Trời mới nhắc cho chúng ta rằng: "Trời khuyên nhủ người tuân theo Đạo" là vậy đó. Hễ tuân theo Đạo rồi thì phải chọn con đường nào chánh đáng của Trời lập mà vào, phải coi chỗ nào của Trời qui mà đến. Lời nào của Thầy dạy phải nghe, hễ nghe thì phải ráng nghe cho rành, nghe rồi liền phải thi hành, thi hành thì chớ cãi canh méo tròn, được vậy mới là tuân theo Đạo cho.
Trời khuyên nhủ người tuân theo Đạo,
Trời khuyên người, ráng tạo quả nhơn;
Trời khuyên công quả chớ sờn,
Trời khuyên phải nhớ Bốn Ơn chớ rời.
Chúng ta đã biết Đạo, đã biết chỗ của Thầy qui rồi, chẳng còm dám cãi canh méo tròn nữa rồi, như vậy chắc được về Bạch Ngọc Kinh của Thầy hay không? Nếu chắc về được sao còn thấy dạy cầu siêu cầu hồn lăng xăng đó. Nếu không chắc về được với Thầy, vậy thì Thầy qui chúng ta về làm chi cho mất sự làm ăn? Để cho chúng ta ở theo đường đời, lo cho có danh có lợi, có tiền bạc của cải cho nhiều, dầu có bề gì đi nữa thì mượn người rổi người cầu cho, được hay không nào có chắc gì đâu, mà cái đời sống này lại được thong thả sung sướng, hơn là đi về với Đạo, đi về tại chỗ Thầy qui, tuân theo Đạo không dám cãi, mà còn phải lôi thôi không chắc gì hết, vì còn phải cầu siêu, cầu hồn lăng xăng như thế tục vậy? Vậy thì nào có ích chi cho chúng ta đâu? Chẳng có ích chi lại còn ép buộc phải về với Đạo làm gì? Đạo nào lại chẳng phải Đạo? Đạo nào cũng vậy, ai kia cũng xưng Chơn Lý vậy. Vậy thì làm sao cho biết chắc mới có thể tìm mà về mà tuân cho!
Chúng ta mảng có tánh ích kỷ đi hoài, cứ lo sợ mất cái sự sung sướng xác thịt đó nên bo bo tính lợi tính hại, cho tới Trời nói cũng chưa đủ tin. sao chẳng xét chữ của trọn vế, coi coi Trời nói làm sao, mới vừa nghe qua một câu mà đã vội bàn, vội so hơn tính thiệt, nếu vậy mà gọi là về với Chơn Lý là cái gì đâu mà vội xưng là Chơn Lý; chẳng thấy câu sao Trời nói rằng: "Trời khuyên Người ráng tạo Quả Nhơn", hễ tạo quả nhơn thì được đến Bạch Ngọc Kinh, chắc chắn trăm phần trăm, còn tạo nhơn quả thì luân hồi chịu lấy đừng trách.
Muốn biết quả nhơn là chi, nhơn quả là chi, thì phải ráng nghe kỹ rồi hiểu thêm lấy, chớ giấy vắn nghĩa dài, không lý viết cho hết được.
Một chữ Nhơn nghĩa là Người, là nhơn loại này, là người ta đây, còn một chữ nhơn nữa là cái nguyên nhơn tại làm sao nên mới sanh ra có cái kết quả thế nào; cũng như tại làm sao mà sang hèn, ấy là cái kết quả của cái nguyên nhơn lớp trước, ấy là nhơn quả đó.
Còn Quả Nhơn lại nghĩa khác. Quả Nhơn nghĩa là Người đặng kết quả rồi. Hễ người nào đặng kết quả rồi thì người ấy được chứng quả rồi. Hễ công quả rồi thì được về Bạch Ngọc Kinh rồi đó, có còn đâu ở dưới thế hạ này nửa mà tạo cái nhơn quả nào nữa đâu.
Bởi Người là Con của Trời, Người Trời Một Thể Một Ngôi, Trời sai chúng ta xuống thế hạ này đây đặng lập xong danh phận Tam Tài, hễ chúng lập xong hoàn toàn trách nhậm rồi, thì chúng ta dặng chứng quả, thì chúng ta là Quả Nhơn rồi, nghĩa là: Người mà đã đặng kết quả y lời của Trời sai rồi, vinh vang chi bằng. Nếu không đặng kết quả cho y theo lời Trời sai, mà vẫn cứ bo bo lo giàu, lo nghèo, lo sang, lo hèn, lo bề này thế kia ích kỹ cho mình thì là tạo nhơn quả đó, đời đời kiếp kiếp luân hồi theo cái nhơn qủa của mình đã tạo ra thì chịu lấy, như vậy biết bao giờ mà thành cho đến bực Quả Nhơn.
Bởi cớ ấy nên Thầy mới lập Giảng Đàn đặng qui con cái của Trời về môt chỗ, chỗ Trung Ương Thánh Tòa, đặng Thầy dạy cho chúng ta hiểu rõ Tôn Chỉ vì sao mà Trời mở Đạo, dạy cho chúng ta biết Đạo, cho biết Chơn Lý và lập Cao Thiên Đài thay thế cho Bạch Ngọc Kinh hữu hình nơi thế gian này cho chúng ta ráng lo mà tạo cho đặng Quả Nhơn, đừng cho trôi nổi linh đinh bập bều nữa mà vương lấy nhơn quả thì chịu lấy. Hễ Con của Trời mà còn đường đời, vướng đường đời, thì làm sao cho khỏi nhơn quả đặng.
Chúng ta là Con của Trời, Trời dạy Trời khuyên, mà Trời cũng chẳng biết chúng ta không nghe đâu, vì vậy nên Trời nói: Trời biết chúng ta hay ngỗ nghịch nên Trời khuyên phải ráng. Hễ Quả Nhơn thì đặng về Bạch Ngọc Kinh với Trời, còn ai không ráng thì chịu lấy.
Còn những kinh kệ cầu siêu, cầu hồn kia là để dành cho những người không ráng đó, vẫn ỷ mình biết, tưởng trăm ban vạn sự ở chỗ đời này là cái tài hay tri giác của mình làm ra đặng, nên mấy lúc như vậy khoe khoan kiêu ngạo, không biết không nhớ đến Trời. Một ngày kia lỡ chơn ruổi bước, hoặc là bịnh họan vô phương rồi, khi ấy mới biết mới nhớ lại đến Trời mà kêu, thì dùng lấy kinh kệ ấy đặng thức tỉnh linh quang cho họ lại cho nhớ nguồn nhớ cội; mà nhớ hay quên, nhớ thiệt hay nhớ giả, cũng đều tại nơi họ chịu ráng hay không mà thôi, chớ chúng ta sao biết được! Chúng ta có quả quyết rằng dùng một vật nào đặng đưa cho họ về Bạch Ngọc được như mấy bọn sải dùng ngọn phan lá phướng rằng đưa họ được về Tây Phương.
Chúng ta có một cái hết lòng cầu cho họ siêu mà thôi, chớ chúng ta có làm chi được: Bởi những người như vậy cũng là Con của Thầy, nên Thầy phải để lời nói của thầy lại cho chúng ta, nếu gập ai còn nhớ đến Trời thì đam những lời ấy ra mà nhắc nhở lại cho họ, phổ độ cho họ mau mau thức tỉnh, vì là lời của Ông Trời để lại có lẽ họ mau nghe hơn. chớ chúng ta cũng là người như họ vậy, cái lời nói của chúng ta là lời nói phàm thức tỉnh ai nỗi, cái lời nói này có một ai rủ ren rù quến làm việc phàm thì mau lọt vào tai người phàm mà thôi; vì vậy nên Trời phải để lời nói của Trời lại mà thức tỉnh cho ai là người biết tội lổi mà kêu đến Trời thì Trời sẻ nhứt định. Vậy chúng ta ai đã chịu ráng rồi, thì hãy mau mau tạo cái Quả Nhơn đi.
Muốn tạo cái Quả Nhơn thì phải làm thế nào cho được! Biết được thì ráng mới được chớ. Hảy xem câu sau thì rõ.
Muốn ráng cho được chứng vị quả nhơn thì nào có khó chi; "Trời khuyên Công Quả chớ sờn". Đó, hãy ra công đi, hãy ráng công đi thì được quả chớ có chi đâu lạ.
Làm sao gọi ráng Công? Muốn biết làm sao gọi ráng Công thì phải cho hiểu chữ Công, chớ không phải đi làm công đó vậy mà gọi rằng công đâu. Công nghĩa là việc chi làm phải ra sức, mà việc nà ra sức làm cho được kia, mới gọi rằng là Công. Hễ việc khó nhọc ra sức làm cho được, thì thấy nó có Công Hiệu, vì vậy nên gọi là Công. Hễ có Công Hiệu thì thấy có Kết Quả. vì vậy nên gọi là Công Quả, chớ không phải như mấy anh đi đến chùa nói rằng công quả đó đâu!
Hỏi mấy anh đó có ra sức làm việc cho có cong hiệu, cho có kết quả hay không, mà gọi là Công Quả? hay là đến cho có mặt, cho có đếm đầu người đặng đếm ngày? Ai có ra sức thì được gọi là Công, mà ra sức cho có kết quả mới gọi là Công Quả. Cũng chẳng khác chi mấy người muốn cho có danh với đời. thì phải ra sức học cho thành tài, ra sức thi khóa cho đậu, thì mới có danh với đời, người ấy là người chuộng vào công danh đó, không có ra sức làm sao có danh được.
Còn chúng ta đều là người tu hành, muốn cho chứng quả đặng làm quả nhơn nên phải ra sức vào việc tu hành cho có công đặng kết quả hết thảy.
Muốn ra sức đặng đáng đứng địa-vị gọi rằng Công thì nó còn phải có nhiều bực tùy theo địa-vị của mỗi người phải làm, song le địa vị nào cũng vậy mình phải tự mình xét lấy, tùy theo tài lực của mình miễn là mình phải cho hết sức của mình mà thôi, miễn là có công hiệu, thì làm sao cũng có kết quả đặng; mỗi người lo tròn phận sự cho tròn trách nhiệm của mình thì ráng lấy cho có hiệu quả, hiệu nghiệm đừng có sờn lòng rủng chí nữa, đừng thối chí mà uổng công phu công trình rồi mất công đức, công nghiệp, công dụng, công năng, công lực của mình thì khó gọi công quả.
Trời khuyên nhủ người tuân theo Đạo,
Trời khuyên người, ráng tạo quả nhơn;
Trời khuyên công quả chớ sờn,
Trời khuyên phải nhớ Bốn Ơn chớ rời.
Tự bấy này đem thân ra gọi là đi tu mà cũng chưa hiểu tu là chi, nói rằng đi công quả làm công quả, mà cũng chứ hiểu công quả là gì. Này nghe hiểu rõ Công và Quả là hai việc, nghĩa là phải ra sức làm cho có công hiệu cho đặng kết quả thì mới gọi là Công Quả, mà trong những việc làm cho có công có quả đó, phải Nhứt Tâm gắn bó làm cho có kỷ cang, đừng có sờn lòng thối chí kỳ cho thấy đặng mới thôi thì cái quả kia mới thật là kết quả cho.
Song le đã đem thân ra gọi là người tu thì việc đời không phải là bỏ tuyệt như nhiều kẽ gọi rằng là bỏ đời theo Đạo vậy đâu. Người mà gọi rằng là bõ đời thì làm sao mà gọi rằng theo Đạo cho đặng?
Đời ấy ấy của ai dựng ra đó? Đạo này là của ai tạo lập ra đây? Cũng đều là của Trời tạo ra cho cả thảy chúng sanh do nơi đó mà lập cái thân này, mà nuôi lớn cái xác thân này, có lẽ nào bỏ bên này đặng theo bên kia bao giờ. Người đi tu mà không có đời thì sao gọi rằng là đi tu cho đặng. Ai tạo lập ra, ai nuôi dưỡng, ai dạy dỗ cái thân này cho có ra đây đặng mà đi tu, rồi đi tu gọi rằng là bỏ đời đi! Người đã phụ rãy đường đời có đáng gọi là Người Ta không? Không Người sao có Ta? Không Ta sao có Người? Vậy thì Đời với Đạo cũng là Một, có Đạo mới nên Đời, có Đời mới lập Đạo đặng. Vậy thì người nào hiểu Đạo, người và tuân Đạo, người nào nhìn nhận rằng mình là con của Trời, Người của Trời sai xuống thế gian này đặng lập cho xong danh phận Tam Tài, thì cũng phải biết rằng cả thảy thế gian kia đều là vật cuả Trời, đều là anh em ruột thịt một nhau rún với mình mà có lẻ nào mà mình bỏ đi mà theo Đạo nào? Có Đạo nào dạy vậy đâu?
Đời thuộc về phần vật chất. Đạo thuộc về phần Thiêng Liêng. Đời thuộc về xác thân, Đạo thuộc về Linh Hồn. Đời là Người, Đạo là Ta, v.v...
Có vật chất mới có chỗ Thiêng Liêng mượn mà hành sự, có xác thân mới có chỗ cho Linh Hồn tạm vào mà làm phận sự; có Người mới có kẻ giúp ta, vậy thì Ta phải nhớ Người, Linh Hồn phải cậy xác thân, Thiêng Liêng phải cậy vật chất, hai vật này như hình với bóng, không đặng thiếu sót, không đặng có vật này mà thiếu vật kia, nếu trong thân vật mà thiếu đi môt vật thì vật nào đó là vật chết rồi, vậy đừng ai gọi rằng xã thân cầu Đạo mà lầm, đừng ai nói bỏ đời theo Đạo mà hại, song le đã gọi là người đi tu rồi mà còn quyến luyến hồng trần, mê mẫn theo đời thì không đặng. Tuy biết rằng không đặng rời bỏ đời, nhưng trong phần đời ấy còn phải có bốn phần liêng-cang, dính dấp, còn phải cho người đi tu phải nhớ đến hoài, phải lo đến hoài, không đặng giây phút quên ơn bốn phần ấy.
Nếu gọi rằng là đi tu, mà quên bốn phần ấy thì làm sao gọi rằng là người đi tu cho đặng.
Bốn phần ấy là chi? Ấy là bốn phần gọi rằng là đại ân nhân của người đi tu đó, còn đương ở nơi vòng đời, chưa có rỗi rảnh mà đi tu cho đặng. Nay chúng ta đã đi tu rồi thì phải lo phải nhớ đến bốn bực người đó lo về phần đời nên chúng ta mới rảnh rang đặng lo phần Đạo mới đặng. Vậy chúng ta phải khắn khích gắn bó hoài hoài đừng quên bốn bực ấy mới gọi là người chân tu.
Bốn bực người gọi là ân nhân ấy là ai? Là:
Cha Mẹ
Chúng Sanh
Người Trị Nước
Người đứng vào hàng Tam Bảo
Bốn hạng người này còn có ở đường đời song có tình liên lạc với chúng ta, nhờ có bốn hạng ấy nên chúng ta đã đặng rảnh rang phần đời mà đi tu vì vậy gọi là đại ân nhân chúng ta đó.
1. Phần thứ nhứt là Cha Mẹ, tuy trong ấy gọi là Cha Mẹ song trong ấy gồm đủ cả ông bà cô bác thân tộc họ hàng của chúng ta ở trong này khỏi giải cho tốn giấy, chắc anh em tự nghỉ lấy cũng đủ hiểu.
2. Phần thứ hai là chúng sanh. Bực này gọi là đại ân nhân của chúng ta đó. Hãy nghe kỹ xét kỹ mà cám ơn bực này cho lắm đó. Nhờ có cái hạng chúng sanh trước mắt, chúng ta biết Đạo là quý, Đạo là trọng, nên mới để lòng vào tìm Thầy, tìm Chơn Lý đặng thóat vòng chúng sanh mà vế với Đạo đặng, nếu không có hạng chúng sanh thì chúng ta nào có biết lấy chi làm gương, lấy chi gọi là cực khổ, lấy chi gọi là xấu hổ đê tiện, lấy chi gọi là trầm luân đặng sợ đặng lo đặng tìm kiếm Đạo mà sửa mình cho tấn hóa đâu! Nói tắc là nhờ chúng sanh đó họ làm gương xấu, gương đê hèn, gương quấy, gương tội lổi, v.v... cho chúng ta ngó thấy mà tránh đặng đừng có bước vào con đường đó là con đường phải bị luân hồi đời đời kiếp kiếp, nên chúng sanh đó là ân nhân của chúng ta vậy.
3. Phần thứ ba là ơn người cai trị nước, cái ơn này không giảng ra chắc anh em cũng phải hiểu rồi, nếu không có người cai trị trong nước cho thái bình thì chúng ta làm sao mà tu cho yên, ơn này lớn biết bao. Chớ nghịch mạng lịnh của người cai tri nước, làm rối loạn trật tự của người cai trị mà mang tội lổi với Trời. Ráng nhớ cái ơn này cho lấm lấm. Đừng tin càng tưởng vơ nghe theo lũ chòm ông xóm kiến mà nghịch Mạng Trời.
Vì người cai trị nước là có vưng lịnh của Trời sai mới cai-trị một nước đặng. Nghịch mạng người cai trị là nghịch mạng Trời đó. Dẩu cho người nào có Lịnh trên sai cai tri một xóm một làng cũng còn không dám nghịch mạng người ấy thay, huống chi người cai trị một nước.
Ơn của người cai trị trong nước nặng nề lắm vì phải đủ điều mà nuôi sống cho cả nhơn dân, lo cho đặng thái bình thạnh trị, ơn ấy vô cùng là lớn. Phải để lòng mà nhớ ơn ấy hoài hoài, nếu quên thì phải người gọi là tu theo Chơn Lý, không đặn gọi là con của Trời. Phải nhớ! Phải nhớ!
4. Ơn của người đứng vào hạng Tam Bảo. Tam Bảo có nhiều hạng, phải cần giải nghĩa riêng mới rõ đủ. Đây xin giải một cạnh sơ sơ danh hiệu vào bực chót bực thấp mà thôi. Sau có giờ rảnh sẽ giải thêm.
Người có lòng dưng hương phụ trợ, phụ cấp cho chùa, v.v... đều gọi là người đứng vào hạng Tam Bảo, vì vậy nên mới có tiếng gọi của chùa là tam bảo đó, ai đi dưng cúng cho chùa đều gọi là người tam bảo. Vật chi cúng chùa đều gọi là vật tam bảo. Của trong chùa đều gọi là của tam bảo. Ấy là về phần nhỏ nhít hữu hình đó, còn nhiều nữa, phần vô hình nữa, phải cần có ngày giờ mới giảng đủ.
Muốn thành đặng gọi là người tu-hành trưóc phải cho có công quả, kế đó phải nhớ khắn khích bốn ơn mới đặng.
Còn muốn cho đặng bực Phật như Thích Ca phải có Mười Ơn mới trọn.
Huống chi chúng ta này là người tu hành là học làm Trời, phải cần ít nữa là trăm ơn, ngàn ơn, muôn ơn cho khắn khích, vì vây nên Thầy mới có câu:
"Trời khuyên phải nhớ bốn ơn chớ rời."
* * *
Vế số 3
Trời đã dạy nhớ Trời Độc Nhứt,
Trời khuyên người tuyệt dứt phàm tâm,
Trời khuyên ráng học ráng làm,
Trời khuyên người chớ tin xàm tưởng vơ.
"Trời đã dạy nhớ Trời Độc Nhứt"
Hỏi: Trong một câu này mà có hai chữ Trời, là vì ý chi vậy? Trời nào đã dạy đó? Đã có Trời dạy rồi mà còn lại dạy phải nhớ Trời nào nữa? Đã gọi rằng Trời, mà lại còn gọi có "Trời Độc Nhứt" nữa! Nghĩa là "Ngôi Trời có Một không hai", nếu vậy chẳn là Trời có nhiều Ngôi lắm hay sao? Bởi Trời có nhiều Ngôi nên mới có Ngôi Trời tương đối, vì có Ngôi Trời tương đối nên mới có Ngôi tuyệt đối, hễ có Ngôi tuyệt đối nên mới có Ngôi Độc Nhứt vô nhị (có một không hai); cũng như trong câu này mà phải có đến hai Ngôi Trời hay sao? Có một Ngôi dạy đặng nhớ Ngôi Độc Nhứt kia. Vậy thì Ngôi dạy này là ai? Cái Ngôi Độc Nhứt kia là ai? Mà hễ nhớ cái Ngôi Độc Nhứt kia rồi, thì cái Ngôi dạy này phải làm sao? Lại còn một phần nữa là: đã nói Người là con của Trời, "Người Trời một Thể một Ngôi": vậy chớ Trời đó lại là Trời nào nữa? Xét đi xét lại, sao nghe Trời có nhiều quá vậy?
Đáp: Trời vốn có Một Ngôi chớ nào có nhiều, Ngôi Một ấy là Ngôi Độc Nhứt vô nhị, Chí Bửu Chí Tôn vậy. Nhưng chẳng phải nói rằng có Một, rồi Một Ngôi đó trơ trơ trọi trọi đó vậy gọi rằng là Ngôi Một đâu! Trời là Sanh Hóa, Trời là sự Sống thiêng liêng của cã kiền khôn vũ trụ, vì vậy nên Trời không biết bao nhiêu mà đếm cho xiết. Tuy vẫn rằng nhiều, song le trong những Ngôi ấy, tóm tắc lại có ba phần gồm trọn đủ cả thảy mấy trăm vàng ngôi kia. Hiểu đặn Ba Ngôi này rồi, thì còn phải thâu rút lại còn Một Ngôi Một mà thôi, vì có Một Ngôi Một này mới có Ba Ngôi kia, có Ba Ngôi kia mới có Sanh Sanh Hóa Hóa ra muôn vàn Ngôi khác, bao trùm cà kiền khôn thế giái mà đều đặng có sự Sống như nhau. Cái Ngôi Một ấy là Ngôi Độc Nhứt vô nhị vậy; ấy là Ngôi Chí Bửu Chí Tôn đó, ấy là Ngôi tuyệt đối đó.
Muốn biết sự Sanh Hóa của Ngôi Trời Độc Nhứt, thì phải hiểu câu Thánh Giáo bài sơ giảng học đường của Thầy đã giảng ra một tia Chơn Lý ra cho chúng ta rồi. Thầy đã dạy chúng ta suy kỹ nghiệm cang cho biết rồi, song vì lòng chúng ta quá vọng quá lo ích kỷ , quá lo tự tôn tự đại, nên đọc rồi bỏ qua, kẻ ỷ mình biết cửu cửu bất nhứt chi đó đem ra nói om sòm, rồi gọi mình là giỏi; người biết thái cực lưỡng nghi tứ tượng bác quái gì đó, rồi đem ra cãi lẩy rầm rộ, có kẻ lại nhứt nhi tam, tam hiệp nhứt, rồi bày dặt tam gian hiệp nhứt vấy vá phá rối Đạo Trời, mạnh ai nấy cãi, nấy chia phe phân phái, chớ nào có ai chịu suy kỷ nghiệm cang như lời Đức Chí Tôn đã trân trọng dạy dỗ khuyên lơn đó đâu!
Hãy đọc lại cho kỹ và suy xét cho cùng, và hãy đọc Thánh Huấn của Đức Phù Hựu câu "Người không lúa thì Người dâu còn, cũng như Trời không Người thì Trời nào có; nhưng mà lúa ấy phải nhờ có Người mới có, cũng như nhờ Trời mà ra vậy."
Xin anh em lớn nhỏ, hãy ráng suy nghiệm bài Thánh Huấn sơ giảng học đường của Đức Chí Tôn cho kỹ, và dọc cho chín chắn bài Hột Lúa của Đức Phù Hựu nơi ấy cho tin tường rồi trước đi, khi ấy tôi và anh em sẽ trao đổi ý kiến lại mà tìm cho ra nghĩa lý câu: "Trời đã dạy nhớ Trời Độc-Nhứt", đặng cho biết coi mấy Ngôi Trời kia là Ngôi nào, còn Ngôi nào dạy đây, Ngôi Trời Độc Nhứt là Ngôi nào, Ngôi con cái của Trời ấy là ai, Ngôi hiệp nhứt với Trời ở đâu, v.v... mà tìm chớ, cho thấy Đạo của Trời.
Tôi chẳng phải chẳng chụi đem ý kiến của tôi ra trước đây đặng giảng cho anh em rõ. song câu Thánh Huấn này, câu Trời đã dạy nhớ Trời Độc Nhứt đây, ấy là một câu tóm tắt Con Đường Chánh cho chúng ta phải biết mà tìm đó, ai chụi ra công khảo cứu thì thấy, bằng ai bỏ qua thì chụi lấy.
Tự bấy này, từ khi có bài sơ-giảng đến bây giờ, không thấy ai chịu suy kỹ nghiệm cang như lời Thầy đã dạy, mà thầy là Đại Từ, Thầy cũng đã nhắc lại nhiều lần rồi, như nhắc câu:
"Phải tin cậy Một Trời Độc Nhứt,
Phải ân cần tuyệt dứt phàm tâm"
hai câu ấy có khác chí câu này dâu:
"Trời đã dạy nhớ Trời Độc Nhứt,
Trời khuyên người tuyệt dứt phàm tâm";
hai câu vốn là Một, mà khác chỗ dạy thôi, vì tự bấy này không ai chịu khảo cứu, tới ngày này muốn đem ý kiến của tôi ra phô bày cho anh em xét, song nghĩ vì lời Trời dạy anh em còn bỏ qua thay, huống chi là tôi nói mà ích chi với anh em đâu!
Vậy cúi xin anh chị em, ai là người chịu đọc chịu học, chịu suy kỹ nghiệm cang, chịu tra xét lời Đức Phù Hựu dạy, chịu đem lòng tìm cho ra Mối Đạo, chịu đem lòng xét cho thấy ngọn đuốc Chơn Lý, thì khi ấy chúng ta sẽ hiệp nhau lại mà trao đổi ý kiến câu này mà thôi.
Còn nữa, mà chưa biết ngày nào.
Còn đợi bạn tri âm sẽ khải khúc cầm Chơn Như.
Đức Tổ Sư Hổn Ngươn Thiên Sư Chưởng Quản
(1936)