Lấy lý mà luận, thì trước lúc Trời Đất chưa có, ắc phải có một cái Ngươn Khí Tự Nhiên hư hư vô vô không thể nào mà thấy biết được. Cái Ngươn Khí này có thể thay đổi biến hóa được nên gọi là Khí Thái Diệc (nghĩa là cái hơi rất thay đổi), chừng cái Khí Thái Diệc ấy có hơi dường như hơi mới ngúng, rồi có thể phất phơ phơ phất được, thì gọi là Khí Thái Sơ (nghĩa là cái hơi rất mới sơ khởi ban đầu). Đến lúc Khí Thái Sơ nầy có hình bóng được (nghĩa là nên được một cái hình bóng rồi), thì kêu là Khí Thái Thỉ (nghĩa là cái hơi bóng rất mới có đầu tiên trước hết). Kịp lúc Khí Thái Thỉ nầy có thể có được khí chất và tánh chất rồi (nghĩa là có mùi và có bản tính rồi), thì gọi là Khí Thái Tố (nghĩa là caí hơi rất trắng). Cái Ngươn Khí Tự Nhiên hư hư vô vô ấy đã trải qua bốn lớp thay đổi là Thái Diệc, Thái Sơ, Thái Thỉ, Thái Tố, thì nó đã đủ có Khí, Hình, Chất rồi, song có mà mới tượng ra mà thôi, đến chừng hiệp được cả ba món mới tượng ra đó làm Một thì kêu là Khí Thái Nhứt (nghĩa là cái Một rất lớn).
Từ trong lúc Thái Diệc cho đến Thái Nhứt đây, trải qua biết bao nhiêu sức đổi thay mới nên, thì trong ấy phải có một vị Chủ Nhơn Ông đứng ra làm Chủ Tể mới xong, mà vị Chủ Tể nầy phải cho rành Đạo Lý thì mới lập thành, bằng không thì làm sao cho nên. Người ấy tức là Đức Chí Tôn đó, nên trong Đạo cũng kêu là Thái Nhứt Thiên Tôn.
Trong thời kỳ này cũng gọi là: "Vô Cực Tiên Thiên Ngươn Khí" đó (nghĩa là cái Khí đầu bài lúc trước khi dùng làm trời mà không có chỗ cùng tột). Cái lớp Thái Tố ấy, cũng có thể cho chúng ta định rằng Bạch Ngọc Kinh là đó, vì nội các bộ phận trên Trời thì chỗ nầy là rất trong sạch, rất trắng trẻo, rất nhẹ nhàn và là chỗ sản xuất các tinh ba sanh ra vạn loại cho Võ Trụ ngày sau.
Cái Khí Thái Nhứt đến lúc tượng nên hình thể rồi, thì gọi là Khí Thái Cực. Trong Khí Thái Cực thì đã có đủ Trời Đất muôn vật rồi, song hãy còn lộn lạo chưa có thể chia ra cho phân biệt được, nên cũng kêu là Khí Hồng Mông, hoặc là Khí Hỗn Độn, hoặc kêu là Khí Hồn Lôn, đều nghĩa là một cái khí còn mờ mờ mịch mịch lộn xộn đó vậy. Tuy vậy, song Khí Thái Cực nhờ có sức Động và Tịnh nghĩa là cái sức chuyển động day trở và cái sức êm lặng đầm thấm, nên lâu ngày mà tạo thành ra Trời Đất muôn vật được. Cái sức Động đó, nhờ có hơi Âm Nóng và tánh Cang Kiện (cứng cõi mạnh mẽ) mà sanh ra, nên kêu là Dương, còn cái sức Tịnh đó, nhờ có hơi Mát Lạnh và tánh Ôn Thuận Nhu Hòa (mềm yếu thuận hòa) mà sanh ra, nên kêu là Âm; nên có câu nói rằng: Thái Cực động nhi sanh Dương, tịnh nhi sanh Âm, động cực nhi tịnh, tịnh cực nhi động. Âm trung hữu Dương, Dương trung hữu Âm, v.v. (nghĩa là Khí Thái Cực động mà sanh khí Dương, tịnh mà sanh khí Âm. Hết sức động rồi tịnh, hết sức tịnh rồi động. Trong khí Dương cũng có khí Âm, mà trong khí Âm cũng có khí Dương).
Nhờ có sức Âm Dương Động Tịnh đó, nên Khí Thái Cực lâu ngày mới lọc rút được ba cái Khí, Hình, Chất của Thái Sơ, Thái Thỉ, Thái Tố đặng chia ra cho phân biệt, thứ nào nhẹ nhàn thì bay ra phía trên gọi là Trời, còn thứ nào cứng đặc thì lóng lại phía dưới gọi là Đất. Tuy nói rằng trên dưới cho dễ nghe tùy theo con mắt chúng ta thấy Trời ở trên, Đất ở dưới nên phải nói vậy, chớ Khí Thái Cực vốn là cái bọc tròn, nên hễ cái hơi nào nhẹ nhàn thì bay ra đóng ở chung quanh phía ngoài, kêu là Trời, còn cái nào nặng nề bay ra không được thì phải lóng lại ờ chính giữa cái bọc đó mà thôi, thì gọi là Đất. Trời bao bọc chung quanh, trái Đất ở chính giữa là vậy đó. Cách từ mặt nặng nề trái Đất cho đến tột bực nhẹ nhàn của khí Trời, thì ở giữa lại còn không biết bao nhiêu là bụi bặm không nặng không nhẹ ở lương khương nơi khoản đó nữa, đợi đến chừng lọc lóng cho xong rồi sẽ sanh sanh hóa hóa ra, con mắt chúng ta không thể định biết được mà cũng chẳng ngoài cái phạm vi như đã nói trên.
Cái Khí Động Tịnh Âm Dương của Khí Thái Cực đây, cũng gọi rằng "Thái Cực Hậu Thiên Ngươn Khí" vậy. Nghĩa là đầu bài rất lớn mà có chỗ cùng chỗ tột lúc sau khi dùng đặng dựng nên Trời.
Đã biết Khí Thái Cực tuy nhờ có sức vận động của Âm Dương, song trong cái sức của Âm Dương đó cũng có Ngũ Hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nữa, vì Ngũ Hành này nó cũng đã có rồi trong lúc Vô Cực, nó ở nơi Khí Thái Thỉ, Thái Tố mà ra, vậy nên nói rằng Âm Dương Ngũ Hành.
Khi hai Khí Âm Dương đã tách được ra rồi, phần trong nhẹ ấm nóng thì bay bỏng ra vòng trên làm Trời, phần đục nặng mát lạnh thì đọng lại ở dưới làm Đất, thì phần Trời đó gọi là Càng, phần Đất đó gọi là Khôn nên mới có tiếng gọi Càng Khôn Thế Giới.
Trong lúc phân biệt Âm Dương lập thành Càng Khôn Thế Giới nầy, cũng phải có một vị nào đứng đợt ra đặng gầy dựng cho có lớp lang thứ tự, khỏi lộn xộn rối ren chớ chẳng lý không ? Cái vị ấy tưởng cũng chẳng có ai đâu lạ hơn cái vị đã gầy dựng ra cái Vô Cực Tiên Thiên Ngươn Khí khi trước đó, cũng là Đức Chí Tôn. Bởi Người sơ khởi lúc trước nên gọi Người là Chúa Tể Càng Khôn.
Bởi Người sắp đặt từ trên Trời cho tới dưới Đất, mỗi việc đều có trật tự không một mảy nào xâm phạm đụng chạm nhau, thật rất kỹ cang khéo léo, thật đáng làm một Tay Thợ dựng nên Trời Đất, nên cũng gọi Người là Tạo Hóa Công (nghĩa là người thợ tạo lập sự Sanh Hóa của Càng Khôn Võ Trụ).
Trong công cuộc của Người lập Càng Khôn Võ Trụ đây thì Người phải có một cái mục đích chi cho rất xứng đáng vững vàng kỹ cang chắc chắn cho lắm, Người tạo ra mới được chớ chẳng không ? Cái Mục Đích đó rất phẳng lặng, rất êm thấm, rất im liềm mà Độc Nhứt chẳng hề thay đỗi, vẫn cứ theo đó mà đi tới hoài chẳng hề khi nào mệt mỏi trễ nải chúc nào, nhờ đó nên làm cái khuôn cái mẫu mà lập ra thế giới này mới được. Cái mục đích đó từ thượng cổ nhẩn sau không ai biết được mà đặt tên nó là cái chi, duy có một mình Đức Lão Tử tìm được cái mục đích đó, mà cũng không biết tên gì, nên đặt tên nó là cái Đạo, mà vì nó lớn quá nên ráng thêm một tên nữa là Đại, hiệp lại cho có tên mà kêu cho tới ngày nay; kêu nó là Đại Đạo. Ấy là một cái tên của Đức Lão Tử đặt ra trước hết cho có tên mà kêu đặng dễ bề hiểu, mà ai ai cũng đều công nhận đặng tiện công việc phân giải những cái Lý nhiệm mầu của Đức Chí Tôn đã làm chúng ta phải học, đặng theo đó bắt chước mà làm cho đúng bực Người Ta, vì Người Ta đứng vào Ngôi Tam Tài. Thánh Ngôn có câu:
"Tu hành là học làm Trời,
Phải nào kiếp kiếp làm Người thế gian".
Bởi vậy nên chúng ta phải học cho kỹ cho rõ mà phân biệt chánh tà đặng tu cho nhằm Đạo của Thầy; vì Đạo nghĩa là Con Đường mà Đại Đạo là Con Đường Cái, hễ đi nhầm đường thì khỏi lạt khỏi mất ngày giờ, còn Tu nhằm Đạo thì mau về cựu vị đặng hiệp Một với Thầy. Ấy học làm Trời là vậy đó.
Đã gọi rằng Đức Chí Tôn dùng Đại Đạo làm mục đích đặng lập ra Võ Trụ Càng Khôn Thế Giới, vậy thì trong cái Đạo ấy nó phải có một cái Lý cho tuyệt đối chẳng hề thay đổi mới được, bởi vậy nên hễ nói tiếng Đạo thì liền có hiệp tiếng Lý vào, nên kêu là Đạo-Lý. Cái Lý ấy là chi ? Ấy là Chơn Lý đó.
Chơn Lý là chi ? Ấy là Chơn Thiệt Chi Đạo Lý vậy, nghĩa là cái Lý Đạo rất chắc chắn thiệt thọ không sai, không quấy, không giả, không dối vậy.
Trong sách nho cũng có câu: "Đạo giả Thiên Lý chi đương nhiên" nghĩa là Đạo là cái lẽ của Trời phải làm tự nhiên như vậy.
Lại cũng có câu: "Thiện dĩ Âm Dương Ngũ Hành hóa sanh vạn vật, khí dĩ thành hình, nhi Lý diệc phú diên"; nghĩa là Trời dùng khí Âm khí Dương và Năm Hành đặng hóa sanh muôn vật, dùng cái Khí đặng cho nên hình vóc, mà cũng có phú cho một cái Lý ở trong vậy.
Dùng đó mà xem, thì thấy rõ hễ có Đạo là có Lý vậy, lại hai vật nầy không rời rã nhau ra được. Đấng Tạo Hóa đã dùng Ngươn Khí đặng lập Càng Khôn Thế Giới, trong Ngươn Khí phải có Chơn Lý, mà Chơn Lý tức là Đại Đạo vậy. Đạo không đợi cãi đợi bàn chi nữa.
Mà dùng cái Lý cái Khí nào đặng lập ra được Càng Khôn Thế Giới? Trong Kinh Dịch có câu:
Lập Thiên chi Đạo viết Âm dữ Dương,
Lập Đạo chi Đạo viết Cang dữ Nhu,
Lập Nhơn chi Đạo viết Nhân dữ Nghĩa.
Nghĩa là:
Dựng nên Đạo Trời, thì dùng Âm với Dương,
Dựng nên Đạo Đất, là dùng Cang với Nhu,
Dựng nên Đạo Người, là dùng Nhân với Nghĩa.
Tuy chia ba phần ra đặng thấy cái đại khái của mỗi món trong Tam Tài vậy mà thôi, chớ mỗi món trong Tam Tài cũng đều sẵn đủ luôn Sáu cái Sức lớn đó cả thảy. Trời cũng có đủ Âm Dương Cang Nhu Nhơn Nghĩa, Đất và Người đều phải có đủ không Tài nào mà thiếu sót; bởi vậy nên có câu: "Âm trung hữu Dương, Cang trung hữu Nhu, Nhơn trung hữu Nghĩa" (nghĩa là trong khí Âm có khí Dương, trong khí Dương có khí Âm; trong sức Cứng có sức Mềm, trong sức Mềm có sức Cứng; trong sự Nhân có sự Nghĩa, trong sự Nghĩa có sự Nhân).
Có người hỏi rằng: Người ta thì phải có Nhân có Nghĩa là phải, chớ còn Trời và Đất mà có Nhân có Nghĩa là ý chi? Tôi xin trả lời rằng: Trời Đất lại càng có Nhân có Nghĩa mà lại càng khắn khích Nhơn Nghĩa lắm lắm chẳng dám rời ra trong giây phút nữa. Muốn biết Nhân Nghĩa là gì, xin phải biết cái nghĩa hai chữ ấy cho rành mới được. Ông Châu Hy có giải rằng: Nhân chủ Ái, Nghĩa chủ Kỉnh, nghĩa là Nhân là chủ nơi sự Thương Yêu; còn Nghĩa là chủ nơi sự Cung Kỉnh. Hễ có sự Thương Yêu mới có lòng Bác Ái, có sự Cung Kỉnh mới có Trật Tự được. Lại cũng có chỗ: Nghĩa giả Nghi giả, tài chế sự vật các đắc kỳ nghi. Nghĩa là: Nghĩa ấy là sự Hạp sự Phải vậy; sửa sang mọi việc mọi vật chi chi cho đều được chỗ Hạp chỗ Phải của nó vậy. Lấy đó xét, thì nếu Đạo Trời mà không có Nhân Nghĩa thì làm sao mà gọi là Bác Ái, làm sao cho được Công Bình Trật Tự được. Trong Châu Dịch cũng có câu: Động Tịnh hữu Thường viết Nghĩa, nghĩa là: sự Động sự Tịnh cho có chừng có mực kêu rằng Nghĩa. Thấy vậy thì đủ chứng rằng Trời Đất càng phải có Nhân Nghĩa mới được, chẳng phải loài Người ta phải có mà thôi đâu.
Sách cũng có câu rằng: Thiên thất kỳ Thường, tắc nhựt nguyệt tinh thần điên đảo; Địa thất kỳ Thường, tắc hà hải sơn nhạc băng kiệt; Nhơn thất kỳ Thường, tắc Tam Cang Ngũ Thường vận loạn. Nghĩa là: Trời mà sái cái mực Thường của Trời thì mặt trăng mặt trời cùng các ngôi sao té ngã hết; nếu mà Đất sái cái mực Thường của Đất thì sông biển núi non đều lở khô ráo; còn Người mà sái cái mực Thường của Người thì Tam Cang Ngũ Thường đều rối rắm hết. Xét cho một chữ Nghĩa đó cho kỹ thì đủ rõ năm chữ kia, là Âm Dương Cang Nhu và Nhân, dầu cho Trời, Đất và Người đều phải cho có đủ mới được. Tuy đã biết rằng phải có sáu cái Ngươn Khí ấy mới dựng nên Càng Khôn Võ Trụ được, mà dùng nó ra cũng phải cho chánh đáng phải cho chân thật đừng giả dối mới được, như vậy mới gọi là Chơn Lý. Hễ Chơn Lý hiệp với Ngươn Khí, hoặc là Ngươn Khí hiệp với Chơn Lý, thì hai cái nầy tuy là hai tên chớ thật là Một Giống, vì trong Khí có Lý, trong Lý có Khí, Lý Khí phù hạp rồi tức là Đạo vậy.
Bởi vậy nên Đức Chí Tôn có dạy rằng:
Đạo là Chơn Lý mà Chơn Lý là Đạo vậy.
Người cũng có dạy rằng:
Ớ các trẻ ráng gìn Chơn Lý,
Chơn Lý là Đạo quí của Thầy.
Đức Tổ Sư Hổn Ngươn Thiên Sư Chưởng Quản
(Đuốc Chơn Lý số 22-23 năm 1936)
Đức Chí Tôn chẳng dạy chi khác hơn là dạy:
Đạo Trời.
Người dạy rằng: Trời đó tức là Người đây vậy. Đạo chẳng ở đâu xa. Đạo vốn ở trong Tâm của mỗi Người, vì trong Tâm của mỗi Người Trời có ban cho một Điểm Linh Quang rất sáng rất quí gọi là “Tánh”, bởi Người làm cho nó mất sự tự nhiên, sự Sáng tự nhiên của Tánh nên Người phải mê hoặc.
Vậy, phải trau sửa Tâm Tánh lại đừng để cho nó còn tối tâm mà phải bị sự cám dổ của hoàn cảnh làm cho nó phải mẩn mê hoài với cuộc hồng trần gió bụi, quên cả chức vụ thiêng liêng là phải tìm cho ra cho được Sự Sống của mỗi vật, cho gặp thật Sự Sống của nó đặng làm theo, phải do theo Lý Chơn Chánh tự nhiên Sanh Hóa của Trời Đất hóa sanh ấy đặng tiếp theo mà làm cho tấn hóa; phải tuân theo sự Nhứt Định của Tạo Hóa gầy dựng sự Sống cho muôn loài đặng giúp sức cho Hóa Công; đừng cho phá hoại, đừng cho trở ngại, đừng cho ngưng trệ sự tiến hành của máy vận động Trời Đất.
Ấy là Chơn Lý Đại Đạo mà Đức Chí Tôn đương lo dạy ngày nay cho bực trí tín đó. Bực nầy hiểu thấu đặng Bổn Phận của mình rôi, mới gọi rằng “Biết Đạo”. Muốn cho Hiểu Biết Đạo thì phải được sáng lòng làm trước…
Đức Tổ Sư Hổn Ngươn Thiên Sư Chưởng Quản