Kinh Giác Mê


Kinh Giác Mê


Chưởng quyền thưởng phạt thay Trời,

Giáo truyền Đại Đạo độ người trầm luân

Thiên điều mắc mỏ muôn phần,

Tôn đường Chơn Lý gặp Xuân tư mùa.



Nhắn Thái Nhơn Thanh Sơn (Đức Bửu Sơn)


Trăm ngàn hoa cỏ một non xanh,

Hoa đượm màu tươi cỏ đượm mình,

Hoa cỏ hiểu chăng công Vũ Lộ,

Hiểu chăng hoặc có tiếng ca Oanh.


Ca Oanh thảnh thót giọng u nhàn,

Nam Bắc bao gồm điệu chứa chan,

Cội phước giây oan ai có rõ,

Trớ trêu mối chỉ nhuộm xanh vàng.


Xanh vàng mối chỉ nhuộm tình đời,

Mối Đạo nào ai chống nổi Trời,

Tòng bá tuyết sương khoe tiết tháo,

Càng sương càng tuyết lại càng tươi.


Càng tươi càng đẹp vẽ Tinh Thần,

Chấp chưởng Đạo Trời há nại thân,

Thân hữu thân sanh thân phải tử,

Tử sanh Nhân Quả, Quả rồi Nhân.


Quả Nhân, Nhân Quả chớ đeo đai,

Biển khổ ngày đêm chớ miệt mài,

Mượn nước Từ Bi nhành Bác Ái,

Tuần tuần thiện dụ độ Anh Tài.


Anh Tài chớ nệ cuộc lâu mau,

Tuyết đóng càng thêm núi đẹp màu,

Gánh nặng đường xa thêm đá dựng,

Đường xa chớ hỏi dặm là bao.


Hỏi dặm là bao có ích gì,

Sông lần lần chảy tháng lần đi,

Tháng thành thế kỷ, sông thành biển,

Sông biển đâu nào có hỏi chi.


Hỏi chi thêm bần chí công tu,

Chơn Lý cao thâm giữ một màu,

Vững dạ mựa sờn cơn khổ huống,

Càng lâu càng vững trãi ngàn thu.


Ngàn thu bồi bổ khối Thiêng Liêng,

Mừng được cho ai gặp bạn hiền,

Gặp bạn khuyên ai nương ý bạn,

Sao cho rộng mở cảnh sông Kiên.


Sông Kiên suối nước dợn long lanh,

Quế đượm hơi Tiên trải mấy cành,

Thỏ thẻ đờn Oanh nguồn róc rách,

Trăm ngàn hoa cỏ một non xanh.



Nhắn Ngọc Chiếu Thanh.


Ruồng thông gay gốc đến non Tiên,

Giốc gặp Chơn Sư học bửu truyền,

Sức mạnh công dầy thương bấy trẻ,

Cho hay Phật vốn ở Tâm Điền.

Tâm Điền là gốc cội Người Ta,

Bìm sắn đừng cho loán phủ nhà,

Nổi ngọn truyền đăng tan hắc ám,

Mặc tình thong thả cõi Ta Bà.


Ta bà thế giái khắp Năm Châu,

Có cái chi hơn cái Đạo mầu,

Thông được Đạo rồi Trời cũng một,

Một Trời, một Đất, một Hoàn cầu.


Hoàn Cầu đã biết gọi là Năm,

Có lớn chi đâu chớ tưởng lầm,

Sánh với Tu Di dường cát bụi,

Khuyên con Chơn Lý ráng phăng tầm.


Phăng tầm cho rõ Đạo là chi ?

Chớ để ngày qua bước trễ kỳ,

Rõ được thế gian tuồng mộng ảo,

Buồn lòng mượn cớ tụng A Di.


A Di Phật ấy có đâu xa,

Chánh lý dầu ai cũng Phật Đà,

Lục dục khuyên con mau dứt bỏ,

Còn đeo một mảy hóa tà ma.


Tà ma hại Đạo cũng vì ai?

Cũng tại bùi nghe tiếng dịu tai,

Ngọt mật chết ruồi lời sẵn ví,

Đừng ai phỉnh mượn tiếng Cao Đài.


Cao Đài Đại Đạo, Đạo Trời sanh,

Đạo dạy người phân chuyện dữ lành,

Đạo chẳng khuyên lo hành sắc tướng,

Đạo lo giải cứu vọng nhơn tình.


Nhơn tình điên đảo nhắc càng thương,

Bào ảnh say mê chốn mộng trường,

Ngon ngủ quên lo khi tỉnh giấc,

Giựt mình mới rõ cuộc huỳnh lương.


Huỳnh lương đã rõ cuộc không không,

Nẻo chánh khuyên con giữ một lòng,

Ruộng sẵn, người dư, mầm giống tốt,

Từ đây Chơn Lý sức ruồng thông.



Nhắn chư Đệ tử nơi Định Tường.


Đường Chơn Lý Định Tường chẳng nể,

Sanh Vọng Tâm chia rẽ đệ huynh,

Sớm trưa lo việc chống kình,

Chẳng lo bồi đắp danh thinh Cao Đài.


Đạo cao trọng, mấy ai thấu Đạo,

Trời Từ Bi, lại thạo dối Trời,

Mãn lo ích kỷ gạt đời,

Mà quên Thiên Mạng của Trời phú trao.


Thương sanh chúng Thầy nào tự trọng,

Hạ mình lo giải Vọng nhơn tình,

Chọn nơi làm gốc dân sinh,

Trung Ương bền chặt giữ gìn Đạo Chơn.


Nhưng hiềm nỗi tiếng đờn kém giọng,

Dạ Từ Bi Thầy phóng Thiên Ân,

Giao Ca quyền được Sớ dâng,

Định Tường Ân Xá người cần Lý Chơn.


Thọ Thiên Ân mựa sờn tấc dạ,

Kể từ nay sắc đá giúp Thầy,

Trung Ương lui tới sum vầy,

Vuôn tròn bổn phận cho dày quả công.


Trời tuy thưa, mảy long chẳng sót,

Thiệt với Trời kẻo lọt biên trần,

Dối Trời đâu khỏi mắt Thần,

Dối Trời là hại Chơn Thân của mình.


Khuyên các trẻ giữ gìn Đạo Lý,

Đạo, Lý rành, Chơn Lý mới mong,

Lý Chơn Tâm Tánh, dồi xong.

Thiệt hành một Lý, vượt vòng phàm phu.


Phải nhớ chữ Bạch cu quá khích,

Phải gìn câu Triêu Tịch Tư Tư,

Con ôi, Mấy đứa nhàn cư,

Làm sao gặp được Chơn Sư Bí Truyền.


Y sớ dưng Thầy liền hạ bút,

Phong các con hưởng chút Hồng Ân,

Từ đây Trật Tự ráng phân,

Tự do, bình đẵng, lần lần bỏ đi.


Đừng miệng đọc Từ Bi, Bác Ái,

Mà lòng lo mặt, trái, phỉnh người,

Các con Nam Nữ nghe lời,

Con Trời thì phải sợ Trời, nghe con?




Thánh Huấn Giác Mê


Thánh Tựa

Trà Vinh, đêm 12 tháng 7 Nhâm Thân (1932)


Ngọc Kinh mở cửa vớt trần lao,

Hoàng thiện Tiên Cung một sắc làu,

Thượng lịnh dẫn đường cơn thế tục,

Đế Thiên khuyên trẻ dắc dìu nhau.


Thầy mừng các con mổi đứa. Thầy cho nhập đàn hết, hầu nghe Thầy dạy.

Chim tầm non thẩm, cá kiếm biển sâu. Con người tua về quê xưa cảnh cũ.

Cái chúng bịnh trần ai cũng bỡi tâm thành. Một ngày sẻ thuyên giãm.

Thầy cho mỗi đứa an tọa, các con nghe thi:


Dắt dìu nhau đến chốn Tây Phương,

Ngọn đuốc Thầy khai để dẫn đường,

Khuyến thiện sẵn chờ lời chỉ bảo,

Giác mê đã cậy tiếng phô trương,

Chúng sanh còn đứng vòng lao khổ,

Nam Nữ yên ngồi chẳng xót thương,

Chí quyết gan vàng ra tế độ,

Độ đời xa tránh cuộc thương trường.


Trường thi mở rộng chớ ăn chơi,

Liên lạc dìu nhau dưới cõi đời,

Đời vẫn ngửa nghiêng cơn sóng gió,

Đạo còn chinh đỗ lúc chiều mơi,

Thế thời gầy tạo nên hào kiệt,

Hào kiệt bồi xay trở thế thời,

Chung cậy đồng nhau nưng Võ Trụ,

Đạo mầu mở rộng khắp năm nơi.


Nơi nào cũng có Đạo Thầy khai,

Lấy chữ Vô Vi để chỉ bày,

Rạng vẽ Tam Kỳ thuyền vững tải,

Chói ngời Đại Đạo để bền giai.

Con thuyền cứu khổ đừng tâm nệ,

Cái chí tu mi chớ dạ nài,

Rải giống Từ Bi gieo thế giới,

Nơi nơi đồng mát bóng Cao Đài.


Đài cao mở rộng vớt nguyên sanh,

Một dạ trước sau học tánh lành,

Dẹp gốc ruồng gai tìm nẻo thẳng,

Ven mây lướt gió thấy cao xanh,

Đạo mầu khuya sớm năng giồi luyện,

Kinh kệ hôm mai khá tập tành,

Cuộc thế đã xây người ấm lạnh,

Ngày giờ nhặt thúc khá tu hành.


Hành trình bước vững buổi Kỳ Tam,

Hờn giận xa nhau bởi tánh phàm,

Đôi chữ Từ Bi nên mộ tưởng,

Vài câu Thánh Huấn khá siêng ham,

Tiên bang trở lại về ngôi vị,

Cõi thế lành xa lối phẩm hàm,

Nền Đạo hai vai dầu sức gánh,

Gánh cho toàn vẹn Đạo nhà Nam.


Nam ban Đạo cả chẳng chung hòa,

Cũng tại chưa rành chữ Phật Ma,

Dạ tưởng hiệp hòa vì dạ Phật,

Tâm mong chia rẽ ấy tâm tà.

Lý Quyền hai nẻo tua phân rõ,

Chơn giã đôi đường khá biện ra,

Ra biết chánh tà Đời chuyễn dựng,

Ngũ Châu đồng mộ Đạo chơn nhà.


Nhà còn rộn rực bóng tà dương,

Non nước vần xây thế khác thường,

Phai sắc đai cân điềm cộng lạc,

Nhuộm màu danh lợi vẻ tang thương.

Làng mây cung nguyệt rày soi tỏ,

Cảnh tục hào quang bủa rọi tường,

Canh mảng dầu hao đèn cũng mảng,

Nương nhau bước thẳng dặm lên đường.


Đường dài thẩm thẩm biết về đâu,

Khuyên phải chiều tâm lối giải dầu,

Đường Đạo lẹ chơn ngày lại vắng,

Thông cùng mau bước bống càng thâu,

Người đới sánh tợ như hoa ủ,

Lòng thế dường như thể cỏ sầu,

Tắm tuyết dầm sương nơi cảnh tịnh,

Trau dồi nên vẹn chí mày râu.


Mày râu gánh vác phận làm trai,

Chớ để ngày qua trễ một ngày,

Khánh bạc phá mê lòng thế tục,

Chuông vàng khởi tỉnh mộng nam ai.

Ca ngâm cứu chúng bồi Tiên cảnh,

Phấn chí độ nhơn đến Phật đài,

Nhàn lúc quê xưa lòng tự toại,

Tính trung giữ vẹn chí đừng phai.


Đừng phai khổ hạnh buổi rau tương,

Trì chí cùng nhau học một trường,

Vĩnh hiệp Tam Kỳ lo Đạo Đức

Thạnh thời bá tánh đặng an khương,

Cang thường noi giữ càng cao giá,

Bửu pháp truyền cho sáng tợ gương,

Khuê bích nguồn trong lau sạch bợn,

Dắt dìu nhau đến chốn Tây Phương.