Cơ Bần
Là chánh gốc mỗi con
Bài giảng của Đức Tây Sư Tinh Quân
Nhơn ngày Lễ Kỷ Niệm An Thiên Đại Hội
(Trích Đuốc Chơn Lý số 16 – Aug 1936)
Lạy Thầy Chúa Tể Kiền Khôn,
Mở lòng Bác Ái thương con với cùng.
Kính mừng chư chức sắc lưởng phái, kính chào anh chị em.
Tôi xin giải một câu Thánh Giáo, nhơn ngày Lễ Kỷ Niệm An Thiên Đại Hội lần thứ sáu năm nay.
Đừng vụng tưởng Cơ Bần là nhục,
Cơ bần là chánh gốc mỗi con;
Lúc sanh đỏ lói một hòn,
Lúc về nào kể vật chôn những gì.
Theo thế thường đời người ta cho rằng nghèo thì khó, mới có tiếng nghèo khó, lại nghèo khó thì rất khỗ cho cái thân mà cũng là nhục cho người, vì nếu mình ở vào hạng nghèo khó, tì ai coi mình ra gì, lại mình cũng hổ, vì mình cho mình không ra gì, mình đã khi mình như thế, bảo sao người ta không khi, nên người đời ai ai cũng bương chải làm sao cho được giàu sang, không thì cũng giàu có, nếu chẳng được vậy, cũng phải có chi chi cho khuây khõa với đời, vì đời đã cho phú quí là vinh, nên mới có tiếng « cơ bần là nhục ».
Mặc tình đời ai tưởng như vậy thì tưởng, ai theo cái tôn chỉ đó thì theo, gọi vậy là phải, thì tự người ấy sống trong cảnh đấy, xử trí theo hoàn cảng vậy, vui sương hay khỗ cực vậy thì vậy, có can chi tới ai mà phải bàn bàn, luận luận, tính tính, lo lo !
Nhưng Ta, tuy ta cũng ở trong đời như ai kia, như người. Người cũng ở trong đời như Người kia, song Ta Người vì đâu mà có lòng kỉnh Phật thờ Trời, thì lẻ đâu Ta Người không xét câu chuyện đó cho rõ lý nghĩa nó ra sao ? Vậy Ta Người nên Trí cái Lương Tri mà Cách sự Lý của nó, vì nếu Ta Người còn dùng Lý Trí, thì còn phải mượn cái trí khôn riêng của Cái Người của Ta với Người thì Ta Người đã có cái tư tâm rồi, nào có xét việc chi chánh đáng cho được tới tột lý đâu ! Tâm đã không chánh thì người sao gọi được là vô tư, mà Vô Tư là cái yếu lý của người tu theo Đạo Trời, mộ Chơn Lý, mà Trời thì Vô Tư, nên người phải Vô Ngã. Như đêm tối thì tối chung cho cã thế giái, ngày sáng thì sáng khắp kiền khôn, tối thì tối, sáng thì sáng, nào rằng tối sáng cho ai, cũng do Lý tự nhiên mà thôi.
Câu chuyện sang hiếp hèn, giàu hiếp nghèo, mạnh hiếp yếu, thì cần chi nói nhiều lời, hễ ngó ra đường đời thì đời nó là vậy rồi, nhưng người đời thấy vậy hay vậy, mấy ai rõ được cớ bởi đâu mà có ra những điều ấy, có vậy rồi thì người này đổ thừa cho người kia, người kia đổ thừa lại cho người nọ, mà mấy ai chịu nhìn nhận rằng các điều lổi ấy cũng là nơi mình sanh ra, nếu không phải tại nơi mỗi người mà có thì tại đâu mà có ra đây ? Có vậy rồi thì mọi người theo vậy, rồi than rồi thở. Điều chi thuận cho người kia thì nghịch với người nọ, mà một khi gió xây hướng kẻ đương khóc lại tươi cười, người đương vui lại sầu thảm, vui thảm chi cũng một thuở, cũng một thì, chung cuộc chỉ biết cùng nhau than rồi thở, giành nhau thở rồi than !
Nghĩ mà coi, ở đời tai nạn xảy ra phi thường, chẳng biết đâu mà tránh, chẳng lấy chi mà độ mà lường, người dầu có tiền muôn bạc vạn, dầu ở địa vị sang quí, đến gặp lúc tai nàn, nhầm cơn bịnh trầm trệ, thi chỉ biết ngước mặt lên Trời mà than, mới rõ ngoài cái thế lực của người có một cái thế lực tự nhiên, có Đấng Thiêng Liêng huyền bí không sao độ được, nên trong lòng cũng thầm vái cho Người cứu lấy tai nàn. Nhưng một khi sự dử đã qua, thì con người ta lại tự đắc, tự kiêu, biết có mình mà chẳng biết trên đầu có ai ! Người dường ấy, cảnh dương ấy … lạ gì !
Chúng ta theo Thầy mộ Đạo, trọn Đức Tin rằng Trời khai Đạo, thờ Thầy nên mộ Đạo của Trời khai, có Thánh Huấn, có Thánh Ngôn, khác nào trong đêm tâm tối được Thầy rọi đuốc chỉ đàng. Đuốc dẫn trước sáng đường, người theo sau vững bước.
Chịu sắc lịnh Thiên Phong, vui mặc Thiên Phục, ấy chịu cuối đầu dưới quyền Tạo Hóa, nhìn Cha Thiêng Liêng, mang sắc phục là nhận Tam Giáo đồng qui, chịu không rời cái Đạo, từ bực Thiên Ân chí hạng tín đồ Chơn Lý, đứng vào hạng nào cũng phải do Trời làm gốc, do Đạo làm nền, vậy mới là Người biết Gốc Nguồn của sự mình sống, bởi đâu mình có ra. Lý tự nhiên đã khiến lòng người như thế rồi thì đừng quên con đường ấy.
Chớ vong ân bội nghĩa mà không tuân Thánh Huấn, không nghe lời Thầy. Kỷ luật về Điều thứ 9 đã chép rành như vầy : Thánh Huấn của Đức Chí Tôn hay của chư Phật Tiên Thánh Thần ban hành ra, các chức sắc phải tuân y, chẳng được bàn bàn cải cải, nếu cải là tội ngổ nghịch, kiêu ngạo, khoe khoan cho mình rằng mình giỏi, được làm Thần làm Thánh, ấy là tội vô lễ mất nết khiêm cung. Nếu ngổ nghịch với Đại Từ Phụ thì Luật Thiên Điều ghi chép.
Hảy tuân những Luật dạy bài,
Tuân rồi mới rõ Luật Thầy thể nao.
Anh em, chị em,
Ai vừa tuân được thì thấy mình đã có khác hơn xưa, mới biết mình đã mới lấy mình được ít nhiều, trong mình có thấy sự yên ổn, mà ai kia tuân được trọn, làm được trọn, thì lại thấy « cõi Trời dành để vô cùng sự vui ». Vui đó mới là vui thật, ngảnh lại mới hay : « Bước hồng trần là nước quỉ ma ». Cõi Trời là chỗ tự nhiên của lòng đó, còn hồng trần là chỗ giải nắng dầm sương, phần gió bụi của xác thân. Vậy hãy bước qua tinh thần mà Sống mới rằng Người biết sự Sống mà Sống theo sự Sống. Sự Sống này là Đạo vậy. Nhược bằng trái lại thì sao ? Thì Lương Tâm hằng nhắc rằng : « Thiên điều đâu thứ tôi loàn mà mong », nếu chẳng phải vậy sao anh chị em lo Tu lắm vậy ? Ai có lòng lo Tu thì đã có cái Lương Tâm cắn rứt biểu bỏ con đường vạy mà theo con đường ngay, như vì không tự xét, nên không biết lòng người đã khiến người như thế mà trở lại với Thầy.
Vì sao không tuân Thánh Huấn mà phạm về tội vô lễ, lại là tôi kiêu căng, ngổ nghịch, khoe khoan ? Tội vô lễ thì đã đành, vì bội sư thì người dường ấy ở đời cũng không ai cho rằng phải, huống chi tránh sao cho khỏi mắt Thần như chớp lại như giăng. Kiêu căng là sao ? Là vì tưởng mình hay hơn Trời, nghĩ rằng tấm thân này của mình, mình điều khiển nó, chớ có ai vô đây mà thay thế cho mình đặng dìu dắc nó đâu. Tưởng vậy rất lầm, là quên có Trời nơi lòng, nếu chẳng vậy thì tánh linh của người đã mất rồi đó, thì bảo sao tránh khỏi «Hỏa khanh địa ngục đốt đời chẳng dung». Nếu không phải như lửa thiêng liêng đốt lòng, sao lại tâm huyết hao mòn, tinh thần bạc nhược, có cười cũng là cười gượng, có vui cũng bợ ngợ cái vui, đã nát ruột bầm gan mà bề ngoài lại làm tuồng tươi tỉnh. Kẻ được biết vậy cũng là có sự may, vì có thể ăn năn tự hối, thương hại thay cho người, lửa thiêng liêng tiêu diệt mà không hay, giây vô hình đã trói mà không biết, người dường thế đã mê còn lại mộng, chiêm bao hoài đó thôi !
Thánh huấn có câu : «Thầy chẳng nở lấy Quyền làm Đạo», câu Thánh huấn đã đành rành như vậy, mà sao kỹ luật dạy phải tuân y, chẳng phải dùng quyền hay sao ? Thật đã là Thánh ngôn đâu có sai, đâu có câu này trái với câu kia, tại mình không thông đó. Thầy dạy «Phải Tuân», vì Thánh huấn ấy là Luật, nếu không thông Thánh huấn là không thông Luật; mà đã không thông Luật, lại còn canh cải Luật, thì đâu có được, vì Luật tự nhiên cảm ứng hẳn hòi.
Luật Trời thuở giờ ai rõ, có tưởng biết thì cũng do nơi kinh sách, mà kinh sách đã trải qua nhiều tay, nhiều lớp, nhiều đời, thành tam sao thất bổn. Nay rõ ràng lời châu tiếng ngọc của Thầy và thật lời của Chư Thiên, Chư Phật Tiên Thánh Thần, đâu phải là tam sao, đâu gọi là thất bổn đâu ! « Quí hóa thay Đạo chánh của Thầy, Tam Kỳ mối Đạo phân minh, Thánh Thần Tiên Phật đinh ninh cạn lời ». Vì vậy nên tôi đây cũng phải đôi lời nhắc nhở chư hiền trước khi giảng câu Thánh huấn.
Việc chi muốn biết phải cho thật biết, sự chi muốn thấy phải cho thật thấy, việc chi muốn nghe phải cho thật nghe, nghe mà thấy, thấy mà biết, là điều rất chánh đáng, chớ nghe mà không thấy, thấy mà không biết, thì thân này rất là vất vã, đỏng đưa theo buổi chợ đông !
Tôi nhắc : « Lời Thầy dạy phải tin phải tưởng, Kinh Thầy ban chớ cượng chớ sai », ấy là muốn động tới cái Tâm của Con Người đặng nó tỉnh Người nó thôi. Có câu : « Sách chép chữ khôi khôi thiên vỏng, Đời ghi câu lộng lộng lưới giăng », lưới Trời thưa mà chẳng lọt. Ai ai cũng ở trong Tạo Hóa, mà rằng không kể tới Luật của Tạo Hóa thì Tạo Hóa nào dung. Đời có Luật đời, người có Luật người, thì Trời ắc có Luật Trời, ấy là Luật Thiên Điều vậy. Luật Trời sẵn có thì sự Thưởng Phạt ắc có, nhưng có không cũng tại nơi lòng mà ra.
Phần thứ nhứt do Thánh huấn giảng giải chỗ Chơn, phần thứ nhì do Tâm mà tầm Lý.
Một. Do Thánh huấn tầm Chơn. Chiếu theo Thánh giáo, thì biết Con Người Trời sanh, nên gốc cũa loài Người bởi Trời mà ra. Chẳng phải cái xác thịt này mà được gọi rằng Con Người, Con Người tức là cái Chơn Ngươn xuống thế mượn xác thân hiệp tác giúp đời. Một điểm Linh Quan, dạy giáng phàm công quả, thì Con Người đã trải qua nhiều lớp có chứa bốn chất Địa, Thủy, Hỏa, Phong mới làm nên thân Người này được. Thân này gọi là Cái Người. Cái Người đối với Con Người như áo với thân. Chơn thân là cái Chơn Ngươn đủ Tiên Thiên Tam Bữu xuống thế, còn xác thân thì bởi duyên gì nên Tứ Đại Giả lập thành cho, mà phải nhờ khí huyết của cha mẹ, nên có học Đạo thì phải cho suốt thông Hiếu Để, chớ lầm thông thì hại lớn. Trời đã ban cho cái Đức rất sáng, nên loài người sở dỉ được khôn hơn muôn vật. Cái Đức rất sáng ấy gọi là Linh Tánh hay là Linh Hồn. Người có Linh Tánh nên mới biết cội rể của Con Người gốc ở nơi Trời mà ra, từ Trời mà có. Có mà chi? Là để giúp Trời hành Đạo đặng sanh thêm sự sống cho vạn vật. Nên Trời Người chẳng hề rời rả. Người nhờ có Linh Tánh ấy và phận sự như vậy mới có thể giao thông với Trời. Sự Giao Thông ấy gọi là Cảm Ứng. Nếu người không cảm ứng được với Trời là cũng do nơi cái Linh Căn của người đã mục, đã hư, khiến cho Linh Tánh không còn được linh thông, Linh Hồn phải bị mê muội mà ra đó. Trời sanh Người thì Người tự nhiên phải có cái phận sự tự nhiên của Người. Con Người là cái Khí Tiên Thiên, phải có cái Khí Hậu Thiên mới trọn đủ Chơn Ngươn. Khi ra đi, Thầy có dặn: “Nước non bồi bổ tinh thần, Chơn Ngươn ung đúc Bổn Căn trau dồi”. Muốn cho được vậy, thì trước phải mở mang khắp cả Hồng Hoan, rồi sau mới rõ phận sự là: Giúp thay Bàn Cổ Tam Hoàng lập công. Công quả của Người là chỗ này. Rõ ràng Người đây thay thế cho Trời đó, trước làm sự sống cho mình, rồi còn phải hiệp chung sự sống của mình với Trời Đất mà làm một sự Sống lớn, đặng làm cho võ trụ vạn vật đều có sự Sống lớn mà hiệp chung lại trọn với mình, được như vậy mới gọi là hoàn toàn. Muốn làm được sự Sống cho mình, phải mở mang cái Tâm Địa này là cái Hồng Hoan đó. Mở mang cái Tâm Địa cho nó trở nên cái Lương Điền. Lương Điền ấy là Lương Tâm vậy. Nếu chẳng mở mang nó, thì Nhơn Tâm còn là Nhơn Tâm, là vì một khi có xác thịt của Người thì thấy mình riêng với võ trụ vạn vật mà sanh lòng tư riêng, lòng tư riêng ấy gọi là Nhơn Tâm. Nhơn Tâm bị lục dục, khác nào cỏ mọc loán đám ruộng, cỏ mọc thì tranh sống với lúa, nên thất tình có từ đây, cỏ mạnh thì lúa khó bề đầy đủ bông trái. Một khi trừ cỏ được rồi thì cỏ này trở lại làm phân cho đất mà giúp lúa cho nên. Rõ vậy thì tuy Trời Đất Người này là Ba, song cũng là Một. Một ấy là sự Sống.
Đây chưa phải chỗ giải rõ về Hồng Hoan, về Tam tài, về phận sự Tam Tài, về chánh danh phận của Con Người xuống thế, mà là chỗ chỉ ra cho người đời biết rằng cái tiền tài là của đời sắm, đời trọng, nào phải là của Trời đâu. Nếu không phải là vật của Trời sanh, thì nào phải phận sự của Con Người phải lo.
Khi ra đi Đức Chí Tôn có dạy:
Công thành qui vị thưởng phong,
Đứng cho đến đổi bụi hồng vương mang.
Đức Chí Tôn ân cần khuyên nhủ con cái của Người rằng: Hãy mở mang khắp cả Hồng Hoan và lập xong danh phận Tam tài đặng hiệp nhứt với Người nơi Bạch Ngọc Kinh thì có, chớ nào có dạy mở mang khai khẫn ruộng đất hoan vu rừng rú nơi thế hạ này, đặng làm của riêng, lại còn góp thâu hoa lợi mà tiêu xài đâu. Đã không dạy như vậy mà cớ chi nay người lại cho “cơ bần là nhục”? Là không có tiền của, là nghèo, là khó, là xấu, là hổ ? Xấu hổ ai ? Ai xấu hổ ? Tiền của chi chi nó cũng là cái bợn đời, vậy tấm thân không dính bợn đời là xấu hay sao ? Hay là chác nhiều bợn đời mà quên phần thiêng liêng của mình là tốt ? Tốt với ai ? Tốt với cái trả vay vay trả đó mà !
Nhớ rằng : Chơn Ngươn nó trắng trong trong trắng thì nó rất sạch, nếu nó không sạch, sao nó có ra nơi chốn Ngọc Kinh ? Thầy có phân: « Hồn con là Ngọc của Thầy », Người không vướng bợn đời là Người trong sạch, nên nghèo về tiền tài của thế gian mà tấm thân lại còn được trong sạch, lòng không chút bợn nhơ của đời, thì cái trong sạch này là Chánh Gốc của mỗi người mà thật là Người đó, nên Thầy có nhắc trong Thánh Huấn :
Của trần phải sạch sanh sanh.
Chẳng những vậy mà thôi, lại có lời dạy thêm :
Sạch rồi chớ khá khoe danh với đời.
Vì sao vậy ? Vì là nếu còn khoe mình sạch trơn bợn đời, thì bợn đời đó nó báu lắm sao mà khoe, chẳng thấy vì nó mà thiên hạ chết với nó hay sao ? Còn khoe mình thì còn Tư Tâm, đâu là sạch bợn đời, Tâm cò đầy dẩy sự dơ, vì còn bị cái Vọng, tâm như thế đâu có Chơn. Có câu :
Ở đâu cho khỏi buị hồng,
Ở bùn mà chẳng nhuốm bùn mới hay.
Kìa hoa sen ở bùn mà ra, mà nào nó có nhuốm bùn hôi tanh chi đâu, tự nhiên của nó là vậy, vậy nó mới còn tự nhiên. Ai mà lại không ở trong Trần, nhưng có lòng nhiểm hay là không nhiểm bụi trần đó thôi. Hoa sen kia ví như cái Tâm không lộn với bùn đó, bùn này là cái hoàn cảnh của nó.
Chắc có nhiều người cho rằng có thế nào Con Người ta ai được trọn phải như vậy được. Nói như thế rất nhầm, vì Thánh Huấn có câu: «Mấy ai được một lần trọn phải». Ra đi tu như Phật Thích Ca còn phải đôi ba lần lầm. Phải vậy, nhằm vậy rồi, ai khỏi lầm, nhưng phải nhớ :
Biết lầm liền biết hồi tâm,
Hồi tâm mới được quỉ khâm thần nhường.
Trong một việc chi đã lầm mà liền biết Hồi Tâm – phải biết cách Hồi Tâm là trở lại cái Tánh lành nơi Tâm, chớ nào nói hồi tâm là ăn năn rồi bỏ qua được đâu – vì có Hồi Tâm thì Quả nó báo liền trong lúc ấy, nên người phải cho chắc dạ bền gan, ấy là bền lòng kiên nhẩn, chắc gan thử rèn. Mà cũng chớ gọi sự Ứng lại đó là khỗ, vì sự chi có định trước được, thì sự ấy có hại tới mình đâu, vì lúc vậy Tâm phải như Gương mà Hư Không, có rọi mà không chứa, có động mà không động, có nhiểm mà không nhiểm, bởi không chứa nên không có khỗ tâm, nhưng cái xác thân phải chịu đau, vì nó là cái cơ thể, khác nào vỏ lúa phải chịu sương nắng, không thể tránh được cái sự đau đớn cực nhọc bề ngoài, như thế mới biết « Sóng gió ấy là nguồn mạch nước, Gió êm sóng lặng nước như thường », thì thấy lý Đạo vậy.
Ví như đêm kia nhà mình biết có kẻ cướp trộm rình rập, song cả nhà thức canh phòng, tuy sự canh gát có cực nhọc mà sang ra nhà không bị tai hại, thế không vui hay sao ? Chính chắn mà giữ cái Tâm của mình là vậy đó, kẻ trộm là bọn: đông, ngôn, thị, thính, chớ có ai đâu lạ.
Như trước kia đã tưởng Cơ Bần là nhục, nay vì có xét mình mà thấy và biết được Cơ Bần không phải là nhục, biết vậy mà cũng còn đau về phần xác, nhưng một khi đã thực tỉnh rồi, mới rõ Cơ Bần là Chánh Gốc của nhơn sanh, thì cái sự vui và biết đó mới thật là vui, như đã tránh khỏi được kẻ trộm nó toan tính cướp lấy cái thiêng liêng của mình, khác nào trước kia tưởng Cơ Bần là nhục mà phải để lòng lo lắng cho bạc nhược tinh thần, hao mòn hạo khí, mà không hay không biết.
Theo Lý tự nhiên là vậy, đành vậy, mà trời kia không có cho người ở thế hạ này, nhơn sanh đây, hưởng phần công danh phú quí hay sao? Từ đời nào, chí đời nào, có vua có tôi, có quan quân, có dân giả, không phải vậy hay sao?
Xin đáp : Cái phú quí công hầu tiếng của đời cho, đời trọng đó, thì đời muốn trọng cách nào thì đời trọng, đời tôn, vì muốn sao thì chịu lấy :
Sao không suy trước nghiệm sau,
Tiền căn hậu quả bởi sao được vầy.
Ấy cũng là Nhơn Quả đó thôi, mà tại người phân ra chữ Vinh, chữ Nhục, thảy đều là đồ vay trả trả vay, nếu chẳng phải vậy, thì người làm quan không có gặp sự khổ hay sao, kẻ nghèo kia không có ự khoái lạc hay sao? Có vậy mới hay phú quí là cái giây ràng buộc thân mình. Phải chi ở địa vị nào cũng có chữ « có không, không có », thì có hại chi, cái Có nào buộc được ai, cái Không nào hại được ai, có chi hại được tinh thần của Người do lý mà ở đời được đâu, nó có hại được là hại Người do Trí mà thôi. Lý là của Trời, Trí là của Người riêng.
Chánh Lý Đạo về phần xác thân thì có Ba Giềng làm trọng là : Quân, Sư, Phụ. Mà phải cho rõ chơn lý của câu : «Nhơn sanh ư tam, sự chi như nhứt», nghĩa là nhơn sanh có Ba Giềng, ba Mối Chánh, mà thật chung cũng Một, vì Một đó phải đủ Ba mới trọn, là:
Làm vị Quân là Chủ, thì phải trọn bổn phận làm chủ, mà Người đã làm chủ cái xác thân này, thì đừng để cho cái xác thân nó khiến lại mình, thì mới là quân chủ tấm thân.
Làm vị Sư là Thầy, thì phải trọn sự giáo hóa cả thân thể, không bộ phận nào mà mình không dạy nó cho nó biết tảo trừ tà tâm trong chỗ Động, Ngôn, Thị, Thính. Bộ phận nào cũng có cái Tâm của nó, là sự sáng suốt của nó, đừng cho vật dục che án trong lúc đi đứng, ăn nói, nghe thấy.
Làm vị Phụ là Cha, tiếng Cha có hàm nghĩa chữ Sanh, ấy là thay Trời mà sanh hóa mỗi vật trong thân, chẳng vậy thì trong mình của Người có chi là huyền diệu đâu, như: Tình dục sanh ra Đức dục, Nhơn tâm ra Đạo Tâm, Tư tánh ra Thiên Tánh, tình thương ra Bác Ái, kiêu ngạo ra khiêm cung, tranh đua ra nhịn nhường, cả thảy là sanh lại cái Tâm tánh của Trời ban phú ngày xưa.
Người mà thiệt nên Người, thì Ba ngôi đó phải như Một, vì chẳng lúc nào mà mình không trị lấy mình, thì thật là lúc mình Quân chủ với mình đó; chẳng lúc nào mà mình không làm vị Sư với mình, ấy là lúc mình dạy lấy mình; đến khi lảnh phận sự là Cha, ấy là lúc Sanh thêm sự Sống cho mình, là bồi bổ chơn ngươn cho trọn đủ, cho tinh thần tiên thiên hậu thiên tráng kiện, đủ sức rước Tiên Thiên và Hậu Thiên Tam Bữu của võ trụ đặng làm sự Sống lại cho Con Người của mình, rồi lại còn phải làm sống lại cho vạn vật võ trụ cho ra cái Sự Sống lớn. Tam Cang về phần tinh thần của Người là như thế.
Thánh huấn có dạy: Bao giờ dân sanh biết trọng Tam Tôn như đã phân giải trên kia, thì khi ấy mới mong có quyền Độc Tôn, là Hiệp Nhứt với Thầy, làm Một với Trời. Đó:
Bòn vàng sông Lệ nên bòn,
Tìm châu tìm ngọc, non Côn đến tìm.
Muốn thành Tiên thành Phật là phải làm vậy đó, muốn nên Người thì phải làm như vậy đó, vì Phật Tiên Thánh Thần chi, trước cũng phải làm thân Con Người. Vậy còn mê mẩn chi cái bả lợi mồi danh của đới mà phải bị luân hồi vay trả! Sông Lệ mới có vàng ròng, non Côn mới có ngọc báu, chớ vàng xuy, ngọc tỳ mà làm trò gì. Của thế gian có quí vào đâu.
Chủ được cái thân của mình đây, dạy được cái thân của mình, sanh được thêm sự Sống cho mình, xong vậy rồi phải đem ra con đường Đời mà phổ hóa nhơn sanh. Thầy đã phân : « Hai chữ Vô Vi mối Đạo Thầy », Người được chữ « Vô » rồi, còn một chữ nữa là « Vi », vì hai chữ ấy là mối Đạo của lòng Trời vậy, thì lòng Người cũng phải thể lấy.
Khi Ta « Vô » mà « Vi » cho ta, thì nào thấy có ai để tay vào, tự ta sửa lấy ta, không bắt chước ai, không kể đến tiếng thị thị phi phi, ấy là lúc Ta dọn sửa mình ta theo về Lý của Chơn Đạo, nay đem ta ra con đường đời, ta lại phải « Vi », là phải hành cái Chánh Đạo của ta đã thọ chơn truyền đó, nhưng chẳng lúc nào mà ta quên cái « Vô », nghĩa là: Ta có làm mà như ta không làm, có Ta đó như không có Ta đó, khác nào Trời kia dựng lò Tạo Hóa, mà Tạo Hóa Công ai thấy, có ngụ ý mà biết được đó thôi. Vô Vi trong Tam Kỳ này là vậy, vì là thời kỳ «Đạo Dụng». Trời dụng cái Đạo của Trời có sẳn nơi cái Tướng của Người cho người thế gian tường tận, không che khuất lấp ai. Mới rõ câu : «Cao kiên hữu Tướng, hốt chiêm vô hình» trong bài Đạo Pháp. Người mộ Chơn Lý phải đến Vô Vi đó mới rõ Lý Chơn.
Nhơn sanh chưa mấy ai rõ Có mà Không, Không mà Có, nên cho Có là Có, bảo sao không mến vật hữu hình, không say mê về sắc tướng, mà phải đọa nơi trầm luân khổ hải, lại có người mê mẩn trong cái Vô lại gọi rằng đã đến bực tối thượng thừa là khác.
Người đã chọn Tam Tôn làm gốc, thì biết có cội gốc của loài người là ở nơi Trời, thì rõ nhơn loại có một, nào phải là vô số, nên rõ ai cũng là Một với mình, lại là ruột với mình, thì lo chi không hiệp nhứt với Cha Thiêng Liêng. Thấu Lý Đạo, phải hành Chánh Đạo mới gọi rằng thay thế cho Trời, công quả của Người là đó. Nhớ câu:
Mà ai công quả với Thầy,
Mảng kỳ trách nhiệm là ngày siêu thăng.
Biết cung mây mấy từng thì Người có mấy bực, sự công bình của Trời là dạy: Phải lo phổ độ chúng sanh, sao cho lớn nhỏ đề huề, anh trước em sau, thượng hành hạ hiệu, thượng hòa hạ lục, đó là Chánh cái riêng phần của từ Người ở thế hạ này tùy phận tùy duyên, tùy thời tùy cuộc mà ở ăn cư xử, thảy đồng lấy Tánh Trời mà theo con đường Tấn Hóa thiên nhiên.
Chớ công danh quyền quí tước hàm của người đời đặt tên cho chức, nó là một điều phân chia nhơn loại, sanh mãi cái Vọng cho người, lại nó là mây tan nước chảy ! Kìa ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cái xác thân này còn không ở đời thay, huống hồ danh giá của đời mà đâu còn hoài. Phải cho có ngôi thứ ở đời mới có thứ tự, có thứ tự mới có trật tự, có trật tự mới ra vẻ Đạo, rồi Một với nhau như cây kia có rể, có gốc, có nhánh, có lá là mấy cây? Một thôi. Đông có mầy, Tây có tao, ấy là lẽ cố nhiên, giữa sông bổng nổi nên cồn, nhờ nhiều hột cát đấp dồn mới nên. Quí hóa thay cho cái liên lạc hội hiệp chơn chánh của Con Người, thảy đều do một Lý, Lý này là Chơn Lý vậy.
Người nay lớn khôn rồi, nếu hỏi Người: «Có biết lúc sanh ra làm sao chăng» ? thì lúc đó mình có biết mình là ai đâu. Nếu hỏi người: «Lúc chết người có kể vật chôn những gài», đã tắc hơi nín thở thì còn biết chi là chi nữa. Ấy vậy: Ra không về cũng không, mà lại không rõ khúc đầu, không thông khúc đuôi, chớ người được biết trong lúc nào? Có biết được là lúc người có cái trí khôn riêng, chớ đến lúc mất cái khôn đó, ấy là chặn giữa của một đời sống mà thôi, nếu thật rằng người khôn hơn muôn vật mà người không biết đầu, không biết đuôi, thì sự khôn ấy là khôn làm sao ? Một lý xát cận nơi mình mà lại là của mình mà không rõ, thì còn đong Trời lường Đất nổi gì, lại khoe tài với ai? Mà ai ai cũng vẫy vùng trong một thời gian mau chậm, có người cho rằng đắc chí, kẻ thì thất chí, được thỏa thích hoặc mất hy vọng, mà chung cuộc thì chỉ một đống xương tàn. Mà rằng khôn, mà rằng dại ! Ai khôn? Khôn với ai? Ai dại? Dại với ai?
Có biết được thỉ chung cùng không, là Tâm với Tánh của người xuống thế mà thôi, chớ Trí khôn kia của Cái Người nọ, nó đã không thông suốt rồi đó, vậy Con Người ta «biết chăng sao chẳng hỏi chỗ cao sâu» ? Chỗ cao sâu là nơi lòng vậy. Kìa, thữ xem con trẻ còn nằm, biết nhìn cha mẹ chẳng lầm người dưng. Cái chi làm cho nó biết được như thế? Ấy là cái Tánh linh của nó, cái Tánh linh đó nào phải của người tạo ra, nó có sẳn với nó, thì Tánh ấy bởi Trời mà có ra, bởi Lý tự nhiên mà được vậy, Tánh linh ấy do nơi chỗ vô ưu vô lự của đứa trẻ. Trẻ ấy trông lên thì có biết mà sự biết đó lại vô câu là không cố chấp chi cả (unbiased). Cái sự biết như vậy thuộc về Linh Tánh của nó, Tánh ấy không phân biệt võ trụ vạn vật, không chia vật chia Trời, chia Đất, chia Người. Coi trẻ em nó chơi với vật nào nó cho tên vật nấy, chơi rồi nó cho tên khác nó chơi, chơi rồi nó phá, dẩu món đồ chơi ấy cha mẹ nó có mua giá mấy đi nữa, thì nó cũng không kể, hết muốn chơi thì bỏ, không kể đếm là vật gì. Sao vậy? Vì Tánh linh của nó chỉ cho nó rằng: vạn vật có ra trong võ trụ này là đồ giả cuộc, có bền chi đâu. Tan rồi hiệp, hiệp rồi tan, cuộc tuần hườn như thế. Trẻ bởi Tánh linh mà biết cơ tạo hóa, còn người đây, người đã thành nhơn đây, nhờ chi mà biết vậy? Nhờ cái trí khôn hay sao? Nào phải là nhờ cái trí khôn riêng! Nếu rằng nhờ trí khôn đó mà biết, sao lú trẻ chơi giở đập phá đồ chơi đã mắc tiền mua đó lại la rầy nó, muốn cho nó gìn giữ cho còn hoài, nên chỗ thấy và chỗ biết của đứa trẻ với người lớn đều khác nhau, mới hay người khôn lên thì cái Thiên Tánh lại mất đi, vì người lớn chỉ biết có mình mà quên rằng Trời có ở trong lòng. Đứa con nít còn nằm, đứa vừa lớn lên đó, lại nay là Người đây, là mấy người? Như con chim kia từ ở trong trứng nó ra, cho đền khi biết bay liệng trên trời là mấy con ? Có Một thôi. Có Một thôi, sao lại đổi tánh như vậy ? Vì ỷ mình đủ cánh đủ lông mà quên bởi đâu mà mình có ra, nên từ đây cái Thiên Tánh thành ra cái Tập Tánh, mới có sanh ra lý trí như vậy, lý trí ấy mới chia Trời, Đất và Người, có biết cũng chia Tam tài ra Ba Ngôi, biết đâu thảy đều do Vô Vi Độc Nhứt.
Trí phàm ấy cũng kể có mình mà không kể có ai, vì cho ai cũng là khác với mình, nên nếu dùng nó mà xét một sự lý vật chi, thì chỗ thấy biết đều không thiệt, cũng bởi cái Tâm nó lu lờ rồi đó. Thiên Tánh mê thì Tâm đâu còn sáng được. Người ta đã như vậy rồi, thì có còn kể chi! Người mình xuống thế, lại cho rằng sanh ra ở đời đặng lo làm, lo ăn, cho giàu, cho có, nào dè đâu Người xuống thế đặng tu dưởng cái Tánh đó nó ở nơi Tâm mà ra, đặng lập tành cái Tánh tự nhiên cho mình mà thay thế cho Trời ở thế hạ này, vì không Người thì Trời nào có ra mà làm chi, có Nguồi mà không Trời thì Người sống sao cho được, nên Người với Trời không hề rời rả: Người Trời một Thể một Ngôi, Thể ấy là sự Sống, Ngôi ấy là Chơn Lý. Không rõ Chơn Lý thì đâu biết Đạo là con đường Trời, không biết Đạo thì Sống sao trọn vẹn mà rằng Sống. Đạo là vật vô hình, song nó có Thể thì người mời biết, mà Thể nó bao giờ cũng Chơn, do Lý mà ra, nên gọi Đạo là Chơn Lý.
Người đã thành nhơn rồi, cũng còn để cho cái Linh Tánh đó chỉ dẩn hoài hay sao? Mỗi việc cũng cò để cho Trời chỉ bảo hoài cho sao? Sao người không lập thành cái Tánh ấy, vốn nó sẵn từ Trời mà có. Tánh của chim là bay, của cá là lội, Tánh của Người là Thông Hiểu do Lương Tri Lương Năng ở Tâm con người mà phát ra vậy.
Trẻ nhỏ nó có cái tánh đó, mà nó không biết rằng có, Người có má biết rằng có, lại biết dùng cái có đó, thì người có mới gọi thật là có đây theo hạng Trời định cho Người, bằng không vậy thì Người có ra mà làm chi. Có, mà thật Có là Đạo, vì Đạo bao giờ mà Không Có thật và thật Có, nên Người phải thường thật là Người mới là Người thật Có. Người thật Có là người xuống thế, chớ Cái Người kia, không rõ đầu, không biết đuôi, thì chưa phải người toàn vẹn, chưa gọi được là Người Trời đâu, dường ấy còn là Cái Người, biết có xác mà không biết có Hồn, biết có Hồn mà chẳng Anh Linh.
Phải ráng nhớ trong mình sẵn đủ,
Tánh Linh Thầy ban phú từ xưa;
Trăm điều vật dục phải chừa,
Đừng cho mình vấy tiếng nhơ theo người.
Tánh đó là cái Tánh rất lành rất tốt, vì không pha trộn tánh chât nào hết, khi trải qua mấy từng không gian cho đến cõi thần gian này.
Hai. Do Tâm tầm Lý.
Cái Tánh Linh đó (đừng lộn cái lành với dử, lành đây là tốt đẹp lành lẻ, chữ gọi là chí thiện chí mỹ), tự nhiên ở trong Tâm phát ra, khi Tâm đã lặng lẻ, như mặt nước trang bằng, nó mới khiến được lòng người như thế, ấy là lúc Nhơn Tâm đã ra Đạo Tâm, chữ Hóa Nhơn Thành Đạo là đây, nên so lại với lời dạy trong Thánh huấn đã được nghe được biết, thì nào có khác, mới rõ: Người người đều sẵn Tánh lành do Trời ban phú cho mình lúc ban sơ. Vậy mới hay Tánh Người với Tánh Trời là Một Tánh. Tánh ấy là Tánh Lý tự nhiên đó. Điều ấy không còn ngờ vực nữa, mà phải có đến tận cõi hạnh phúc, đến bực Chí Thiện mới rằng thiệt đến, thiệt biết.
Người mà trở lại được cái Tánh Bổn Nhiên đó thì không hề bắt chước ai, nói lùa theo ai, vì biết tự mình có cái Hay tự nhiên như trăm ngàn hoa kia, hoa nào có cái tự nhiên hay của nó. Coi như mấy tay Thiên tài trong nghề bút họa, họ có cái khéo tự nhiên của họ, khéo đó là chí mỹ, vì họ chí chơn đem trọn cả tinh thần vào trong chỗ họa, nào lúc vậy họ có tính đồng tiền hột gạo rẻ mắc chi chi, sau rồi tấm tượng ai trả cao thấp gì thì trả, vậy mới gọi là Tài lành, vậy mới bực Thiên Tài.
Tánh Lành của Con Người cũng thế. Ai có nó mới biết nó là quí, nếu không có nó thi biết nó là gì, nên mới có sanh ra sự bắt chước, sự so sánh, sự hơn thua, tranh quyền tranh thế, đua chen danh lợi, làm như vậy đã lâu đời rồi ra thành tục, nên gọi là Tục Tánh. Cái Tục Tánh này nó ẩn khuất phần thiêng liêng vinh diệu của người, hại chơn ngươn của người, như mây vần vũ che án trời xanh, chớ Trời có lúc nào không trong, mà Trời kia lúc bị mây giăng thì có sáng đâu cho được. Cái Tâm Con Người cũng thế, Tâm như Kiến, Tánh như Gương, Tâm thì bị lục dục che án nên mới lu lờ, chớ Tánh nào có lu lờ, như kiến kia đóng bụi mất sáng, chớ bụi nào phải là Kiến, người mà làm cho cái Tâm mất sáng thì chịu lấy. Người tu Tâm ấy là trau cho Kiến Tánh thành Gương, một khi thành Gương rồi, thì Tâm ấy có Tánh. Gương trong thì vật gì mà không thấu, thấu rồi thì thôi, nào có chứa những chi.
Người còn Tánh lành đó mới đem võ trụ vạn vật vào Tâm mình làm Một với mình cho Hiệp với Lý mà về với Thầy. Đạo Trời là vậy đó.
Thương thay cho Người có nghe thì nghe vậy, biết thì biết vậy, mà nào chịu xét biết, nên tuy những lời nói phải cũng có cảm lòng người, song không thấy chi ứng lại cho họ chút nào, cũng vì Tâm chưa được định nên thiếu Chơn, thì Thần đâu có tỉnh, bỡi lẻ ấy người không quyết đoán được, như vậy thì phần Trí nó lấn lướt phần Tâm mà lạc lối không hay, vì mối chơn truyền ở nơi người bị đứt mà không biết, nên Trời Người không cảm ứng mà phải sa lạc bàn môn. Thánh Huấn:
Này con Tâm Tánh bởi Trời,
Này con Tâm Tánh bởi người phá hư.
Tánh Tâm trong sạch là Người,
Tánh tâm xảo trá là Đời đó con.
Người có cái Tâm đầy đủ Tánh lành, thì có kể cái nghèo khó là gì, vì người dường ấy có thiếu vật chi, thiếu đủ chi cũng tại nơi lòng mà ra. Tâm này lấp cả Võ Trụ, Tánh này che phủ thế gian. Tâm ấy là Tâm Bác Ái, Tánh ấy là tánh Trung Hòa, một mực bình thường, lặng lẻ như bình nước trong. Ấy là giàu về phần thiêng liêng đó.
Kìa, cả và thế gian, mấy bực Thánh Nhơn, mấy trang Đại Hiền Triết, mấy đấng Thiên Tài, mấy nhà Chơn Đạo Đức, ai cũng làm tròn phận sự, có kể chi đồng tiền hột gạo, như chim trời kia có lo dự trử chi chi, mà Trời nào có bỏ đói bao giờ! Nhớ rằng: Phải làm tròn phận sự mới xong, bằng chẳng vậy thì ra kẻ chán đời, nào phải là bực chơn quân tử. Người đến bực chí chơn thì đã phân rành Đạo Đời hai cuộc.
Cái hình hài vật chất, biết nó có ra tại thế gian này nó phải tùng Luật Tạo Hóa, bốn mùa còn phải thay đổi, huống chi nó không thay đổi dạn hình từ phút từ phần, nó phải chịu gió bụi sương nắng, người đã rõ Đạo rồi phải thể lấy đó, nên có gì là than là trách cái duyên phận sao vầy sao khác. Trái lại, cái Tâm được định hoài thì hay. Tâm được Định thì Thần mới đầy đủ mà sanh hóa một cách vô vi điềm tỉnh, mới biết rằng nước non bồi bổ tinh thần, chớ Tâm động thì Thần bì, hạo khí của nó lại hao mòn, thì chẳng những không làm sống thêm cho chơn thân chơn thể, mà lại hại đến sanh mạng của người, thì có tội chi lớn bằng!
Vậy chi chi cũng do Tâm mới có gặp Lý, có câu “Thiên Lý nơi Tâm”, do đó đặng quan sát sự sữ vật vật. Do Tâm cũng là do con đường Bổn Lai của Người bởi đó mà Người có đây, chính là do nơi Gốc của người vậy. Hiện nay ta sống đây, nào phải đợi khi ta trả xác mới về Cựu Vị. Cựu Vị là chốn Ngọc Kinh. Ngọc Kinh đâu là Châu Thiên Đài đó. Đương sống tại thế mà không lìa Ngọc Kinh thì kiếp tiền trình của ta, Ngọc Kinh nào có phụ ta; nhớ câu “Cao Đài vốn ở lòng con đó”. Bằng chẳng vậy, thì Đạo có hai hay sao? Đạo có sống chết hay sao? Đạo không phân biệt gái trai, Đạo không phân biêt nhỉ ngã, Đạo không phân biệt chủng tộc, thì Đạo nào có phân biệt sống với chết! Bởi có Đạo, Người mới có đây, Người có đây, Đạo mới có sống. Gốc Đạo thì do Trời, mà Trời cũng do Đạo mới nên Ngọc Kinh của trái Địa Cầu, của phần xác. Là Châu Thiên Đài đó, người người hiệp đó mà chầu Ngọc Kinh cho ra con Một nhà Chung. Con đường Bổn Lai nào ở đâu xa, nó ở tại Tâm nên Người phải Hồi Tâm luôn luôn mỗi khi đã lạc bước. Hồi Tâm, chánh Lý là trở về cái Lòng Sơ Sanh, Bạch Ngọc Kinh là chốn ấy, mới hưởng được sự yên ổn muôn phần.
Lý đâu người ở đời không biết sự thỉ chung! Mà cũng vì không xét thỉ chung, mới ra bội thiên nghịch địa. Chớ rằng Lý Trí là hay, mới có ra sự tìm cõi vật báu của trái địa cầu, quên rằng Tâm Trung báu lạ vô cùng, Người theo Thiên Lý nơi Tâm mới là Người Đạo. Người Đạo nào có khác đời. Đạo là con đường thông suốt của lòng, dẩn người đến chỗ tận thiện tận mỹ, đến Ngọc Kinh mà Hiệp Nhứt với Thầy, với Trời, với Người dựng nên Trời Đất muôn vật và sanh loài người, là Đấng Chí Tôn.
Ngọc Kiên Tinh
Summary :
Cơ bần đâu phải là nhục :
Cái tiền tài là của đời sắm, đời trọng, nào phải là vật của Trời sanh đâu, nên nào phải phận sự cho Người lo. Trời nào có dạy mở mang khai khẫn ruộng đất rừng rú hoan vu, hay là chiếm đoạt các khoán chất tài nguyên thiên nhiên nơi thế hạ này, đặng làm của riêng cho người, lại còn góp thâu hoa lợi mà tiêu xài đâu. Đã không dạy như vậy mà cớ chi nay người đời lại cho “cơ bần là nhục”? Là không có tiền của, là nghèo, là khó, là xấu, là hổ ? Xấu hổ với ai ? Tiền của chi chi nó cũng là cát bụi của trần gian, vậy tấm thân không dính bụi trần là phải xấu hổ hay sao ? Hay là chác nhiều bụi đời mà quên phần thiêng liêng của mình là tốt ? Tốt với cái trả vay vay trả đó thôi !
Nay xét mình mà thấy và biết được Cơ Bần không phải là nhục, và một khi đã thực tỉnh rồi, mới rõ Cơ Bần là Chánh Gốc của nhơn sanh, thì cái sự vui và biết đó mới thật là vui, như đã tránh khỏi được kẻ trộm nó toan tính cướp lấy cái thiêng liêng của mình.
Hoa Sen :
Kìa hoa sen ở bùn mà nào nó có nhuốm bùn hôi tanh chi đâu, đó là do tự nhiên của nó, vậy nó mới còn tự nhiên. Ai mà lại không ở trong trần thế, nhưng có lòng nhiểm hay là không nhiểm bụi trần đó thôi. Hoa sen kia ví như cái Tâm không lộn với bùn đó, bùn này là cái hoàn cảnh của trần gian.
Hồi Tâm :
Ra đi tu như Đức Phật Thích Ca còn có đôi ba lần lầm, nhưng phải luôn nhớ :
Biết lầm liền biết hồi tâm,
Hồi tâm mới được quỉ khâm thần nhường.
Hồi Tâm là trở lại cái tánh lành nơi tâm, chớ nào nói hồi tâm là ăn năn xưng tội rồi bỏ qua đâu, vì có Hồi Tâm thì Quả nó báo ứng liền ngay lúc ấy, nên người phải cho chắc dạ bền gan trong việc sửa mình, ấy là bền lòng kiên nhẩn, chắc gan thử rèn. Lúc như vậy Tâm phải như tấm gương Hư Không, có rọi mà không chứa, bởi không chứa nên không có khổ, như thế mới biết : Sóng gió ấy là nguồn mạch nước, Gió êm sóng lặng nước như thường, thì mới vừa thấy lý Đạo vậy.
Tam Cang của Đạo Nho:
Làm người phần xác có Ba Giềng (Tam Cang) làm trọng là : Quân, Sư, Phụ.
Làm vị Quân là Chủ, thì phải trọn bổn phận làm chủ, mà Người đã làm chủ cái xác thân này, thì đừng để cho cái xác thân nó khiến lại mình, thì mới là quân chủ tấm thân.
Làm vị Sư là Thầy, thì phải trọn sự giáo hóa cả thân thể, không bộ phận nào mà mình không dạy nó cho nó biết tảo trừ tà tâm trong chỗ động, ngôn, thị, thính. Bộ phận nào cũng có cái Tâm của nó, và sự sáng suốt của nó, đừng cho vật dục che án trong lúc đi đứng, ăn nói, nghe thấy.
Làm vị Phụ là Cha, tiếng Cha có hàm nghĩa chữ Sanh, ấy là thay Trời mà sanh hóa mỗi vật trong thân, chẳng vậy thì trong mình của Người có chi là huyền diệu đâu, như : Nhơn tâm ra Đạo Tâm, Tư tánh ra Thiên Tánh, hận thù ra Bác Ái, kiêu ngạo ra khiêm cung, tranh đua ra nhịn nhường, cả thảy là sanh lại cái Tâm tánh của Trời ban phú ngày xưa.
Người mà thiệt nên Người, thì Ba ngôi đó phải như Một, vì : chẳng lúc nào mà mình không trị lấy mình, thì thật là lúc mình Quân chủ với mình đó ; chẳng lúc nào mà mình không làm vị Sư với mình, ấy là lúc mình dạy lấy mình ; đến khi lảnh phận sự làm Cha, ấy là lúc Sanh thêm sự Sống cho mình, là bồi bổ chơn ngươn cho trọn dể đủ sức rước tiên thiên và hậu thiên Tam Bữu của võ trụ đặng làm sự Sống lại cho Con Người của mình, rồi lại còn phải làm sống lại cho vạn vật võ trụ cho ra cái Sự Sống lớn. Tam Cang về phần tinh thần của Người là như thế.
Muốn nên Người thì phải làm như vậy đó. Vậy còn mê mẩn chi cái bả lợi mồi danh của đới mà phải bị luân hồi vay trả ! Vàng xuy, ngọc tỳ của thế gian có quí vào đâu.
Chủ được cái thân của mình đây, dạy được cái thân của mình, sanh được thêm sự Sống cho mình, xong vậy rồi phải đem ra con đường Đời mà phổ hóa nhơn sanh.
Vô Vi theo Chơn Lý :
Hai chữ Vô Vi mối Đạo Trời, Người được « Vô » rồi, còn phải « Vi », vì hai chữ ấy là mối Đạo của Trời, thì lòng Người cũng phải thể lấy đó mà sống.
Khi ta « Vô » mà « Vi », thì nào thấy có ai để tay vào, tự ta sửa lấy ta, không bắt chước ai, không kể đến tiếng thị thị phi phi, ấy là lúc ta dọn sửa mình ta theo về Lý của chơn Đạo, nay đem ta ra con đường đời, ta lại phải « Vi », là phải hành cái chánh Đạo của ta đã thọ chơn truyền đó, nhưng chẳng lúc nào mà ta quên cái « Vô », nghĩa là : Ta có làm mà như ta không làm, có ta đó như không có ta đó, khác nào Trời kia dựng lò Tạo Hóa, mà Tạo Hóa Công ai thấy, có ngụ ý mà biết được đó thôi. Vô Vi là vậy. Trời dụng cái Đạo của Trời có sẳn nơi cái Tướng của Người cho người thế gian tường tận, không che khuất lấp ai.
Nhơn sanh chưa mấy ai rõ Có mà Không, Không mà Có, nên cho Có là Có, bảo sao không mến vật hữu hình, không say mê về sắc tướng, mà phải đọa nơi trầm luân khổ hải.
Người biết cội gốc của loài người là ở nơi Trời, thì rõ nhơn loại có Một, nào phải là vô số, nên rõ ai cũng là một với mình, lại là ruột với mình, thì lo chi không hiệp nhứt với Cha Trời thiêng liêng. Thấu Lý Đạo, phải hành chánh đạo mới gọi rằng thay thế cho Trời, công quả của Người là đó.
Biết cung mây mấy từng thì Người có mấy bực, sự công bình của Trời là dạy phải lo phổ độ chúng sanh, sao cho lớn nhỏ đề huề, anh trước em sau, thượng hành hạ hiệu, thượng hòa hạ lục, đó là chánh cái phận sự của từ Người ở thế hạ này tùy duyên, tùy thời, tùy cuộc mà ở ăn cư xử, thảy đồng lấy Tánh Trời mà theo con đường tấn hóa thiên nhiên.
Chớ công danh quyền quí tước hàm của người đời trọng đó, nó là một điều phân chia nhơn loại, sanh mãi cái vọng cho người, lại nó như mây tan nước chảy mà thôi. Kìa ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cái xác thân này còn không sống mãi thay, huống hồ danh vọng của đời đâu còn hoài dược. Phải sống làm một với nhau. Đông có mầy, thì Tây có tao, ấy là lẽ cố nhiên ; giữa sông bổng nổi nên cồn, nhờ nhiều hột cát đấp dồn mới nên. Quí hóa thay cho cái tình liên lạc hội hiệp chơn chánh của Con Người với nhau, thảy đều do một Lý, Lý này là Chơn Lý vậy.
Kết luận :
Cái hình hài vật chất, biết nó có ra tại thế gian này nó phải tùng Luật Tạo Hóa, bốn mùa còn phải thay đổi, huống chi nó không thay đổi dạn hình từ phút từ phần, nó phải chịu gió bụi sương nắng, người đã rõ Đạo rồi phải thể lấy đó, nên có gì là than là trách cái duyên phận sao vầy sao khác. Trái lại, Tâm được Định thì Thần mới đầy đủ mà sanh hóa một cách vô vi điềm tỉnh, mới biết rằng nước non bồi bổ tinh thần, chớ Tâm động thì Thần khí hao mòn, thì chẳng những không làm sống thêm cho chơn thân của mình, mà lại hại đến người, thì có tội chi lớn bằng!
Người có cái Tâm đầy đủ Tánh lành, thì có kể cái nghèo khó là gì, vì người dường ấy có thiếu vật chi, thiếu đủ chi cũng tại nơi lòng mà ra. Tâm này lấp cả võ trụ, Tánh này che phủ thế gian. Tâm ấy là tâm Bác Ái, Tánh ấy là tánh Trung Hòa, một mực bình thường, lặng lẻ như bình nước trong. Ấy là giàu về phần thiêng liêng đó.
Kìa mấy bực thánh nhơn, mấy trang đại hiền triết, mấy đấng thiên tài, mấy nhà chơn đạo đức, ai cũng làm tròn phận sự, có kể chi đồng tiền hột gạo, như chim trời kia có lo dự trử chi chi, mà Trời nào có bỏ đói bao giờ! Nhớ rằng: phải làm tròn phận sự của người xuống thế, bằng chẳng vậy thì ra kẻ chán đời, nào phải là bực chơn như.