Thể Liên Tiên Nữ Thuyết Giảng


Qui Y

Triple Gem of seeking refuge in

the Buddha, the Dharma and the Sangha.

Phổ độ Tam Kỳ những bấy lâu,

Đà mừng thấy dạng bực Chơn Tu,

Sơn hà dựng dục trang anh tuấn,

Quan đại đàn nghi Đạo hiển u,

Thế giái suy đồi nhờ kẻ dựng,

Âm thinh cảm ứng tại mình trau,

Chứng cho Đệ Tử nên cơ sở,

Minh Đức Thành tâm vẹn trước sau.


Thượng ỷ chứng đàn:


Thể đắc Kiền Khôn bí diệu huyền,

Liên Đài cực lạc khám hồn nhiên,

Tiên gia khẩu thọ truyền Tâm yếu,

Nữ phái vu tư ngộ giác nguyên.

Qui Y chánh nghĩa: Về Nương,

E đường lầm lạc, phải nương có người.

Xét coi dưới Đất trên Trời,

Có ba Ngôi chánh đáng nơi cậy nhờ.

Minh mông thế giái cõi bờ,

Nhứt nương theo Phật Đại Từ Đại Bi.

Các em vụng tính hẹp suy,

Cứ tưởng rầm rì Phật ở Tây Phương.

Nào hay trước mắt chán chường,

Phật là tri giác ở lương tâm mình.

Một lòng chí kỉnh chí thành,

Rửa lòng gian ác, sạch tình tà tây.

Màng chi lớp thịt da nầy,

Sắc tân bì nhục chóng chầy rã tan.

Kinh văn đã giảng rõ ràng,

Tự Tâm tự Tánh thật đàng Qui Y.

Người đời mảng bị giấc mê,

Trần lạc ái dục, chẳng hề chịu buông.

Biểu sao tỉnh đặng Linh Hồn,

Muốn Qui Y Phật lại chôn Ngươn Thần.

Khuyên em hảy giữ lấy thân,

Trong mình đã sẵn tam thân Phật rồi.

Tánh người bẩm tại khí Trời,

Tam thân Phật Tánh trau giồi bổn căn.

Một là thanh tịnh pháp thân,

Hai là thiên ức hóa thân bồ đề.

Qui Y tự tánh kiên dè,

Báo thân viên mãn chở che hằng hà.

Tam thân thứ tự đủ ba,

Tự Tâm qui hướng, thật thà đừng gian.

Qui Y qui luật muôn ngàn,

Các em tua khá bền gan hẳn hòi.

Qui Phật giảng tóm ít hàng,

Bước qua Qui Pháp, một đàn chỉ cho.

Pháp giả Chánh dã, nghĩa to,

Ngươn Thần giữ chặt chớ vô nẻo tà.

Nhứt Tâm nhứt niệm thiết tha,

Vô nhơn, vô ngã, thiệt là không không.

Vô ưu, vô lự, thong dong,

Bất tham, bất dục, pháp trong tánh mình.

Chớ nên tu phước phóng sinh,

Có mong thì phải có tình ý tham.

Lo sao việc phải, phải làm.

Đừng toan tính trước, dành cam dành phần.

Dầu cho phước đức vô ngần,

Phước tuy có đó, tội hằng đuổi theo.

Vì chưng cố ý dệt thêu,

Phải chi gặp dịp gặp dèo làm đoan.

Vô Tâm vi thiện mới ngoan,

Hữu Tâm vi thiện, ai màng mà ham.

Biết rằng bất chánh mà làm,

Tội càng bội tứ bội tam tội thường.

Chánh là một mực bình thường,

Kìa Trời Nhựt Nguyệt, Âm Dương đêm ngày.

Dầu cho tiết khí đổi thay,

Cũng là mực Chánh chuyển day tư mùa.

Tánh em ham chuộng phù du.

Bạ đâu muốn đó như mù không cây.

Phải cho biết tối biết ngày,

Biết trong, biết đục, vạy ngay cho rành.

Phải cho trí huệ thường minh,

Nghe chơn chánh pháp, bớt sinh mê đồ.

Em ôi! Đạo Chánh ráng tu,

Tham, sân, si, ái, đường ngu ráng chừa.

Đã sanh ra phận liễu bồ,

Giữ gìn cẩn thận, hỏng hờ sao nên.

Đừng tin rằng núi có Tiên,

Tây Phương có Phật, mà quên ơn Thầy.

Đạo Thầy chánh trực ai tày,

Sáng tợ ban ngày, nào khuất lấp ai.

Tà ma ngoại đạo mỉa mai,

Tuyết tan giá rã, sương mai sá gì!

Muốn cho thấu rõ huyền cơ,

Trừ tà thì thấy đường đi trang bằng.

Luôn lời chị giải Qui Tăng,

Tam Qui gìn giữ khích khăn chớ rời.

Tăng là thanh tịnh trong vơi,

Như trời êm lặng, không mòi gió mưa.

Lòng không ham, ghét, chuộng, ưa,

Giữ cho trong sạnh bổn sơ Tánh mình.

Nhựt Nguyệt còn có hối minh,

Tăng qui nghiêm cấm tánh tình đổi trau.

Vững vàng chẳng rúng chẳng nao,

Lặng trang như nước, không chao không tràn.

Công danh phú quí chẳng màng,

Địa ngục Thiên đàng chẳng vọng chẳng mê.

Đại hùng, dõng lực, đại bi,

Vô thinh, vô xú, vô vi, mực thường.

Biết sao thiệt thiệt, hơn hơn,

Biết sao thương ghét, ghét thương cõi trần.

Kìa kìa một đám phù vân,

Mà trời thanh tịnh lần lần trong xanh.

Tăng Qui khuyên khéo giữ gìn,

Cho thanh cho tịnh như bình nước trong.

Các em xao xuyến tấm lòng,

Nước kia liền thấy vô cùng bợn nhơ.

Phong trần là cõi vất vơ,

Lòng đừng ham muốn ước mơ sự gì.

Quan Âm pháp lực thế ni,

Còn cầm thanh tịnh lưu ly ngọc bình.

Huống chi da thịt hôi tanh,

Mà lòng tính tắc, lo quanh Đạo màu.

Cười thay những bực sòng nu,

Chán đời rồi lại mượn màu che thân.

Tây phương lạy Phật nằng nằng,

Quên Phật đã rằng Phật tại Bổn Tâm.

Đại thừa ý vị cao thâm,

Giải cho em rõ đặng tằm cho ra.

Chớ rằng Đạo ở đâu xa,

Minh Tâm Kiến Tánh, liên hoa hầu kề.

Tiểu thừa thêu dặm bộn bề,

Phân môn biệt phái, lộn về đường quanh.

Qui Y Chánh Pháp chỉ rành,

Phải chuyên qui hướng trọn lành mới nên.

Còn nhiều qui luật tự nhiên

Rảnh rang chị sẽ chép biên giảng đàn.

Liên đài quốc sắc thiên hương,

Dựa hầu Thánh Mẫu, hiếm trang như mình.

Khuyên em chí kỉnh chí thành,

Có ngày cũng sẽ tượng tranh Liên Tòa.

23-24 tháng 7 năm Canh-Ngũ (1930)



Phát Minh

Đàn 18 tháng 7 năm Canh Ngũ (1930)

tuân ý chỉ phán nhơn gian,

Thái thượng Tam Thanh tấu Thánh nhan,

Bạch chỉ kim ngôn hồng tự điểm,

Thể Liên Tiên Nữ giáng đài Đàn.

Thuợng ỷ chứng Đàn cho Thể Liên Tiên Nữ dạy Đạo.

Này năm mười chín trăm ba,

Giáng cơ để vận nôm na ít lời.

Rằng khuyên phụ nữ trong đời,

Chớ rằng thấp thỏi mà cười mà khinh.

Người người đều sẵn Tánh lành,

Phật Trời ban phú cho mình ban sơ.

Bởi hay lắc lẻo hỏng hờ,

Hãy tua gìn giữ nghe lời chị khuyên.

Tiên, phàm, tuy có hai tên,

Muốn cho thoát tục thành Tiên khó gì!

Hãy tua hôm sớm tu trì,

Giồi mài Bổn Tánh qui y Linh Hồn.

Phật Trời Đạo Thể Chí Tôn,

Lòng người nham hiểm ba vuông bảy tròn.

Đua chen trí xảo tài khôn,

Lâu ngày Bổn Tánh hao mòn Chơn Nguyên.

Dẫu cho cửu chuyển Thần Tiên,

Không trau Chơn Tánh, tự nhiên lụy mình.

Huống chi phận gái hậu sinh,

Quên đường Đạo Đức, nên hình thể chi?

Các em vụng tính hẹp suy,

Thấy đời rằn rực cứ đi theo đời.

Ham ăn, ham nói, ham cười,

Ham bề vật chất, ham mùi phù vân.

Sao không suy xét cân phân,

Mấy đời cõi tạm cho bằng quê xưa.

Hồng trần phơi nắng tắm mưa,

Sao bằng Tiên cảnh không trưa không chiều.

Hồng trần khổ hạnh trăm điều,

Sao bằng Tiên cảnh tiêu diêu thanh nhàn.

Hồng trần là chốn lửa than,

Bọt nước sôi tràn thấy đó mất đây.

Ai ai chẳng hiểu lệ nầy,

Thác rồi nắm đặng trong tay vật gì?

Đua chen khôn dại thị phi,

Tắc hơi nín thở còn chi đâu là?

Sao bằng giữ mực thực thà,

Rảnh rang xác thịt, ta bà Hồn linh.

Cang thường Đạo thể trọn lành,

Phật Trời qui luật chí thành phương vân.

Hồng trần trọn Nghĩa trọn Nhân,

Hồn linh mới bước đến từng mây cao.

Thiện Tâm chẳng dạ lãng xao,

Thiên đường mới đặng ra vào thung dung.

Một lòng một dạ thỉ chung,

Sớm thơm danh giá, thác phong rỡ ràng.

Hãy xem Thần Thánh muôn ngàn,

Đều người nghĩa khí trung cang mới thành.

Gái mà tiết liệt trung trinh,

Gái mà tiết hạnh, Thiên đình bia tên.

Cung Diêu, Cung Quế, Cung Sen,

Hàng luôn Tiên Nữ, dảy liền Tiên Nga.

Rèm châu, vách ngọc, cột ngà,

Thủy tinh bao phủ, sáng loà như gương.

Người đời yêu chuộn thủy xoàn,

Nào hay đồ vụng đài trang Tiên toà.

Người đời yêu chuộng vinh hoa,

Nào hay bị cái giây ma khớp đàm.

Cõi phàm mà thấu Đạo Trời,

Kìa trang Tiên Thánh cũng người phàm gian.

Giàu sang sánh với cơ hàn,

Giàu sang còn dễ bước đàng chơn tu.

Đố ai phân biệt trí ngu,

Mây bao bịt phủ sương mù mịt giăng.

Người ngu mối Đạo biết phân,

Người khôn chừng thấy ăn năn muộn rồi.

Thấy vầy nên chị ngùi ngùi,

Thương em chị phải tới lui giảng bày.

Tam Kỳ sẵn mối Đạo Thầy,

Khá tua ráng sức cho dày công phu.

Thời giờ thắm thoát bóng cu,

Một ngày qua khỏi, ngàn thu không tìm.

Nữ sanh là phận các em,

Không lòng sốt sằng, càng thêm lạc lầm.

Chị xin Đức Mẹ chế châm,

Cho chị giáng bút, thánh âm phân trần.

Mẹ cho chị xiết nỗi mừng,

Nên chị vội vã ân cần đến đây.

Phái Nam đã đủ chơn tay,

Phái Nữ đến rày, xem thiếu chị em.

Nghĩ coi tự cổ chí kim,

Làm thân con gái mỏng mềm súc thua.

Hêu đòi cờ bạc hốt vùa,

Nết xấu ráng chừa, đặng giữ thân danh.

Khuê môn phận gái đã đành,

Đến việc tu hành lại cũng rút co.

Đường ngay ít kẻ đắn đo,

Đường gai nẻo gốc lần mò lủi đi.

Phật Trời thương xót xiết chi,

Đã bày ngũ giới, tam qui rẽ ròi.

Ngặt lòng tín ngưỡng lôi thôi,

Có việc cầu Trời khẩn Phật tứ tung.

Từ đây khuyên khá rèn lòng,

Nghe lời chị bảo, chí công tập tành.

Công phu, công khoá, công trình,

Phân rành chương thứ phân minh tỏ tường.

Thể Liên Tiên Nữ