Nhị Thập Thủ Liên Hường


Nhị Thập Thủ Liên Hườn


Thánh Huấn của Thánh Thất Kiên Giang

24 tháng 6 năm Canh-Ngũ (20-7-1930)


Ngọc ngà châu báu của Trời ban,

Hoàng cảnh sao xem thấy nhộn nhàn,

Thượng phẩm cung tường ai dễ thấu,

Ðế quyền đâu sái mảy trần gian.


Các con lớn nhỏ thấy càng thương,

Lắc lở gần đi muốn lạc đường,

Tin cậy lời ma sao sốt-sắng,

Ước ao kinh Thánh lại lương khương.

Gương trong chớ để chi phơ phất,

Tơ trắng đừng cho chút vấn vương.

Một mảy lòng sai mau sửa lỗi

Ðừng cho trần khí nhiễm đàn tràng.


Ðàng tràng cao thượng mới vừa yên,

Còn muốn mang lời với Tán Tiên,

Pháp Chuyển sanh đều may khỏi dữ,

Ma cơ viện cớ ắt không hiền.

Chanh ranh bánh trước đà lăn úp,

Chợp rợp xe sau đợm ngửa nghiêng,

Công việc muốn làm, làm chẳng hỏi,

Khen cho mãi mãi để Thầy phiền.


Thầy phiền nào có ích chi đâu?

Vụng tính không ngừa việc trước sau,

Thấy dại chẳng răn thêm luốt lát,

Bởi thương ít phạt lại lau chau.

Từ đây quy luật thêm nghiêm ngặt,

Mãi tới chương trình cứ sửa trau,

Chánh quả được thành cho giáng bút,

Cấm đừng kẻ khẩn lại người cầu.


Khẩn cầu ai có chứng cho đây,

Khéo sắm nề cho quỷ phá chay,

Ruộng sẵn, tiền dư, toan phá của,

Mưa sa, nước ngập, khó gieo cày.

Năm lừa, bẩy lọc, vừa mừng đấy,

Một lỡ, hai lầm, gẫm xót thay.

Có chút lòng thành tua gắng sức,

Chớ sa nẻo vậy, bỏ đường ngay.


Ðường ngay kỉnh Phật với thờ Trời,

Chớ thấy thương rồi lại dễ ngươi,

Một dạ thành tâm quên gắn bó,

Trăm điều ma quỷ dục tơi bời.

Gai chông án mặt tua ruồng bỏ,

Ðạo Ðức gìn lòng mới thảnh thơi,

Có chí thì nên lâu phải được,

Bồng lai, nhược thủy, sức đua bơi.


Ðua bơi chi cái thú yêu tà?

Nước trí non nhơn sẵn vốn ta,

Kinh kệ sân vàng , vòng Thái Ất,

Mốc mưa bụi đỏ báu Di Ðà.

Trăng trong, gió mát nào eo hẹp,

Cội cả, nguồn sâu chớ bỏ qua,

Tam giáo dạy ròng lòng tín ngưỡng,

Có đâu Phật Phật lại ma ma!


Phật ma, ma Phật chẻ lòng tin,

Yêu quái chìu theo sửa tánh tình,

Ðạo hạnh nếu không già pháp tướng,

Ngươn Thần hằng phải loạn danh thinh.

Bồ đoàn sớm tối tiêu tiền nghiệt,

Bửu tọa hôm mai giác hậu sinh.

Khờ dại đáng thương, thương mới dạy,

Ðố ai lấp được mắt Thần minh.


Thần minh bất vị thói gian hùng,

Lánh hé ngờ qua luật chí công,

Ẩn bóng Tam Kỳ, tuồng Ðạo Ðức,

Bia danh Thượng Ðế, bộ thung dung.

Chữa mình mượn tiếng đời ân xá,

Phỉnh chúng lầm đường tội bất dung.

Lộng lộng lưới thưa đâu dễ lọt,

Ðể cho đứa nịnh nhuộm màu trung.


Trung thành can trực chẳng vơ quàn,

Mới được danh đồn tiếng dậy vang,

Mạch nước báu dân lòng sắt đá,

Của chùa mối Ðạo dạ son vàng.

Tu trì chỉ nẻo khuyên đem lối,

Công quả tìm phương khá dẫn đàng,

Sau trước một lòng bồi cội phước,

Thi ân đùm bọc đứa cơ hàn.


Cơ hàn vấn vít đứa hàn vi,

Ðời có từ tâm phải nghĩ suy,

Bố thí nét son bia Ngọc bản,

Quả công sớ trắng tấu đơn trì.

Dẫu rằng dưới thế không hay đó!

Chớ tưởng trên Trời chẳng biết chi.

Nền thấp phải bồi, bồi mới vững,

Ráng lo công quả thất Tam Kỳ.



Ngọc trắng lồng cung điện.

Hoàng danh vững sắc son,

Thượng thanh quyền Chủ Tể,

Ðế tọa vững sông non.


Tam Kỳ hóa Ðạo chốn Kiên Giang,

Nhơn thấy dày công bước vững vàng,

Khổ hạnh luật nghiêm theo phép Phật,

Trường trai Thầy chế lúc bua quan.

Hồi hương động đến Như Lai Ðiện,

Ngọc quế đồng vui Tổng Cửu Phang,

Trước đã sẵn phê con thấy hiểu,

Nhơn công thiết lập nhứt trai đàn.


Trai đàn còn hiếm bực Chơn Tu,

Dạy dỗ đem tai lóng chực hầu,

Phải mặt danh hiền, danh phải chuộng,

Thêm người Ðạo Ðức, Ðạo thêm mầu.

Trưa chiều công quả Tam Kỳ Miếu,

Khuya sớm hương hoa Ngũ Phụng Lầu,

Dìu dắt đoàn em khuôn tánh hạnh,

Trước sau cho vững chí công phu.


Công phu bền bỉ bởi tiền duyên,

Bính đắc kỳ công thật đáng khen,

Ngũ nhạc mối chia dầu sức ráng,

Kiên Giang gốc chánh phải lo kiều.

Ðứng đầu trong họ bằng dời đổi,

Nối gót theo mình phải đảo điên,

Ðâu quý cho bằng quê đất tổ,

Chín mười cân gióng giá Thiêng Liêng.


Thiêng Liêng ung đúc giá danh người,

Nghi chọc chi cho Sóc nhạo cười,

Ngọc phải trau dồi người đức hạnh,

Con tua bền bỉ chí tài bồi.

Nết vui tánh tốt đời yêu mến,

Ðất béo nguồn sâu cội tốt tươi,

Công quả còn non tua ráng sức,

Tự nhiên mùi xạ gió đưa hơi.


Gió đưa hơi mát cảnh Cao Ðài,

Người đó chuông kình khách vãng lai,

Nghe kệ tánh phàm khuyên sửa đổi,

Lóng kinh lòng tục ráng giồi mài,

Vững thân Ðạo Ðức khuyên lơn bạn,

Mang tiếng Từ Bi tủi hổ trai,

Bay nhảy phải noi gương chánh đáng,

Ngựa hay nhờ biết sức đường dài.


Ðường dài thâm thẩm lắm con ôi!

Biển sóng thuyền chinh chớ thả trôi,

Bảy liệu ba lo đừng lấp lững,

Một vai hai gánh mựa lôi thôi,

Tình anh nghĩa bạn đền đâu phỉ,

Khế vợ nợ con trả chữa rồi,

Ðã có ơn cho gương Quản Thược,

Chưn không bén đất chạy đền bồi.


Ðền bồi phu phỉ nghĩa tào khương,

Niệm có nhờ ơn Ðức Trước Sơn,

Rạch Giá nêu danh bia rực rỡ,

Sông Rồng để tiếng tạc quê hương,

Thể Liên đang buổi nghe kinh sám,

Ðồng Tử nhằm cơn khóa học đường,

Nhắn nhủ Kỳ Phùng mau bủa cuộc,

Tam Kỳ đường cả bước bương bương.


Bương bương cho kịp hội Liên Hoa,

Muôn kiếp một kỳ thấy Thích Ca,

Thế giái mịt mờ cơn hỗn độn,

Kiền khôn điên đảo buổi ta bà,

Ðồ Thơ bút tích Tư rồi Tám ,

Ðạo giáo nguyên lưu Một phải Ba ,

Sóng gió khó ngừa thuyền Bát Nhã,

Mở cho đường cả Tát Ma Ha.


Ma Ha Ngọc Ðế cũng là Thầy,

Rộng mở Trời Nam ngắm cảnh đây,

Nhử cá mồi tôm đành đoạn dạ,

Bắt hùm bêu lợn nỡ nào tay,

Vạch đường chỉ ngõ ruồng gai gốc,

Quạt gió lồng sương vén ngút mây,

Khờ dại lắm nên con phải nhọc,

Ôi thôi! nín miệng gượng làm khuây.


Làm khuây làm lảng đặng làm gương,

Nào biết nơi nào chốn lửa hương,

Ôm ấp cấp ca đồ vật chất,

Se sua đua tính cuộc thương trường,

Nghĩa Nhơn chẳng thấm sương đôi giọt,

Ðạo Ðức không đầy giấy nửa trương,

Vì lỗi lầm nên Cha xá tội,

Các con lớn nhỏ thấy càng thương.


24 tháng 6 năm Canh-Ngũ (20-7-1930)



Thể đức như gương chiếu cỏi Trời,

Liên châu năm sắc rạng nơi nơi,

Tiên phàm khuyên chớ đua hay giỏi,

Nữ kỷ nam cang rán chọn lời.


Ðạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng,

Thức tỉnh người mê cõi Á-Ðông,

Mở dạy Trung Nguyên Ngôi Thái Kiệt,

Rải gieo Nam Việt giống Thần Nông.

Ngoài trong đen trắng năm ba số,

Phải trái vàng xanh một ít vòng,

Ðậm lợt mỏng dày cao với thấp,

Hiểu chăng hoặc có khách non bồng.


Non Bồng ai khiến đến thày-lay,

Biết đó sao chưa biết đặng đây,

Tiểu Mụi núp gương cam phận túy,

Ðại Bàn phơi cánh ngóng Trời Tây.

Ðừng rằng cảnh Phật vui chuông trống,

Mà đón lòng người lướt gió mây,

Nầy thấy, nầy chưa, nầy ướm hỏi,

Trầm luân mài miệt cuộc no say.


No say quên lửng nhứt phi tam,

Thập bác nguyên nhân nhị cửu hàm,

Trần tịnh trần sa oai Phục-Hổ,

Ðiển trừ yêu nghiệt báu Già lam.

Ðạo cao khuyên gắn công Ma Niết,

Học quản tua gìn chữ Khiết tham,

Người hỡi, người ơi, người khá tỉnh,

Chớ chia kẻ Bắc lại người Nam.


Người Nam kẻ Bắc lại sum vầy,

Khuyên chớ trầm trồ sự dở hay,

Hùm được thêm oai nhờ sức gió,

Rồng nên vẽ đẹp bởi chìu mây.

Vô biên vô lượng đành không dễ,

Bất kỵ bất cầu mới thiệt hay,

Chín chín nạn dư vừa thấy Phật ,

Thấy rồi rõ Phật ở mình đây.


Mình đây nhiều kiếp biết tu hành,

Biết được mau lo độ chúng sanh,

Nhơn quả trả vay tuồng sóng lượng,

Công danh thành bại bức mây tranh.

Cờ cao túng nước mau xoay thế,

Nhà rộng Trời khuya kịp điểm canh,

Áo bả hài gai chuông tỉnh mộng,

Tài tình khuyên kẻ mựa cành nanh.


Cành nanh quá lắm ích chi đâu,

Tự cổ đồn bia tiếng bể dâu,

Liên lạc vướng mành mưu chước nhện,

Oai phuông tuông nọc thế thần sâu.

Ðã sanh Người báu so Trời Ðất,

Thì để danh lành sanh trước sau,

Sáu chữ Di Ðà nguồn cội cả,

Học cho thông suốt mối cơ mầu.


Cơ mầu Thầy mở dạy miền Nam,

Hào kiệt khuyên mau lánh khớp dàm.

Gióng trống giác mê qua bể ngạn,

Rung chuông khải ngộ đến Lôi Am.

Hư vô Kiến Tánh noi Ca Giáo,

Thanh tịnh Tu Tâm học Lão Ðam,

Kìa bến, nọ bờ, đây lạc thổ,

Màu nào xanh đặng lấn hơn chàm.


Hơn chàm đặng thấy có TamThanh,

Mà đặng cùng không cũng tại mình,

Ðạo Lý Cao Kiên lo chạy cứu,

Công trình Trung Tín nỡ ngồi khoanh.

Minh mông sóng khổ đua chìm đắm,

Chợp rợp trường tu thiếu học hành,

Dầu cạn, đèn khêu, người ngáy giấc,

Chưa hay Trời đã quá năm canh.


Năm canh chuông mõ chẳng ngơi tay,

Khuyên nhủ anh em dậy rửa mày,

Long Hổ Ðiển Quang vầy hiệp đó,

Thần Tiên Xá Lợi sẵn sàng đây.

Ngàn năm một kiếp nên bồi bổ,

Mười tám trăm đều chịu trở day,

Khôn dại đua chen chi nước bọt,

Thôi thôi ráo tiếng giả làm khuây.


Làm khuây đặng có nghĩ trong lòng,

Hà Lạc Ðồ Thơ số tứ tung,

Bắc đẩu chốt then sao chói rạng,

Tây phương hình dạng cõi Hư Không.

Vô-Vi ấy Ðạo phi Chơn Tướng,

Hữu dụng cho người chiếm Hóa Công.

Khuyên rửa Tánh phàm noi Thánh Huấn,

Ðạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng.


17 tháng 9 năm Tân-Vì (1931)