Giải Thuyết Đạo Giáo

Giải Thuyết các Tôn Giáo

Giải Thuyết Đạo Phật

Giải Thuyết Đạo Lão

Giải Thuyết Đạo Nho

Giải Tường Thiên Chúa Giáo



Giải Thuyết Nhà Phật

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca,

Giảng minh thuyết pháp Thiên hoa Liên Ðài

Hằng sa số Phật hôm mai,

Nhứt Tâm qui hướng Như Lai phước điền.

Có câu Phật độ hữu duyên,

Khuyên ai ráng giữ bổn nguyên của mình.

Nhơn sanh vạn vật tối linh,

Tiền nhơn hậu quả, như hình rọi gương.

Phật Ca hạ giáng Tây Phương,

Xả thân cầu Ðạo, bởi thương loài người.

Thương vì sanh đứng giữa đời,

Sánh cùng Thiên Ðịa, xứng Ngôi Tam Tài.

Lý ưng mạnh giỏi hoài hoài,

Có đâu già yếu, hôm mai tật nguyền.

Ðến cơn bịnh khổ triền miên,

Thác rồi hết kiếp, đảo điên trăm bề,

Sanh rồi lại bịnh làm chi,

Lão rồi lại tử, thảm thê vô cùng.

Nghĩ suy chi xiết não nùng,

Tuyết sơn tu luyện, dày công đặng thành.

Quyết lòng độ khắp chúng sanh,

Niết Bàn diệu quả, chứng minh bồ đề.

Rèn lòng nguyện lực đại bi,

Vô thượng, chánh giác, kịp thì viên minh.

Ðạo Phật càng gẫm càng kinh,

Bất sinh bất diệt, minh minh muôn ngàn.

Ðại thiên thế giới mang mang,

Vô biên, vô lượng, thanh ngàn trang nghiêm.

Sắc không, không sắc, nan chiêm,

Vô ảnh, vô tượng, cổ kim diệu huyền.

Tâm lưu nhứt đáng đắc nguyên,

Diệu trung chí diệu, hiển nhiên phi phàm.

Bình Tâm dưỡng Tánh cho kham,

Tu lai cải vãng, chớ ham vọng cầu.

Trong mình sẵn Ngọc Minh Châu,

Trong mình sẵn Phật, phải đâu mà tìm.

Trăng trong, gió lặng, nước êm,

Gay chèo Bát Nhã, khoát rèm Chơn Như.

Lần lần độ bến không hư,

Nọ bờ cực lạc, kìa bờ phi phi.

Vượt qua bát chánh Ðạo chi,

Trần sa vô bất liễu tri hiện tiền.

Trải sang vô sắc trùng thiên,

Linh Sơn chứng quả, vô phiền vô ưu.

Mấy ai rõ thấu Ðạo màu,

Thông hành, thể, dụng, nguyên, lưu Di Ðà.

Dám rằng Ðạo Ấn, Ðạo Chà,

Khinh rằng quái đảng, gọi là dị đoan,

Bắc, Nam, cũng một con đàng,

Sợi tơ khéo nhuộm, xanh vàng tại tay.

Rừng xanh, đố biết mấy cây,

Ðáy sông mấy lớp, cung mây mấy từng ?

Ðất sao chỗ mỏng, chỗ bằng,

Chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ hoằng, chỗ cao ?

Trên Trời đố mấy ngôi sao,

Biển nọ ai đào, núi nọ ai xây ?

Loài người ai tạo ra đây,

Thế gian ai sắm, ai bày thuở nao ?

U ơ dường thể chiêm bao,

Ðáy sông lặn nhào, mò vớt bóng trăng.

Khoe khoe, nói nói, rằng rằng,

Sức người trí thức thắng phần thiên nhiên.

Lại chê báu vật mọn hèn,

Ca sa, tích trượng, hóa duyên vô cùng.

Hiển vi mà rọi trên không,

Khác nào nhắm mắt, lặn sông bòn vàng.

Thước đo mà hiểu dinh hoàn,

Khác nào bầy kiến mò đàn tu di.

Con người chưa thấy sự gì,

Lường Trời đong Ðất, phân bì nhọc công.

Ngũ hành sanh khắc vừa thông,

Tưởng đâu đoạt hết Hóa Công mấy lò.

Ba ngàn thế giới diêm phù,

Mới vừa vừa biết, năm châu mơ màng.

Còn ngoài ngoài nữa mênh mông,

Ðại thiên thế giới, muôn ngàn kiền khôn.

Một mình Ðức Phật Chí Tôn,

Trong ngoài hiểu thấu, chẳng còn sót chi.

Vị lai, quá khứ, hiện thì,

Giảng phân kinh luật u vi rẽ ròi.

Trần sa bể khổ em ôi !

Phải độ mình rồi, đặng độ chúng sanh.

Ðến ngày đắc quả Ðạo Thành,

Siêu thăng thất tổ, độ thanh cửu huyền.

Muốn cho công quả vẹn tuyền,

Rửa xong nghiệp chướng, tập rèn chơn công.

Ngụy tà, phiền não không không,

Tam thân siêu chứng, lục thông có ngày.

Ở ăn mực thẳng, đường ngay,

Cang thường mựa chớ đổi thay tấm lòng.

Khắp trong Tam Giáo Ðạo Ðồng,

Gái mà tiết hạnh, thủy chung trọn đời.

Xử xong cho trọn Ðạo Người,

Nhơn duyên viên giác, Phật Trời chứng cho.

Có người gạt gẫm kẻ ngu,

Rằng thân phận gái, dẫu tu không thành.

Một là thân phận hôi tanh,

Hai là vì bởi số sanh kiếp đày.

Ba vì lòng độc hiểm gay,

Bốn là giống để làm tay chơn người.

Năm là yếu đuối biếng lười,

Sáu là giống để nối giòng người dưng.

Bảy là thân phận chiếu chăn,

Tám là phận phải kẻ chăn người cầm.

Chín là dốt nát, tối tăm,

Mười là đa cảm, đa dâm, đa tình.

Dẫu cho vững chí tu hành,

Là tu hậu kiếp, nguyện thành nam nhi.

Nực cười cho kẻ ngu si,

Ðặt điều lời nói, không vì không kiêng.

Rõ ràng kinh luật có biên,

Hành linh xuẩn động hữu duyên năng thành.

Huống chi gái cũng chúng sanh,

Phật là Từ Mẫu nỡ đành chẳng thương.

Giải cho em đặng tỏ tường,

Giải cho em biết rõ ràng kẻo nghi.

Dầu cho nam tử, nữ nhi,

Ấy là sắc tướng của bề Hóa Công.

Phật là chuyên trọng Tánh tông,

Tánh tông vô tướng, vô dung, vô hình.

Ngươn ngươn, hóa hóa, sinh sinh,

Bổn lai sẵn có Ngươn Tinh, Khí, Thần.

Gọi là Tam bảo chi thân,

Người tua trân trọng, muôn phần chớ rơi.

Còn phần nam nữ vóc người,

Ấy là xác thịt của người phàm gian.

Tu cho đến cõi Niết Bàn,

Siêu phàm nhập Thánh, hoàn toàn Chơn Thân.

Xác phàm gởi lại hồng trần,

Chơn Thân, Tam Bửu về phăng Liên Ðài.

Phật không phân biệt gái trai,

Hễ là đắc quả, thì ai cũng đồng.

Kìa như điểu thú, côn trùng,

Chí Tâm một Phật, thủy chung cũng thành.

Giải cho em rõ ngọn nhành,

Ráng lo ăn học, tu hành cho nên.

Còn nhiều nghĩa lý hiển nhiên,

Ðoạn sau chị sẽ giảng riêng từ phần.

Tu hành em ráng ân cần,

Có thân thì phải giữ thân làm đầu.

Thể Liên Tiên Nữ

Đàn 28 tháng 7 năm Canh Ngũ (1930)

Tây cảnh gìn lòng độ chúng sinh.

Phương nào cũng độ khắp U Minh,

Thích môn huệ Tánh giồi Tâm tướng,

Ca giáo hư vô luyện tánh tình.

Chứng cấp huyền cơ ban nữ phái,

Minh mong Ngọc Sắc hội Tiên danh,

Thế Vân xá lợi đồng vui hưởng,

Liên Các cung Quỳnh bước rộng thinh.

Thuợng ỷ chứng Đàn.

Thể sắc không không hựu bất không,

Liên hòa vạn đóa hiện vu trung,

Tiên đơn ký đắc minh Tâm Tánh,

Nữ nữ nam nam tánh diệc đồng.

Giải Thuyết Ðạo Lão

Kiền khôn thế giới một bầu,

Lão Quân Ðạo Tổ cung Dâu giáo truyền.

Ðạo nguyên tiên, hậu, nhị thiên,

Làm đầu vạn Thánh quần Tiên trên Trời.

Kể từ khai tịch dĩ lai,

Giáng sanh hóa Ðạo, chẳng nài công phu.

Hư không dường thể bóng thu,

Bí truyền Tánh, Mạng, song tu huyền hoàng.

Người tu định nhiếp Âm Dương,

Hình thân bảo dưỡng, bảo toàn linh minh.

Tuy vân: tích khí thành hình,

Âm Dương nhị khí, khinh thanh tượng phù.

Trọng trược ngưng hóa địa cầu,

Bắc Nam thiên trục, thiên xu chẳng dừng.

Ngày, đêm, Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần,

Sanh Nhơn, sanh vật, lần lần mở mang.

Gọi là một cõi Thế Gian,

Ngoài đây còn có ba ngàn minh mong.

Ðạo thông Thiên Ðịa vô cùng,

Diệu truyền yếu chỉ Hóa Công dạy đời.

Chỉnh xem ý vị của Trời,

Lặng trang êm phẳng, không hơi, không rằng.

Chơn không, Thủy, Hỏa, đôi vừng,

Chuyển luân Nhựt, Nguyệt, lưu tuần ngày đêm.

Hằng sa tinh tú thuộc Kim,

Như châu như ngọc để ghim nửa lừng.

Gió đông thay đổi Hồng quân,

Ấy là chơn Mộc choáng phần không trung.

Chuyển gầm sấm sét đùng đùng,

Ấy là chơn Thổ vẫy vùng thiên oai.

Ngũ Hành ấy thuộc phần Trời,

Còn phần dưới đất, thì người đều thông.

Con Người sanh ở giữa vòng,

Ðủ Trời đủ Ðất ở trong thân mình.

Ngũ Hành còn phải chia rành,

Âm Dương, Thiên Ðịa, hình danh thể nào.

Y gia đã có công cao,

Chia hai tạng phủ , trỏ vào Âm Dương.

Dùng cân Tạo Hóa đặng lường,

Những đồ vật chất thuộc nguồn chơn âm.

Hiên, Kỳ mối Ðạo cao thâm,

Người chưa hiểu thấu, nên lầm nên sai.

Ngũ Hành phải biết có hai,

Có hình thuộc Ðất, ở Trời thì không.

Nhơn Thân là Tiểu Kiền Khôn,

Khinh thanh, trọng trược, hiệp thành hóa sanh.

Tạng phủ là Âm Ngũ Hành,

Còn Dương Ngũ Khí lưu hành châu thân.

Học Ðạo càn phải biện phân,

Giữ gìn bất đổ, bất văn mới mầu.

Phóng Tâm, âu phải rán thâu,

Thâu Tâm Ðịnh Tánh, đặng cầu Thiên Chơn.

Tai nghe quá giận quá thương,

Ấy là Thiên Thủy dẫn dường nơi trong.

Bắt mùi hoặc thích hoặc không,

Thiên Kim mơi mũi, hơi lồng thấu tim.

Miếng ngon hoặc nhớ hoặc thèm,

Lưỡi là Thiên Hỏa chiếp đem vào lòng.

Sắc nào ưa đẹp muốn trong,

Ấy là Thiên Mộc, tại tròng con ngươi.

Vật dục che lấp lòng Trời,

Ấy là Thiên Thổ, ý người ham mê.

Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, ráng dè,

Ðiều quang Tâm ý, thiệt là Chơn Tu.

Ngũ Hành, Thiên Ðịa mù mù,

Mà mình sẵn đủ, lựa cầu đâu xa !

Âm Dương nhị khí của Ta,

Dục trong phân biệt, điều hòa Chơn Như.

Gìn lòng thanh tịnh, không hư,

Lòng đừng xao dợn, đặng trừ bợn nhơ.

Lòng đừng vọng tưởng ước mơ,

Ý tua đính tóm, chơn cơ hoàn toàn.

Hãy xem võ trụ dinh hoàn,

Ðều đồ hư mục, chớ màng chớ mê.

Tục rằng: sống gởi thác về,

Thần Tiên bất lão, có hề chi đâu !

Dẹp xong ngũ tạc làm đầu,

Quan tâm quan vật, rồi sau tập tành.

Tam quang rọi thấu ngươn thần,

Tam Thân hiệp nhứt chơn nhơn công thành.

Ấy là đến bực trường sanh,

Còn muốn thân hình bạch nhựt siêu thăng.

Phải lo bồi đấp bổn căn,

Thiên kim diệu lý sẽ phân có ngày.

Nhứt Tâm tín ngưỡng tới Thầy,

Lời rằng: tao đố không Thầy mầy nên.

Các em sốt sắn cho bền,

Muốn cho nhà cửa vách phân vững vàng.

Phải lo nền niếp cho an,

Có Kinh cảm ứng chỉ đàng tu thân.

Mới đây "Thiệp Quyết Tu Chơn"

Của Thầy ban bố, công ơn vô ngần.

Có phước nên mới có phần,

Có đâu nghe đặng lời trân trọng nầy.

Huỳnh đình, tu luyện đêm ngày,

Tu Tâm Dưỡng Tánh, sánh tày Hóa Công.

Kiếp đời, cá chậu chim lồng,

Trăm diều giả dối, có thung dung gì !

Trời kia mà giả mới kỳ,

Kìa mây khi nổi, khi bay mấy hồi.

Ðất sao chỗ lở, chỗ bồi,

Cũng là giả cuộc, có đời chi đâu !

Người đời lúc mạnh lúc đau,

Hoặc còn hoặc chết, chiêm bao làm tuồng.

Vi chưng ngũ tặc loạn chơn,

Tâm thần chẳng tịnh, nên vương lưới trần.

Âm Dương, Ðạo Ðức sáng trưng,

Dùng gương vô kiệt, luyện thần hư vô.

Phải phân tà chánh lưỡng đồ,

Bàn môn tả đạo, ai khờ phải mang.

Nghĩ coi cũng một con đàng,

Nó chia nam bắc, rộn ràng lăn xăn.

Ðiều ly, bổ khảm tưng bừng,

Thiêu đơn luyện hống, nhố nhăn mơ hồ.

Ðường ngay em cứ bước vô,

Lâu nay tà giáo làm trò gì nên !

Rán nghe lời chị dạy khuyên,

Có ngày cùng đặng bạn Tiên cung Trời.

Pháp ngôn sơ dẫn ít lời,

Huyền gia Bửu Pháp, nhiều lời dạy sau.

Thể Liên Tiên Nữ

Đàn 1 tháng 8 năm Canh Ngũ (22-9-1930)


Thái thỉ gây nên cuộc Hóa Công,

Thượng thương ly hận luyện Đơn Cung,

Đạo Tiên hiển hích điềm linh ứng,

Tổ Thánh roi truyền sự cảm thông.

Chứng kiến quan minh câu phổ độ,

Đàn tràng giảng giải ý chơn tông,

Thế gương bửu kính cho đời hiểu,

Liên tọa đài xây khắp Đại Đồng.

Thuợng ỷ chứng Đàn.

Thể đồng Thiên Địa diệu vô cùng,

Liên dẩn hương hề Nguyệt dẩn phong,

Tiên giác thệ tâm khai hậu giác.

Nữ ban tùng thử bộ Chơn Công.


Giải Thuyết Ðạo Nho

Thánh Kinh Trung Hiếu làm đầu,

Dầu Nam dầu Nữ phải trau trọn niềm.

Trải xem sách vở cổ kim,

Ngàn kinh muôn điển dạy kềm thảo ngay.

Trời cao biển thẫm đất dày,

Nho gia vững đặt chẳng lay chẳng sờn.

Dạy người luân lý cang thường,

Dạy người Trung Tín Nghĩa Nhơn vuông tròn.

Dạy cho biết phép biết khuôn,

Lễ nghi Ðạo Ðức cội nguồn dân sanh.

Trung Dung hai chữ chí thành,

Phát minh Thiên Ðịa lưu hành căn cơ.

Dịch Kinh chép để sờ sờ,

Hà Ðồ lại với Lạc Thơ rõ ràng.

Thánh Nhơn nghiện cứu Âm Dương,

Ngũ Hành sanh khắc tuần hườn châu nhi.

Ðạo thông từ lúc Phục Hi,

Lần qua Ðại Võ đến kỳ Văn Vương.

Châu Công, Khổng Thánh tiếp nương,

Lập thành mối cả mở mang con người.

Từ sanh có Ðất có Trời,

Có Người mới đủ sánh ngôi Tam Tài.

Âm Dương một Lý mà hai,

Như Người một giống gái trai hai hình.

Trời thì sanh có Năm Hành,

Người thì Năm Ðức sẵn in vào lòng.

Suy ra cho tột cho cùng,

Thiên Nhơn nhứt Lý quán thông chẳng rời.

Nghĩ rồi mới rõ Ðạo Trời,

Rõ rồi nên phải bày lời dạy khuyên.

Xưa nay những bực Thánh Hiền,

Thay Trời dạy Ðạo sách biên muôn vàng.

Dạy cho khắn khích Tam Cang,

Dạy cho gắn chặt Ngũ Thường Nhơn Luân.

Thi, Thơ, Lễ, Nhạc điển phần,

Hiến chương Văn Võ noi chừng Thuấn Nghiêu.

Tam Thiên Tam Bá đủ điều,

Dùng gương tiên giác dắt dìu hậu lai.

Dạy đời chẳng sót một bài,

Tề gia trị quốc chẳng sai phân hào.

Nho gia rộng lớn xiết bao,

An dân an quốc công cao muôn đời.

Những điều cư xử làm người,

Chẳng sót một lời Ngài nỡ bỏ qua.

Ðến phần triết học cao xa,

Sánh cùng Phật Lão cũng là mỉa mai.

Kẻ sau học hỏi sơ sài,

Chia phe, chia phái, biếm bài khen chê.

Chưa thông ý vị Trọng Ni,

Mà chê Ðạo khác thuộc về dị đoan.

Chẳng dè Tam Giáo Thánh Nhơn,

Truyền trao mối cả phải nuơng theo thời.

Nói rằng Phật Lão hại đời,

Chẳng dòm Khổng Giáo hiếm người bội sư.

Ðạo nào cũng tại người hư,

Ðạo nào cũng giữ khư khư Tánh Trời.

Bổn sơ khuyên chớ đổi dời,

Chí ư chí thiện trọn đời đừng sai.

Ngọc trong nhờ cố sức mài,

Người muốn nên tài thời phải chí tâm.

Tấc vàng tấc bóng quan âm,

Ba dư mựa chớ tưởng cầm rằng chơi.

Muốn cho đứng đợt với đời,

Nhơn hòa, Ðịa lợi, Thiên thời phải thông.

Muốn rành thể dụng Hóa Công,

Âm Dương động tịnh chấp trung điều hòa.

Mọi người noi giữ giềng ba,

Gìn câu tha thiết, trát ma chớ rời.

Nhơn Tâm nguy lắm em ôi!

Gìn lòng thận độc giữ lời u vi.

Quang phòng hai chữ Trí Tri,

Chánh Tâm Thành Ý, vô khi không điền.

Hi Hiền, Hi Thánh, Hi Thiên,

Do mình trì chí tự nhiên đặng thành.

Có câu Thiên Ðịa hiếu sanh,

Họa dâm phước thiện bởi mình mà ra.

Khuyên đời khá bỏ thói tà,

Tồn Tâm dưỡng Tánh ta bà hư thân.

Khắp trong Tam Giáo Thánh Nhơn,

Người Tiên, người Phật Thánh Thần giống nhau.

Dạy điều ngay thảo làm đầu,

Làm lành lánh dữ trước sau một niềm.

Bình tâm chánh nghĩ mà xem,

Ðạo Nho Thích Giáo thù hiềm bởi đâu ?

Chẳng qua tại kẻ làm đầu,

Xảo ngôn dĩ tử loạn châu no mình.

Có câu Thiên Ðịa lưu linh,

Vô thinh, vô xú, vô hình, vô danh.

Mang mang Thiên Lý lưu hành,

Vô ý, vô tất, ngươn hanh trinh kiền.

Trung Dung bất diệt bất thiên,

Quang tiền dũ hậu danh truyền thiên thơ.

Trạch dân tri chúa thân tu,

Dương danh hậu thế qui mô vô cùng.

Thánh ngôn thiên tải kỳ phùng,

Các em mựa chớ tấc lòng đơn sai.

Ngày đêm hôm sớm khuya mai,

Sắt kia có thuở mình mài nên kim.

Thể Liên Tiên Nữ

Đàn 7-8 tháng giêng năm Tân Mùi (23-2-1931)


Chí đức hóa thương sanh,

Thánh mộ tập đại thành,

Văn chương nhi võ hiển,

Tuyên Đạo định sanh kinh.

Chứng thủ Tam Tông Giáo,

Thế trình ngũ sắc quan,

Liên hoa chơn thắng cảnh,

Đàn sỉ Tánh Tâm minh.

Thuợng ỷ chứng Đàn.

Thể dụng hoàn toàn doản khuyết trung,

Liên tư khiết bạch tự nhiên dung

Tiên Thiên Đạo hiệp tam nhi nhứt,

Nữ khảm Nam Ly đoạt hóa công.


Giải tường Gia Giáo


Phương Đông sao tỏ đem điềm,

Giáng sanh tại Bết Lê Hêm Ngôi Nhì.

Gá thai trinh nữ Ma Ri,

Thánh Thần phép nhiệm trổ vì cứu dân.

Bấp têm Công Lý với Jean,

Đồng không trối quỉ sa tăng dỗ dành.

Thế gian tôi tích như sơn,

Tin thờ đường dối biến lờn nẻo ngay.

Tổ Tông tội chất dẫy đầy,

Suốt từ sáng thế nhẩn nay đến giờ.

Muốn tha cho kẻ dại khờ,

Sai con chịu gánh cam go chẳng phiền.

Ban cho trọn phép trọn quyền,

Sàng dê trấu lép chọn nguyên cội rồng.

Lại ban phép tắc vô cùng,

Thiên Thần ứng hiện, giao thông chẳng dừng.

Rộng dung cho kẻ ăn năng,

Còn làm chức vụ đặng bằng phép Cha.

Phép lành đồn khắp gần xa,

Dùng quyền chữa đuổi tà ma ám người.

Rõ ràng Con Một Chúa Trời,

Trăm điều ứng nghiệm theo lời tiên tri.

Các người đón hỏi Ra Bi,

Bảo nhau rằng gặp Mê Si cứu đời.

Sứ đồ chọn vạn lưới chài,

Giảng bày phép lạ lưới người khắp phương.

Chữa nhiều bịnh liệt dị thường,

Kẻ phung người bại mạnh dường trở tay.

Phước cho kẻ khó lắm thay,

Nước Cha dành để chực ngay mấy người.

Hiện giờ khóc lóc hổ người,

Nước Cha sẽ đặng tươi cười vẻ vang.

Hiện giờ đói khó khổn nàn,

Nước Cha no đủ rõ ràng ngày sau.

Hiện giờ trọng Chúa làm đầu,

Bị người hân huổi chớ sầu não chi.

Vì xưa các Đấng Tiên Tri,

Kẻ ngoài đối đãi cũng y một đường.

Đến chừng đến nước Thiên Đường,

Phần thưởng sẽ thấy hiển vang vô cùng.

Khốn cho những kẻ dại khùng,

Ỷ mình sang trọng chẳng lòng lo xa.

Chẳng dè kìa nước Chúa Cha,

Để dành rước kẻ người ta biếm bài.

Khốn cho những kẻ vui cười,

Kìa ngày đói khát, chực ngươi sẵn sàng.

Khốn cho kẻ đặng khen quàng,

Nghe lời thánh giả phụ phàn Chí Tôn.

Chúa Cha thương xót các con,

Vưng Cha phán dạy phép khuôn xử đời.

Dầu ai sỉ nhục tơi bời,

Ta đành cầu nguyện chớ đành oán vưu.

Dầu ai rủa sả ghét cừu,

Ta đành chúc phước chớ cưu lòng hiềm.

Thù ta, ta triều mến thêm,

Ghét ta, ta lại càng thêm ơn lành.

Dầu ai đánh vả má mình,

Đưa luôn hai má cho đành lòng ai.

Dầu ai bứt lột áo ngoài,

Áo trong cũng để cho người lấy luôn.

Cho ra chớ có trong hườn,

Gìn lòng cứu giúp làm ơn kẻ thù.

Ở đời như dại như ngu,

Đừng lòng đoán xét cơ cầu việc ai.

Nầy lời căn dặn một hai,

Bền lòng tha thứ mọi người hiếp ta.

Trong tròng người mắc cây đà,

Mà lo lấy rác dùm ra mắt người.

Cây nào trái nấy mà thôi,

Lành thời lành trả, dữ thời dữ vay.

Vững vàng móng đấp nền xây,

Trên vừng đá trãng gió lay đâu sờn.

Đức Hổn Ngươn Thiên Sư