LIÊN QUAN GIỮA TƯ TƯỞNG VÀ HÀNH ĐỘNG
Nhà bác học Nga Pavlov đã làm những thí nghiệm đặc biệt về sự liên quan giữa tư tưởng và hành động.
Tuy Ông chỉ thí nghiệm với loài chó, nhưng dạ dầy của chó và của người chúng ta cũng không có gì khác biệt. Ông chọc cuống học một con chó, dùng một ống dẫn đồ ănra ngoài, sau khi đồ ăn đã được nhai trong miệng.
Cảm giác đồ ăn nhai trong miệng đã khiến dạ dày làm việc, nên mặc dầu đồ ăn đó không đi xuống dạ dày, dạ dày vẫn cứ làm việc, như đồ ăn đã xuống thực.
Mặt khác, nhà bác học này còn thí nghiệm cho con chó nhìn một món ăn nó ưa thích, và cảm giá này đã khiến dạ dày tiết ra một số vị dịch, tương đương với số vị dịch tiết ra khi con chó nhai một trăm gram thịt.
Ngược lại, người ta dùng một ống đặc biệt đưa đồ ăn vào dạ dày con chó, không cho nó nhìn thấy chính đồ ăn, người ta nhận thấy việc tiêu hóa rất chậm chạp; chậm chạp tới nỗi một giờ rưỡi, chỉ tiêu hóa được 6 gram; nhưng nếu trong lúc đưa đồ ăn vào dạ dày, người ta làm tăng cường cảm giác của nó, bằng cách cho nó nhìn thấy đồ ăn, thì một giờ rưỡi nó tiêu hóa tới 30 gram.
Một diễn giả đã làm thí nghiệm sau đây để chứng minh tư tưởng và hành động liên quan mật thiết với nhau.
Ông để trên bàn một ve chứa một chất lỏng trắng: và ông tuyên b61 với toàn thể thính giả trong phòng: Ông sẽ cho mở nút ve ra, ve này đựng một chất lỏng có mùi rất mạnh ngửi giống mùi tỏi, hơn nó lan truyền rất nhanh.
Vậy nếu thính giả nào vừa ngửi thấy mùi tỏi, xin giờ tay lên, để Ông có dịp thí nghiệm về tốc độ lan truyền của hơi đó.
Thế rồi, một tay cầm đồng hồ, tay kia Ông mở nút ve ... chỉ trong vài ba giây: tất cả thính giả từ đầu phòng tới cuối phòng đều lần luật giơ tay báo hiệu mình đã ngửi thấy mùi tỏi.
Thực ra đó chỉ là một ve nước lã, không có mùi vị gì.- Nhưng tại sao khán giả lại ngửi thấy mùi tỏi?
Chính là vì diễn giả đã nói tới mùi tỏi, gợi trong đầu óc các khán giả đó liên tưởng tới mùi tỏi. Vói liên tưởng này, mọi người bị “yên trí” và cảm thấy mùi tỏi thật sự. Tư tưởng mùi tỏi đã khiến con người ngửi thấy mùi tỏi.
Chính các bạn đang đọc những dòng chữ này đây: các bạn hãy ngưng lại giây lát, và các bạn hãy tưởng nghĩ tới chanh chua, me chua, hoặc ô mai: tự nhiên các bạn thấy nước miếng chảy ra. Đó, chính tư tưởng chanh chua, me chua, ô mai, đã khiến các hạch nước miếng trong miệng ta hoạt động.
Chevreul đã làm thí nghiệm sau đây, và thấy kết quả một trăm phần trăm đối với những người yếu thần kinh.
Ông cho buộc một chiếc nhẫn vào một sợi dây: dây này buộc vào đầu ngón tay một người và chiếc nhẫn được thả vào trong một ly nước. Thế rồi bắt người đó nghĩ tới một con số nào, thí dụ số 3: tự nhiên chiếc nhẫn sẽ gõ vào chiếc ly ba cái.
Tại sao vậy?
Vì tư tưởng về con số khiến ngón tay hoạt động theo tư tưởng đó. Nghĩ tới con số 3, ngón tay sẽ cử động ba lần.
Người ta kể: hai bệnh nhân ho lao cùng tới phòng mạch một bác sĩ nọ, một người bệnh nhẹ, và người kia bệnh nặng. Vị bác sĩ sau khi đã khám nghiệm hai bệnh nhân, ông bảo ca hai ra về, và ông sẽ cho biết kết quả sau khi đã thử đờm và máu.
Thật tai hại, vị bác sĩ này đã bỏ nhầm thơ. Thơ người bệnh nhẹ bỏ vào phong thơ của người bệnh nặng và ngược lại. Người bệnh nặng nhận thơ, cho biết bệnh tình không đáng kể, chỉ cần nghỉ ngơi ít lâu, tình trạng sức khỏe sẽ bình thường. Còn người bệnh nhẹ lại nhận được thơ báo bệnh trầm trọng, không hy vọng chữa khỏi.
Lạ lùng thay: người bệnh nặng, nghỉ ngơi ít lâu, bệnh lao khỏi hẳn; còn người bệnh nhẹ mỗi ngày bệnh thêm trầm trọng, và sau cùng đã chết vì bệnh lao.
Sự kiện trên nói lên ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng. Người bệnh nặng vì nuôi tư tưởng lạc quan, chắc chắn sẽ khỏi nên khỏi thực; còn người bệnh nhẹ vì tin lời bác sĩ, luôn có tư tưởng bi quan về bệnh tình, nên cơ thể không bình phục được.
Ông H.J. Englert, một người ở Ấn Độ, bị chứng sưng thận chữa đủ các thầy thuốc, mà bệnh tình mỗi ngày mỗi nặng. Ít lâu sau áp huyết tăng, bác sĩ nói đã tới độ nguy hiểm, ông hãy gấp lo liệu việc chúc thư ... Ông Englert nói: “Tôi liền về nhà, xem sổ sách đã trả hết nợ chưa và lúc nào cũng nghĩa tới cái chết. Vợ con đau khổ vì tôi, khóc thảm thiết. Tôi lại càng bi quan hơn, mỗi ngày mỗi vùi mình vào thất vọng. Nhưng sau một tuần than thở, tôi tự nhủ: thật mình đã hành động như một thằng điên. Còn sống một năm nữa, sao không rán vui cho hết đời đi đã. Thế rồi, tôi ưỡn ngực, mỉm cười, và bắt mình vui vẻ hoạt động như người khoẻ mạnh. Lúc đầu, kể là khó thật; nhưng tôi gắng sức tỏ ra dễ dãi vui vẻ, và như vậy chẳng những dễ chịu cho gia đình, mà tôi cũng cảm thấy người khoan khoái nữa.
Thế rồi tôi thấy trong người khoẻ khoắn thật. Bệnh giảm dần, áp lực của máu cũng hạ xuống, và tôi hết bệnh. Chắc chắn có điều này, nếu tôi cứ nghĩ rằng thế nào cũng chết, thì lời bác sĩ tiên đã sẽ thành sự thật.
Nhưng tôi đã thay đổi thái độ tinh thần để giúp cơ thể tôi tự trị lấy căn bệnh”.
Chính những tư tưởng vui vẻ đã giúp cơ thể ông H.J. Englert tự hồi phục.