Những bài Văn tế hay

Văn tế nghĩa sĩ trận vong

Thể thơ: Phú, thời kỳ: Nguyễn

Facebook Khác

Than ôi!

Trời Đông phố vận ra sóc cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;

Nước Lô Hà chảy xuống Lương Giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh từ thuở nọ.

Cho hay sinh là ký mà tử là quy;

Mới biết mạng ấy yểu mà danh ấy thọ.

Xót thay!

Tình dưới viên mao;

Phận trong giới trụ.

Ba nghìn họp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi;

Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ, cơm áo nặng dày ơn cựu chủ.

Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;

Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.

Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt chỉ non tây thề chẳng đội trời chung;

Kẻ thời đón việt mao trở lại, lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh dương vây, trong cõi Bắc quyết thu về đất cũ.

Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu;

Mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ.

Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh - Thuận; đã mấy buổi sơn phong hải lễ, trời cao quang soi rõ trí kiên trinh;

Rồi lại từ Đồ Bàn, Nam - Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long; biết bao phen vũ pháo vân khê, đất Lũng - Thục lăn vào nơi hiểm cố.

Phận truy tuỳ gẫm lại cũng cơ duyên;

Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số?

Kẻ thời chen chân ngựa quyết giựt cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mạng bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;

Kẻ thời bắt mui thuyền toan cướp giáo giữa đàng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

Hồn tráng sỹ biết bao miền minh mạc, mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;

Mặt chinh phu không vẽ nét gian nan, lấp loé lửa trời soi chừng cố độ.

Ôi!

Cùng lòng trung nghĩa khác số đoản tu;

Nửa cuộc công danh chia phần kim cổ.

Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;

Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu xem nửa phút như không, ơn dày đội cũng cam trong phế phủ.

Phận dù không gác khói đài mây;

Danh đã ngàn cây nội cỏ.

Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đêm giá, những chờ xem cao thấp bức câu thường;

Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.

Vàng thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;

Mà những người thượng trận ngày xưa, lớp tấu công từ ngọ, mùi, thân, dậu đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.

Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;

Dịp trống phồn hoa, chốn tươi chốn ủ.

Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt; cái sinh không, cái tử cũng là không;

Nhưng tiếc cho tạo hoá khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng; phận thuỷ có, phận chung sao chẳng có?

Bản chức nay:

Vâng việc biên phòng;

Chánh miền viễn thú.

Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;

Trong nhà rõ vẽ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió.

Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;

Tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.

Nền phủ định tới đây còn xốc nổi, vụ lòng một lễ, chén thoi vàng;

Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.

Có cảm thông thì đến đó khuyên mời;

Dù linh thính hãy nghe lời dặn dỗ.

Buổi chinh chiến hoặc còn oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lên dưới, khen thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho;

Hội thăng bình đừng nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu vợ goá con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.

Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu;

Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ.

Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân;

Niềm tôn quân dù sinh tử chớ nề, linh thì hộ cho Hoàng triều bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ.

Văn Tế Trương Định

của Nguyễn Đình Chiểu

Hỡi ơi!

Giặc cỏ bò lan;

Tướng-quân mắc hại.

Ngọn khói Tây-bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn-lâm;

Bóng sao Võ-khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh-trại.

Nhớ tướng quân xưa:

Gặp thuở bình cư;

Làm người chí đại.

Từ thuở ở hàng viên lữ[, pháp-binh trăm trận đã làu;

Đến khi ra quản đồn-điền, võ-nghệ mấy ban cũng trải.

Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên[

Lúc cuộc tan, về huyện Tân-hòa, đắp lũy đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng-hòa những tưởng rằng xong;

Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần-tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên-tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền;

Theo bụng dân phải chịu tướng-quân-phù, gánh-vác một vai khổn ngoại.

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa sĩ-phu lắm kẻ xui theo;

Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật-lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham-biện, thương-biện, giúp các cơ bàn-bạc nhung-công;

Võ thì dùng tổng-binh, đốc-binh, coi các đạo sửa-sang khí-giái.

Khá thương ôi!

Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ-ràng;

An bạc mưu binh, nào từng trễ-nải.

Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào;

Ai muốn đem gươm báu Can-tương chôn hơi ngoài ải.

Há chẳng thấy:

Sức giặc Lang-sa;

Nhiều phương quỷ-quái.

Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;

Kéo trên bờ ma-ní, ma-tà, đạn bắn như mưa vãi.

Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân;

Huống chi cô lũy ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.

Nhưng vậy mà:

Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam;

Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.

Rạch-lá, Gò-công mấy trận, người thấy đã kinh;

Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.

Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên;

Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.

Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng lũy sắt các nơi;

Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.

Ôi!

Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn-nạn, cây thương phá lỗ chưa lìa;

Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quả.

Chạnh lòng tướng-sĩ, thương quan-tướng, nhắc quan-tướng, chiu-chít như gà;

Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.

Ôi!

Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư[17]?

Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng-soái.

Nào phải kẻ tán sư đầu giặc, mà để nhục miễu-đường;

Nào phải người kiểu chiếu[19] đánh phiên, mà gây thù biên tái.

Hoặc là chuộng một lời hòa-nghị, giận Nam-phiên phải bắt Nhạc Phi về;

Hoặc là do trăm họ hoành la, hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang-san ba tỉnh luống thêm buồn;

Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.

Còn chi nữa! cõi cô-thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không;

Thôi đã đành! bóng tà-dương gấm-ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.

Ôi!

Làm ra cớ ấy, tạo-hóa ghét nhau chi?

Nhắc tới đoạn nào, anh-hùng rơi lụy mãi.

Cuộc trung-nghĩa hai năm làm đại-tướng, nhọc-nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi;

Cõi Yên-hà một chức chịu lãnh-binh, lây-lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!.

Khóc là khóc nước nhà cơn bấn-loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc-nôi;

Than là than bờ-cõi lúc qua phân[24], ngày tháng trông vua, ngơ-ngẩn một phương tớ dại.

Tướng-quân còn đó, các nơi đạo-tặc thảy kiêng dè;

Tướng-quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.

Nào đã đặng mấy hồi nơi thích-lý, màn hùm che mặt rằng xuê;

Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

Ôi!

Trời Bến-nghé mây mưa sùi-sụt, thương đấng anh-hùng gặp lúc gian-truân;

Đất Gò-công cây cỏ ủ-ê, cám niềm thần-tử hết lòng trung-ái.

Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây;

Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.

VĂN TẾ 74 TỬ SĨ TRONG TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA

(Tưởng niệm 40 năm ngày 19.01.1974)

Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

Hỡi ơi!

Nhẹ tựa lông hồng,

Nặng tày non Thái.

Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ bàng hoàng,

Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh lòng tê tái.

Anh linh kia hoài phảng phất thiên phương,

Chính khí đó sẽ trường tồn vạn tải.

Mới hay,

Giòng giống Việt luôn còn nòi nghĩa dũng, thịt tan xương nát sá chi,

Trời đất Nam đâu thiếu bậc anh hùng, máu đổ thây rơi nào ngại.

Kính các anh vị quốc thân vong

Bày một lễ thâm tình cung bái.

Nhớ các anh xưa,

Tuổi trẻ thanh xuân,

Khí hùng chí đại.

Thời binh hỏa đâu màng gì nhung gấm, chọn tri âm tri kỷ chốn sa trường,

Thuở can qua há tiếc chút bình an, nguyền báo quốc báo dân nơi hiểm ải.

Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi.

Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày, quyết tận sức ra gìn giữ mãi.

Từ Chúa Nguyễn sách văn1 chép rõ, nhân dân Nam từng khai thác làm ăn,

Đến Pháp Thanh công ước2 còn ghi, chủ quyền Việt chẳng luận bàn tranh cãi.

San Francisco hội nghị3, mừng biết bao, thấy thế giới đồng lòng,

Việt Nam Quốc gia chính quyền4, vui xiết kể, đón sơn hà trở lại.

Thế nên,

Đất cát ông cha thì phải giữ, dẫu mũi tên hòn đạn không sờn,

Núi sông tiên tổ sao chẳng gìn, mặc ăn gió nằm mưa chi nại.

Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan,

Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái.

Hội khao lề lại trống chiêng bi tráng, tiễn người đi mờ bóng cuối chân trời,

Nơi quê nhà đành con vợ u buồn, thương kẻ đợi trông buồm về trước bãi.

Có ngờ đâu,

Giặc ác hiểm quen tuồng xâm lược, máu tham tàn không giấu kín ý gian,

Ta hiền lương chuộng đạo hiếu hòa, tình hữu nghị có đâu ngoài lẽ phải.

Địch thả câu nước đục, hai ba lần chiếm đảo5, xây đồn đắp lũy đó đây,

Chúng luồn gió bẻ măng, bốn năm dạo lên bờ, dựng trại cắm cờ lải rải.

Ngày 16 Quang Hòa, Hữu Nhật6,... giặc đã nuốt tươi,

Đến 17 Duy Mộng, Quang Ảnh6,.. chúng đang xơi tái.

Lửa hờn bốc tận thanh vân.

Khí uất tràn đầy thương hải.

Ghìm máu nóng, thông tin bằng quang hiệu, giặc cứ ngang tàng,

Hạ quyết tâm, biệt hải tiến vào bờ, ta ôm thất bại.

Không nản chí, Thường Kiệt, Nhật Tảo băng băng pháo đạn xông pha,

Chẳng dùi lòng Bình Trọng, Khánh Dư7 né né tiễn lôi lèo lái.

Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài”8

Bừng con mắt đà thấy câu “Trung Ngãi”9

Thế nhưng,

Lực bất tòng tâm,

Thiên dung vô lại10.

Giặc đã nhiều chuẩn bị, nào tảo lôi, nào liệp đỉnh, tàu nhiều quân bộn giàn hàng,

Ta mất thế thượng phong, kìa phóng lựu, kìa trung liên, đảo trảng bờ xa phải trải.

Phía chếch đông tàu Mỹ đứng mà nhìn,

Phương chính bắc hạm Tàu nằm sắp phái.

Dù như thế ta vẫn quyết thư hùng

Có ra sao mình cứ liều sống mái.

Đùng đoành đại bác nổ thấp cao,

Sàn sạt hỏa tiễn bay trái phải,

Ngụy Văn Thà11 trúng thương trước ngực, máu anh hùng đẫm ướt chiến y,

Lý Thường Kiệt12 lãnh đạn ngang hông, nước đại hải ngập đầy buồng máy.

Khói mù tàu giặc cháy bốc lên,

Pháo nổ phe mình câu vọng lại.

Thương ơi!

Thế lực không cân

Thời cơ cũng trái.

Bảy tư người bỏ mình vì nước, biển sâu ký gởi thân phàm,

Cả bốn tàu trúng pháo quân thù, bờ cạn lui về gác mái.

Chìm nổi thuyền, trùng dương xanh xa xót cảnh điêu tàn,

Ngổn ngang xác, hải đảo lạnh thê lương niềm địch khái.

Cờ quốc gia phủ người ra trận, toàn quân dân uất ức trẻ như già

Vành khăn tang chít tóc đang xanh, bao thân quyến nghẹn ngào trai lẫn gái.

Công các anh,

Tổ quốc thề không quên,

Toàn dân nguyền nhớ mãi.

Chống ngoại xâm là truyền thống muôn đời

Giữ lãnh thổ vốn luân thường vạn đại.

Máu tử sĩ đổ sẽ nuôi khôn dân tộc, mau kiên trì giành lại giang sơn,

Xương anh linh chìm rồi nung chín hùng tâm, sớm quyết liệt san bằng oan trái.

Nước cường thịnh khi dân biết kết đoàn,

Dân phú túc lúc người luôn thân ái.

Hôm nay.

Sơ sài lời điếu câu văn,

Đạm bạc chùm hoa dĩa trái.

Kính uy linh, xin tượng tạc bia xây,

Tỏ thâm tạ, khiến dân quì quan vái.

Mong các anh siêu độ tái sinh,

Cầu đất nước dân an quốc thái.

Hỡi ơi!

Xót xa tiếng mất ý còn,

Tha thiết lòng phơi ruột trải.

Hồn có linh thiêng

Niệm tình thụ bái.

Huế, ngày 18.01.2014