TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC
Tăng Quốc Kiệt
Nhiều lần đọc Phân Ưu của những người tôi quen biết, theo đạo Phật, tôi thấy bạn bè hay viết “Cầu mong linh hồn cụ X sớm tiêu diêu nơi Miền Cực Lạc”, thì tôi rất thắc mắc không biết “Miền Cực Lạc” là miền gì? Và khi mời quý Sư đến để tụng kinh siêu độ, thì có đúng theo giáo lý nhà Phật hay không? Vì theo tôi hiểu, khi một người chết đi thì sẽ đi vào một trong sáu nẻo luân hồi: cõi Trời, Atula, cõi người, súc sinh, ngạ quỷ, và địa ngục tùy theo nghiệp mà mình tạo ra.
Có chăng một chỗ gọi là Tây Phương Cực Lạc? Xin mở dấu ngoặc ở đây, có người còn bạo gan hơn, chúc người chết tiêu diêu thẳng lên Cõi Niết Bàn, chẳng qua quá trình tu tập gì ráo, thì phải hiểu là chuyện đó không bao giờ có thật! Nên miễn bàn, không biết nhân vật chúc như vậy bạo gan hay bạo phổi? Hay chẳng qua vì vô minh. Dĩ nhiên người tu đã đạt chánh quả thì vào thẳng Cõi Niết Bàn.
Sau khi tìm hiểu, tôi xin nói rõ về “Miền Cực Lạc”, về kinh siêu độ nhờ Đức Phật A Di Đà dẫn dắt về cõi của Ngài. Có lẽ cũng có nhiều người có thắc mắc giống tôi, nên tôi mong độc giả sẽ thấy bài viết này bổ ích.
Phật Giáo Việt Nam có nhiều Tông phái:
1- Thiền Tông
2- Tịnh Độ Tông
3- Mật Tông
4- Tiểu Thừa, còn gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy
5- Giáo Phái Khất Sĩ
6- Phật Giáo Hòa Hảo.
Ở Việt Nam, hai tông phái có nhiều tín đồ là Tịnh Độ Tông và Thiền Tông. Theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ, từ Thế Kỷ thứ 3 đến Thế Kỷ thứ 19 Thiền Tông phổ biến, sau Thế Kỷ thứ 19 đến nay thì Tịnh Độ Tông phổ biến.
Vậy Tịnh Độ Tông là gì?
Tịnh Độ là cõi thanh tịnh, trong sạch. Có nhiều cõi Tịnh Độ, vì mỗi cõi Tịnh Độ thuộc về một vị Phật khác nhau. Được nhắc đến nhiều nhất là cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà ở Phương Tây, Đức Phật Dược Sư ở cõi Tịnh Độ Phương Đông. Tịnh Độ không phải là mục đích cuối cùng của tu tập, mà chỉ là nơi trung gian mà hành giả phải tái sinh vào để tiếp tục tu, hòng đạt đến Niết Bàn, tức cõi Vô Sinh.
Tịnh Độ Tông:
Mục đích của Tịnh Độ Tông là tu học nhằm đạt được tái sinh vào Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Cách tu theo Tịnh Độ Tông là niệm Phật A Di Đà. Làm theo 3 điều:
1- Tín: Tin có Đức Phật A Di Đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc đang thuyết pháp.
2- Hạnh: Thực hành, đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm cho tới khi nhất tâm bất loạn (Nam Mô có nghĩa cung kính, thành tâm).
Theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ, vì tâm ta thường loạn, lan man nghĩ đến chuyện nọ chuyện kia, là tâm tạo nghiệp, dùng câu niệm Phật để đạt được nhất tâm bất loạn, tương ứng với Định của tu thiền.
Có người cho là cách tu như vậy là quá dễ dãi, vì nhờ cậy đến tha lực bên ngoài là Ngài A Di Đà, chỉ việc niệm A Di Đà và quán tưởng Cực Lạc là xong.
Những bộ Kinh của Tịnh Độ Tông gồm: Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, A Di Đà Kinh, Quán Vô Lượng Thọ.
Tịnh Độ Tông ngày nay phổ biến cùng khắp Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Tây Tạng cũng có môn phái này.
Xin nói về Đức Phật A Di Đà:
Dịch âm từ chữ Amita, viết tắt từ 2 chữ phạn: Amitabha: Vô lượng quang (ánh sáng vô lượng) và Amitayus: Vô lượng thọ (thọ mệnh vô lượng). Ngài tượng trưng cho từ bi và trí huệ. Trong Phật gia, Ngài được tôn thờ sớm nhất trong lịch sử, vào khoảng Thế Kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Thân hình của Ngài, thường được vẽ bằng màu đỏ, tượng trưng cho màu mặt trời lặn ở phương Tây. Tay ngài bắt ấn thiền định, giữ bát, dấu hiệu của một giáo chủ, có trái cây, tượng trưng cho trí huệ. Tòa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh, hai con công tượng trưng cho sự thoát hiểm (ở Ấn Độ và Tây Tạng người ta tin con công có thể ăn tất cả những chất độc mà không bị nhiễm độc).
Cùng được thờ chung với Đức A Di Đà là hai vị Đại Bồ Tát: Quán Thế Âm, bên trái, và Đại Thế Chí, bên mặt.
Đức Phật A Di Đà quyết tâm tu thành Phật, và nguyện giúp chúng sinh sống trong cõi Cực Lạc của mình cũng sẽ thành Phật. Ngài có 48 đại nguyện, quan trọng nhất là đại nguyện thứ 18 và 19.
- Đai nguyện 18: Sau khi đạt chánh quả, chúng sinh khắp mười phương thế giới, chỉ cần nghe đến tên ta, là đã khởi niệm cầu Đạo quả vô thượng, lúc họ chết, mà nghĩ đến ta, ta sẽ hiện đến cùng quyến thuộc xung quanh để giúp họ khỏi sợ hãi. Nếu không được như thế thì ta quyết không thành Phật.
- Đại nguyện thứ 19: Sau khi ta đạt chánh quả, chúng sinh trong vô số thế giới, chỉ cần nghe đến tên ta, muốn thác sinh trong cõi Tịnh Độ của ta, để trau dồi thiện nghiệp, thì họ phải được toại nguyện. Nếu không được như thế, thì ta quyết không thành Phật.
Phép niệm A Di Đà là một cách tu dưỡng mới của Phật tử, không phải trải qua vô số kiếp, dựa vào tha lực là đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, một phép tu nhanh chóng, dễ dàng, chứ không phải dựa vào chính mình. Đó là phép tu nhất tâm niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” lúc lâm chung, để được sinh vào cõi của Ngài. Từ đó có Kinh Siêu Độ, niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” giúp người chết được vào cõi Tây Phương Cực Lạc.
Xin nói rõ, tác giả chỉ là một học giả (không học thật) chứ không phải là hành giả (người thực hành tu tập) chỉ viết ra các sự kiện dựa trên kinh sách và không phê phán. Tin hay không tin, cho là đúng hay sai là tùy độc giả và hành giả.
Montreal, xuân 2021
tqk
Tài liệu tham khảo:
1- Từ Điển Phật Học (Đạo Uyển)
2- Các bài giảng của Hòa Thượng Thích Thanh Từ
3- Lược Sử Phật Giáo (Edward Conze)
4- Niệm Phật Sinh Tịnh Độ (Thượng Tọa Thích Chân Tín)
5- Kinh A Di Đà