CHU VĂN VƯƠNG

 TÁC GIẢ DỊCH KINH HÀM CHỨA MỘT HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ

MÀ CẢ THẾ GIỚI KHÔNG BIẾT TRONG HƠN BA NGÀN NĂM


Chu Văn Vương tên là Cơ Xương (1154-1046 trước Công Nguyên), thủ lĩnh bộ tộc Chu cuối thời nhà Thương. Ông vừa là nhà cai trị giỏi vừa là tướng lãnh tài năng, cư xử có ân có uy khiến mọi người đều kính phục. Khởi đầu từ một nước nhỏ ở Kỳ Sơn, ông phát triển lãnh địa của mình thành một nước lớn hùng mạnh và trở thành bá chủ các chư hầu phía tây. Trụ Vương phong ông làm Tây Bá, nhưng lo ngại thế lực và uy tín của ông nên giả vờ mời ông về kinh đô hội kiến rồi bắt giam chuẩn bị giết. Con trai trưởng của ông là Bá Ấp Khảo đến xin tha cho cha, bị Trụ Vương xử tử. Theo một truyền thuyết, Trụ Vương hạ lệnh đem thịt Bá Ấp Khảo làm mắm cho Cơ Xương ăn. Cơ Xương không biết, vẫn ăn bình thường. Trụ Vương nghe tin cười lớn, “Người ta đồn Tây Bá là thánh nhân. Tại sao ăn thịt con mà không biết?”

Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, Cơ Xương không đầu hàng số mệnh. Bị giam trong ngục Dữu Lý, ông bắt đầu viết Dịch Kinh, chú giải 64 trùng quái để tạo ra một loại bói gọi là (Phệ), dùng cỏ thi hỏi vấn đề cần giải quyết. Thời đó vua và quý tộc nhà Thương chỉ biết dùng một loại bói là (Bốc) – nướng mai rùa và xương bò rồi xem các vết nứt để đoán cát hung. Nay Trụ Vương nghe tin Tây Bá đang tạo một loại bói mới, ông cảm thấy hứng thú và khoan giết Tây Bá để cho ông viết xong Dịch Kinh. Có lẽ Trụ Vương nghĩ rằng sinh mệnh Cơ Xương đã nằm trong tay mình, muốn giết lúc nào thì giết không cần gấp. Điều nhà vua không biết là Cơ Xương đang cố gắng “câu giờ” đề cho các con ông có đủ thời gian tìm cách cứu ông.

Cơ Xương có hai người con tài năng là Cơ Phát và Cơ Đán, sau này trở thành Chu Vũ Vương và Chu Công, hai nhân vật lỗi lạc nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Tài liệu lịch sử thời đó quá sơ sài và lẫn lộn với nhiều huyền thoại, không thể dùng đề tìm hiểu Cơ Phát và Cơ Đán đã làm những gì để cứu cha. Tuy nhiên, cả hai đều là chính trị gia khôn ngoan, chắc chắn họ biết làm những gì cần thiết: củng cố thế lực nhà Chu khi Cơ Xương bị giam, vận động các chư hầu tiếp tục ủng hộ Tây Bá, dâng lễ vật đút lót các cận thần của Trụ Vương, và tìm cách làm đẹp lòng vợ yêu của Trụ Vương là Đát Kỷ.

Cơ Phát lúc đó trẻ tuổi đẹp trai và phong cách khôi vĩ, Đát Kỷ có ý yêu mến. Theo truyền thuyết thì hai người có quan hệ tình ý với nhau, nhưng thực tế thì có lẽ Cơ Phát chỉ dùng “nam nhân kế” đề cứu cha mà thôi. Sau khi giam Cơ Xương hai năm để ông viết xong Dịch Kinh, Trụ Vương không còn lý do chính đáng để xử tử Cơ Xương mà không làm mất lòng các chư hầu, trong khi đó Đát Kỷ và các cận thần của vua đều có ý nói giúp Cơ Xương. Ngoài ra, Trụ Vương vẫn cần Tây Bá để dẹp loạn phương tây, cho nên cuối cùng Trụ Vương đã tha Cơ Xương và phục chức Tây Bá cho ông.

Sau khi Cơ Xương mất, Cơ Phát khởi binh đánh bại Trụ Vương khiến cho Trụ Vương phải tự sát. Sau đó, Cơ Phát trở thành Chu Vũ Vương lập nên triều đại nhà Chu, còn Cơ Xương được tôn là Chu Văn Vương. Theo một tài liệu lịch sử (không biết có đúng hay không), sau khi Trụ Vương tự sát, Đát Kỷ trang điểm chờ Vũ Vương đến đón, nhưng Vũ Vương không đến và cho người đến giết Đát Kỷ.

Nếu tất cả chỉ có thế, đây là những sự kiện lịch sử thú vị nhưng không có gì đặc biệt trong lịch sử thế giới. Điều đáng lưu ý là KHI CƠ XƯƠNG VIẾT SÁCH BÓI ĐỂ “CÂU GIỜ” CHO CÁC CON TÌM CÁCH CỨU ÔNG, ÔNG ĐÃ DÙNG BIỂU TƯỢNG 64 TRÙNG QUÁI ĐỂ KÍN ĐÁO LƯU TRUYỀN MỘT HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ ĐẶC BIỆT CHO HẬU THẾ. Để ngụy trang học thuyết về “thời” và “thế” là sách bói, ông cố ý viết những câu khó hiểu và dùng nhiều chữ có ý nghĩa riêng biệt, phải đối chiếu có phương pháp mới có thể hiểu được ý thực của ông. Sự ngụy trang tài tình này không những đã cứu được mạng ông, mà còn giúp cho Dịch Kinh không bị thiêu hủy. Khi Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt tất cả các loại sách ngoại trừ sách thuốc, sách nông nghiệp và sách bói, Dịch Kinh không bị đốt vì được coi là sách bói.

Theo quan điểm cổ truyền của Nho gia, Dịch Kinh là một trong Ngũ Kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu) do Khổng Tử biên soạn. Trên thực tế, Dịch Kinh không có liên quan với Khổng Tử. Đến đầu đời nhà Hán (khoảng 280-350 năm sau khi Khổng Tử mất), các nhà Nho đã gom góp và viết thêm những lời giải thích Dịch Kinh theo ý họ, tạo thành 10 nhóm chú giải gọi là Thập Dực. Để tạo uy tín cho những gì họ viết và góp nhặt, họ đã bịa đặt chuyện Khổng Tử là tác giả Thập Dực.

Mặc dù phần lớn Thập Dực là những lời bàn ngớ ngẩn hoặc gàn dở vô giá trị, Thập Dực được coi là NHỮNG CHÚ GIẢI CHÍNH THỐNG CỦA DỊCH KINH nhờ uy tín vay mượn của Khổng Tử. Khi THẬP DỰC ĐƯỢC CHÍNH THỨC SÁT NHẬP VÀO DỊCH KINH NGUYÊN THỦY CỦA VĂN VƯƠNG, cuốn Dịch Kinh Khổng Giáo ra đời, và học thuyết chính trị của Văn Vương hoàn toàn bị vùi lấp dưới những chú giải không thực tế của Nho gia.

Đời nhà Tống, danh sĩ Âu Dương Tu đã nhận ra Thập Dực không có liên quan đến Khổng Tử. Gần đây, đa số các học giả đồng ý là phần lớn Thập Dực không phải do Khổng Tử viết. Mặc dù vậy, Thập Dực vẫn được coi là những lời giải thích chính thống của Dịch Kinh, và không ai nghĩ đến chuyện loại bỏ Thập Dực để có thể hiểu biết Dịch Kinh nguyên thủy của Văn Vương. Điều này đã tạo nên một cái vòng lẩn quẩn không lối thoát cho những người nghiên cứu Dịch Kinh, có thể nói là toàn bộ học giả Đông Tây trong suốt ba ngàn năm: VÌ KHÔNG HIỂU NHỮNG ẨN Ý CỦA VĂN VƯƠNG, HỌ CHẤP NHẬN NHỮNG CHÚ GIẢI CỦA THẬP DỰC – KHI ĐÃ CHẤP NHẬN NHỮNG CHÚ GIẢI CỦA THẬP DỰC, HỌ SẼ KHÔNG BAO GIỜ HIỂU ĐƯỢC HỌC THUYẾT CỦA VĂN VƯƠNG.

xxx

Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình là một người đặc biệt. Lúc trẻ, IQ của tôi là 141 – thuộc loại khá, nhưng không đủ để theo gót những thần tượng khoa học của tôi như Louis Pasteur, Marie Curie, Isaac Newton, Dmitri Mendeleev, Albert Einstein, Von Neuman, John Dirac, ... Với niềm đam mê nghiên cứu để tìm ra những cái chưa ai biết, tôi cảm thấy buồn khi nhận ra giới hạn của mình. Năm học lớp 12, tôi than với mấy người bạn, “chắc tôi chỉ học được đại học rồi đi làm kiếm tiền, chứ không làm được cái gì cả.” Mấy người bạn ngơ ngác nhìn tôi, không hiểu tôi muốn cái gì.

Mặc dù thất vọng về khả năng Toán Lý của mình, tôi vẫn tiếp tục là con mọt sách, vẫn khao khát học hỏi nhiều lãnh vực, vẫn hi vọng tìm được một đề tài hợp với mình. Khi tôi đọc Dịch Kinh lần đầu, tôi đã nhận ra ngay những chú giải 64 trùng quái của Văn Vương có hàm chứa ý nghĩa về thời thế và những quan hệ chính trị xã hội, còn những lời chú giải của Thập Dực chỉ là những nhận xét vô giá trị. Quẻ đầu tiên là quẻ Kiền, quẻ duy nhất có thể hiểu trực tiếp như sau:

-         Hào 1 潛龍勿用 (Tiềm long vật dụng: Rồng lặn chớ nên dùng) là tượng trưng anh hùng chưa được ai biết đến, như Lưu Bị là anh bán chiếu, Lê Lợi là một nông dân, Hideyoshi là một người lính, hoặc Napoléon lúc là một thanh niên đảo Corse.

 

-         Hào 2 見龍在田 (Hiện long tại điền: Rồng hiện trên ruộng) là anh hùng bắt đầu khởi nghiệp, chưa thành công nhưng đã tạo được uy tín. Đây là cái thế tốt nhất của anh hùng lúc chưa thành lãnh tụ, có thể từ từ xây dựng căn cứ quyền lực (power base) mà không sợ bị thanh toán. Thí dụ một tướng lãnh hoặc governor nắm binh quyền xa kinh đô, nhiều đối thủ biết là nguy hiểm nhưng không làm gì được.

 

-         Hào 3 君子終日乾乾.夕惕若.厲.無咎.(Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu: Quân tử suốt ngày mạnh mẽ tiến, buổi tối còn lo âu, nguy hiểm, không có lỗi). Đây là cái thế của anh hùng đang đấu tranh quyền lực rất căng thẳng, luôn luôn phải cố gắng, buổi tối cũng phải cảnh giác. Tình thế nguy hiểm nhưng phải chấp nhận, dù thắng hay thua cũng không có lỗi nếu đã làm hết sức mình.

 

-         Hào 4 或躍在淵,無咎 (Hoặc dược tại uyên, vô cữu: Hoặc nhảy ở vực, không lỗi). Đây là cuộc đấu tranh then chốt để làm nên sự nghiệp, nếu thắng thì thành lãnh tụ, thua thì chết tan xác dưới vực sâu. Có thể thắng hay thua, nhưng có khi tại thời thế chứ không phải lỗi của mình. Đây là lúc Julius Caesar vượt sông Rubicon để quyết chiến, Lý Thế Dân tạo biến cố Huyền Vũ Môn, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt họ Trịnh, Charles de Gaulle bay về Pháp khi thấy Paris sắp được giải phóng, Đặng Tiểu Bình về Bắc Kinh khi Mao Trạch Đông qua đời.

 

-         Hào 5 飛龍在天 (Phi long tại thiên: Rồng bay trên trời) là biểu tượng những lãnh tụ đã thành công và trở thành Hoảng Đế, King, Tsar, Emperor, Shah, President, … Đây là cái thế tốt nhất của các lãnh tụ để củng cố quyền lực và tận hưởng vinh quang.

 

-         Hào 6  亢龍有悔 (Kháng long hữu hối: Rồng bay cao quá có ăn năn). Đây là cái thế của các lãnh tụ quá kiêu ngạo khinh suất, hoặc quá tham vọng nên đã tự làm sụp đổ sự nghiệp của mình. Thí dụ như Caesar quá chủ quan kiêu ngạo nên bị giết chết, Lưu Bị đánh Đông Ngô, Hideyoshi đánh Korea, Napoléon và Hitler đánh Nga, Saddam Hussein tấn công Kuweit, … Cuộc đời những người này đã trải qua đủ 6 hào trong quẻ Kiền. Những lãnh tụ khôn ngoan hơn thì khởi đầu từ hào 1 nhưng biết ngừng ở hào 5 đến khi chết già, như Augustus, Thành Cát Tư Hãn, Lý Công Uẩn, và vô số lãnh tụ khác. Trường hợp Quang Trung thì trải qua từ hào 1 đến hào 5 thì bị bệnh chết, không biết nếu sống lâu hơn ông có thể bị rơi vào hào 6 hay không vì ông có ý định chiếm Lưỡng Quảng của Trung Hoa.

 

Mặc dù ý nghĩa quẻ Kiền rõ ràng như vậy, các nhà Nho gàn dở viết Thập Dực đã hiểu một cách khác. Sau đây là một số chú giải ngớ ngẩn được đặt xen vào những lời của Văn Vương, trích trong bản dịch của Ngô Tất Tố:

 

乾道變化,各正性命,保合太和,乃利貞

Kiền đạo biến hóa, các chính tính mệnh, bao hợp thái hòa, nãi lợi trinh.

 

Dịch nghĩa:

- Đạo Kiền biến hóa, vật nào được đúng tính mệnh của vật ấy, giữ hợp được khí thái hòa, mới hay tốt và chính bền.

 

象曰:天行健, 君子以自強不息

Tượng viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.

 

Dịch nghĩa:

- Lời Tượng nói rằng: Trời đi mạnh, quân tử coi đó tự cường không nghỉ.

 

潛龍勿用,陽在下也:Tiềm long vật dụng, Dương tại hạ dã.

Dịch nghĩa:

- Rồng lặn chớ dùng, Dương ở dưới vậy.

 

見龍在田,德: Hiện long tại điền, đức phổ thí dã.

Dịch nghĩa:

- Rồng hiện ở ruộng, đức lan rộng vậy.

 

終日乾乾,反復道也: Chung nhật kiền kiền, phản phục đạo dã.

Dịch nghĩa:

- Suốt ngày săng sắc, trở đi trở lại với đạo vậy.

 

或躍在淵,進無咎也: Hoặc dược tại uyên, tiến vô cữu dã.

Dịch nghĩa:

- Hoặc nhảy ở vực, tiến lên không lỗi vậy.

 

飛龍在天,大人造也: Phi long tại thiên, đại nhân tạo dã.

Dịch nghĩa:

- Rồng bay ở trời, việc người lớn vậy.

 

亢龍有悔,盈不可久也: Kháng long hữu hối, doanh bất khả cửu dã.

Dịch nghĩa:

- Rồng quá cực có ăn năn, sự đầy đủ không thể lâu vậy.

 

Khi đọc Dịch Kinh lần đầu, tôi bị bất ngờ khi thấy những câu ngây ngô như vậy mà đem ghép chung vào những chú giải của Văn Vương, làm sai lạc hẳn những hàm ý sâu sắc của ông về thời và thế. Có lẽ các học giả Trung Hoa thiếu khả năng sáng tạo và phân tích, lại tôn trọng truyền thống Nho giáo, cho nên suốt 3.000 năm mà không thấy một người Hoa nào dám loại bỏ Thập Dực để có thể tìm hiểu học thuyết của Văn Vương. Còn các học giả Tây Phương thì không hiểu rõ lắm về văn hóa Trung Hoa, họ dịch Dịch Kinh Khổng Giáo qua các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức, … theo như cách họ hiểu, và cũng không ai nghĩ đến việc loại bỏ toàn bộ Thập Dực để nghiên cứu Dịch Kinh.

Dù sao thì tôi cũng cảm thấy phấn khởi khi biết mình là người duy nhất có thể đem học thuyết của Văn Vương ra ánh sáng. Trong thời gian ở tù năm 1982 vì vượt biên, tôi có nhiều thời gian suy nghĩ và đã khám phá những quy tắc căn bản để giải mã Dịch Kinh. Hệ thống 64 trùng quái chia ra làm 32 cặp, mỗi cặp có hai đề tài liên quan nhau và cần khảo sát cùng lúc. Văn Vương chia 32 cặp thành Thượng Kinh (15 cặp) và Hạ Kinh (17 cặp). Thượng Kinh là những bài học căn bản cho các nhà cai trị và những người đấu tranh chính trị, còn các đề tài của Hạ Kinh có phạm vi rộng hơn về chính trị, xã hội, tôn giáo, và tâm lý. Tôi cười một mình khi thầm nghĩ, “Yi Jing can be seen as a product of prison: A jailed statesman wrote Yi Jing and three thousand years later, a jailed nerd discovered its hidden meanings.”

Các hệ thống trùng quái đều có bao hàm những thái độ (attitudes) và hành động (behaviors) thích hợp với từng hoàn cảnh và thời thế. Càng hiểu biết về học thuyết của Văn Vương, tôi càng khâm phục sự khôn ngoan thông thái của ông. Ông cố ý viết quẻ Kiền dễ hiểu để gợi ý người đọc biết là sách của ông có hàm chứa nhận định về thời và thế, ai nhận ra thì có thể tiếp tục suy nghĩ tìm hiểu ý nghĩa đích thực của Dịch Kinh. Những quẻ kế tiếp ông viết khó hiểu hơn nhiều, để cho đa số mọi người tưởng lầm Dịch Kinh chỉ là sách bói.

Về đề tài chính trị quyền lực (power politics), hai cuốn sách cổ điển có giá trị nhất là The Prince (của Machiavelli) ở Tây Phương và Hàn Phi Tử ở Trung Hoa, và cả hai cuốn sách này chưa bằng một góc của Dịch Kinh nguyên thủy.

Sau 30 tuổi, tôi quyết định giới thiệu học thuyết của Văn Vương với phương Tây. Để thực hiện mục tiêu này, tôi phải trau giồi kiến thức về ba ngôn ngữ Anh, Pháp, Hoa và tham khảo rất nhiều sách có liên quan đến những đề tài trong Dịch Kinh. Tôi tập viết tiếng Anh hàng ngày để ghi notes và viết sách, lúc đầu viết bằng tay và máy đánh chữ, rồi viết bằng computer rất tiện lợi để edit. Mặc dù không thông minh lắm, tôi cũng có vài điểm mạnh là trí nhớ tốt, có khả năng suy nghĩ phân tích, và kiên trì khi học hỏi và theo đuổi mục đính đã chọn.

Từ năm 30 tuổi đến nay là hơn 70 tuổi, tôi vừa tiếp tục học hỏi tham khảo và revise đề tài nghiên cứu, nhưng vẫn không thành công trong việc giới thiệu Dịch Kinh với trí thức Tây Phương. Các ngành khoa học chính trị xã hội tâm lý Âu Mỹ có những đề tài khác biệt, có khi xa vời thực tế, hoặc chỉ áp dụng trong một phạm vi thực tế nhỏ hẹp. Rất khó tìm được một chuyên gia hoặc trí thức có kiến thức rộng để nhận biết giá trị Dịch Kinh. Những học giả có ý thức về đấu tranh quyền lực như Henry Kissinger rất hiếm hoi, và tôi không có cả cơ hội với uy tín để giao thiệp với họ. Tôi đã gởi nhiều query letters cho các literary agents và nhận được một số khen ngợi khuyến khích, nhưng không ai muốn cộng tác – một phần vì tôi là kẻ vô danh, một phần vì đề tài tôi viết khó kiếm nhiều độc giả. Nếu tự xuất bản sách, tôi không có khả năng tự quảng cáo và marketing, in sách ra chắc cũng chẳng ai mua.

Đa số người Hoa chắc không muốn thấy một anh Việt Nam dám tuyên bố toàn bộ người Hoa từ 3.000 năm nay không ai hiểu được cuốn sách có giá trị nhất của họ, mặc dù học thuyết của Văn Vương nếu được công nhận sẽ làm tăng giá trị của văn hóa Trung Hoa rất nhiều. Về phần các học giả Tây Phương chuyên về Dịch Kinh, chắc chắn họ không muốn thú nhận mình đã sai lầm, và chẳng ai muốn giới thiệu một cuốn sách hoàn toàn khác những gì họ biết về Yi Jing hoặc I Ching.

Tôi biết trong giới trí thức Âu Mỹ vẫn có nhiều người biết đánh giá cao học thuyết Văn Vương nếu họ có dịp đọc, nhưng nếu không có ai giới thiệu và không có nhà xuất bản nào chịu in đề tài nghiên cứu của tôi, thì tôi không có cơ hội nào để tiếp cận với họ.

Đã có hàng vạn những sách viết về Dịch Kinh trên thế giới, hoặc là giải thích những quan điểm Nho giáo, hoặc diễn tả những triết lý linh tinh và những quan điểm sống, hoặc là viết về bói Dịch. Một số học giả được coi là “Dịch học đại gia” hoặc “Yi Jing authorities” nhưng không có ai khám phá ra Dịch Kinh của Văn Vương. Làm sao tôi chứng minh được mình là người duy nhất đã tìm ra những ý nghĩa đích thực của Dịch Kinh nguyên thủy? Rút cục, tôi cay đắng nhận ra mình là một Don Quixote nuôi dưỡng một impossible dream, không có cách gì thành công.

Tại sao định mệnh cho tôi cơ hội để giải mã Dịch Kinh nguyên thủy, nhưng không cho tôi cơ hội để giới thiệu một hidden masterpiece? Dù sao thì học thuyết của Văn Vương đã bị chôn vùi từ 3.000 năm nay, nếu có bị chôn vùi vĩnh viễn thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tôi tự an ủi thế giới này có vô số những trí thức tài năng hơn tôi nhưng vì hoàn cảnh phải chịu nhiều khổ nhục đắng cay, dù sao thì tôi cũng còn may mắn hơn họ nhiều – được sống khá thoải mái và luôn luôn có phương tiện học hỏi nghiên cứu theo sở thích của mình.

 

PHỤ LỤC

MỘT THÍ DỤ VỀ NHỮNG CHÚ GIẢI CỦA VĂN VƯƠNG

 

Kinh Dịch nguyên thủy chỉ có 64 hexagrams, mỗi hexagram có sáu hào (tổng cộng 64 x 6 = 384 hào). Hào dương là gạch liền (solid line), hào âm là gạch đứt (broken line). Mỗi hexagram tượng trưng cho một THỜI, a general involvement during a certain time. Sáu hào trong hexagram tượng trưng cho sáu THẾ khác nhau (six different situations of those involved) trong một hexagram.