Mỗi khi nói đến Tết thì ta luôn luôn kết hợp nó với Xuân. Mùa Xuân trong truyền thống văn chương được xem như là thời gian đẹp đẽ nhất trong năm, qua những cây lá xanh tươi, hoa nở rực rỡ khoe muôn màu, muôn sắc, phong cảnh thơ mộng, hữu tình, cộng với thời tiết ấm áp sau một mùa đông dài lạnh lẽo. Mùa Xuân thích ứng với những sự mong đợi, những hy vọng tốt đẹp của con người vào năm mới. Nhưng « TẾT », theo nghĩa là ngày đầu năm của một loại lịch, thay đổi tùy theo nền văn minh, tôn giáo hay tổ chức xã hội của từng xứ.
Các loại lịch chính
Tôi không đi sâu vào chi tiết của tất cả các loại lịch, nhưng nói chung các loại lịch đang được áp dụng hiện nay đều dựa trên thời gian:
- hoặc là của sự chuyển động của địa cầu chung quanh mặt trời, đó là « dương lịch » đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới
- hoặc là của sự chuyển động của mặt trăng chung quanh trái đất, đó là lịch Hồi Giáo
- hoặc là một sự phối hợp của cả hai, đó là « âm lịch » (Ta hay Tàu) hay lịch Do Thái.
Dương lịch
Dương lịch Grégorien, hiện đang được sử dụng trên toàn thế giới, do Giáo Hoàng Grégoire XIII thiết lập vào năm 1582 dựa trên lịch Julien của Hoàng Đế La Mã Jules César, thiết lập năm 46 trước Thiên Chúa.
Nước Nga trước Cách Mạng Bolshevik (10/1917) vẫn giữ dương lịch Julien vì thời đó có một sự tranh chấp quyền lực giữa các Giáo Hoàng Orthodoxe Nga và Thiên Chúa La Mã. Sau khi lật đổ Nga Hoàng, Lê-nin đã thay thế lịch Julien bằng lịch Gregorien nhưng các nhà thờ Orthodoxe phía đông như Jerusalem, Nga, Georgia, Macedonia, Serbia, vẫn dùng lịch Julien và giữa hai loại lịch có một sự chênh lệch đáng kể: nếu tính ngày đầu năm thì dương lịch Julien đó trễ hơn dương lịch Gregorien 13 ngày. Nói cách khác nhà thờ Orthodoxe phía đông mừng Lễ Giáng Sinh 13 ngày sau các nhà thờ Orthodoxe ở phía Tây Âu hay Thiên Chúa La Mã dùng dương lịch Gregorien.
Một năm của dương lịch Gregorien có (365+1/4) ngày.
Nhưng để cho dễ tính, dương lịch Gregorien (ta gọi tắt là dương lịch) quy định trung bình một năm có 365 ngày và cứ 4 năm thì thêm một ngày vào tháng 2: 28+1=29 ngày. Đó là năm nhuận (année bissextile – leap year) để cho mặt trời ở vào đúng cùng một vị trí cực đỉnh: ngày 21/03, ngày đầu XUÂN (équinoxe de printemps) và ngày 21/09, ngày đầu THU (équinoxe d’automne), ở Bắc bán cầu.
Ở Nam bán cầu thì ngược lại: 21/03 là ngày đầu THU và 21/09 là ngày đầu HÈ. Vào hai ngày nầy thì ngày và đêm bằng nhau (équinoxe):
- Ngày 21/06 mặt trời vào lúc 12 giờ trưa sẽ ở ngay trên đỉnh đầu đối với ai ở trên Chí TuyếnCancer (Tropique du Cancer) của Bắc bán cầu, hoặc ngược lại là Chí Tuyến Capricorne (Tropique du Capricorne) của Nam bán cầu.
Đó là ngày dài nhất trong năm (quỹ đạo dài nhất: ngày đầu HÈ ở Bắc bán cầu).
- Ngày 21/12 là ngày mà mặt trời xuống thấp nhất vào lúc 12 giờ trưa trên quỹ đạo biểu kiến, đó là ngày đầu ĐÔNG: ngày ngắn nhất trong năm, quỹ đạo biểu kiến ngắn nhất, ở Bắc bán cầu. Ở Nam bán cầu thì ngược lại, ngày nầy là ngày dài nhất.
Tóm lại, thời gian của 4 mùa ở Bắc bán cầu là:
Mùa XUÂN : từ 21/03 đến 21/06 Mùa HẠ (HÈ) : từ 21/06 đến 21/09
Mùa THU : từ 21/09 đến 21/12 Mùa ĐÔNG : từ 21/12 đến 21/03
TẾT Ta nằm trong khoảng giữa ngày 21/01 dương lịch, và ngày 21/02 dương lịch, như thế là ở giữa mùa ĐÔNG ở Bắc bán cầu hay giữa mùa HÈ của Nam bán cầu.
Thí dụ:
Mồng 1 Tết năm nhằm ngày năm dương lịch
Kỷ Sửu 26/01 2009
Canh Dần 14/02 2010
Tân Mão 03/02 2011
Nhâm Thìn 23/01 2012
Quý Tỵ 10/02 2013
Giáp Ngọ 31/01 2014
Ất Mùi 19/02 2015