Các Giáo Sư Khoa Trưởng Khoa Học Đại Học Đường Sài Gòn: (1) Nguyễn Quang Trình (1953-55), (2) Trần Hữu Thế (1955-58), (3) Lê Văn Thới (1958-63), (4) Mai Trần Ngọc Tiếng (1963-65), (5) Nguyễn Chung Tú (1965-73), (6) Phùng Trung Ngân (1973-75). Hình (1): chụp tại tư gia năm 1976 ; (3)-(6) : trích hình internet.
Việc chuyển ngữ
Nỗ lực dùng chuyển ngữ tiếng Việt được thực hiện, cơ bản dựa trên Danh Từ Khoa Học của GS Hoàng Xuân Hãn và qua Ủy Ban Soạn Thảo Danh Từ Khoa Học do Giáo Sư Lê Văn Thới làm Chủ Tịch. Ủy Ban có các Tiểu Ban cho mỗi ngành chuyên khoa: Toán, Vật Lý, Hóa Học, Thực Vật, Động vật, .... Từ năm 1964-1965, đã có nhiều chứng chỉ được giảng dạy bằng tiếng Việt, sau đó chỉ còn rất ít môn được giảng dạy bằng tiếng Pháp.
Việc đào luyện
Đào luyện theo hệ thống Chứng Chỉ cho đến bậc Cử Nhân, KHĐHĐ cũng cấp phát các văn bằng Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (từ năm 1967) và Tiến Sĩ Quốc Gia Khoa Học. Cho đến năm 1964, học trình các chứng chỉ là 1 năm và thành phần Cử Nhân Tự Do là 3 chứng chỉ, hoặc Cử Nhân Giáo Khoa khi có 4 chứng chỉ theo qui định cho từng chuyên khoa. Sau đó, là hệ chứng chỉ ngắn, với thành phần cử nhân uyển chuyển hơn nhưng nội dung tương đương. Ngoài 3 hướng Toán, Lý Hóa, và Vạn Vật với các Chứng Chỉ Dự Bị MGP (Toán Lý), MPC (Toán Lý Hóa), SPCN (Khoa Học Lý Hóa và Tự Nhiên), Trường cũng đào tạo 1 Năm Dự Bị Y khoa (APM) cho sinh viên theo ngành Y, với Chứng Chỉ PCB (Lý Hóa Sinh).
ĐHKHSG cung cấp nhân viên giảng huấn khoa học cho Trường và cho các viện đại học khác được mở sau này như Viện Đại Học Dalat, Cần Thơ, Nha Trang, Tiền Giang, kể cả Viện Đại Học Huế và Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ. Ngoài Trường Đại Học Sư Phạm (học trình 3 năm), KHĐHSG cũng là nơi đào tạo nhiều giáo sư bậc trung học, và tốt nghiệp ở ĐHKHSG cũng có thể làm việc ở nhiều cơ quan khác.
Song song với giảng dạy, việc nghiên cứu đã được thực hiện. Năm 1958 đã có Khảo-cứu niên-san Khoa-học Đại-học Đường / Annales de la Faculté des Sciences.
Thư viện có đa số là sách Pháp. Sách Mỹ ít hơn, nhưng cũng đã dùng những sách giáo khoa thông dụng. Các ban có sách báo khoa học dành cho nghiên cứu để tham khảo. Thời đó chưa có internet như bây giờ, tài liệu còn phải xin chụp bằng microfilm.
Sự tăng cường Ban Giảng Huấn và mở mang KHĐHĐSG
Trong Thập Niên 1960-1970, Ban Giảng Huấn đã được tăng cường rất nhiều do 3 nguồn: việc hồi hương của các giáo sư đã có bằng Tiến Sĩ ở các nơi, các nhân viên giảng huấn đã đi tu nghiệp trở về, và việc đào tạo tại Trường.
Nhiều giáo sư hồi hương đem theo về một môn học mới, một chuyên khoa mới. GS Nguyễn Hải DSc về Vật Lý Địa Cầu, GS Cao Xuân Chuân DSc về Vật Lý Lý Thuyết, GS Phạm Hữu Hiệp DSc ở Pháp về đã mở mang thêm ngành Điện và Điện Tử, các GS Phùng Trung Ngân về Sinh Môi và Đinh Văn Hoàng về Sinh Hóa Học, cùng nhiều giáo sư khác nữa từ Mỹ, Pháp, ... trở về đã góp phần tăng cường mở rộng Ban Giảng Huấn. Trong số có các GS Nguyễn Đình Ngọc, Huỳnh Huynh Phạm Xuân Quang và Đặng Xuân Hồng (Toán), Đặng Lương Mô (TSKH Nhật) và Nguyễn Hữu Phương (PhD Tân Tây Lan) về Điện và Điện Tử, Bùi Thị Lạng (Động Vật), và trong đợt hồi hương vào những năm 1970-73 có các giáo sư Vũ Duy Chân, Tôn Thất Long (về Toán), Trần Chung Ngọc về Lý, Huỳnh Văn Công về Điện Tử và Trịnh Toàn về Hóa.
Sự đào tạo tại Trường cũng là nguồn cung cấp các nhân viên giảng huấn, nhất là để đảm trách việc giảng dạy thực tập, và cả việc giảng dạy giáo trình lý thuyết khi có học vị Tiến Sĩ Quốc Gia hay Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp đã được thiết lập tại Trường. Cho đến năm 1975, đã có 4 TSQGKH (3 về Hóa và 1 về Vật Lý Lý Thuyết), và hơn 10 Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp đã được đào tạo tại Trường.
Bước chân đại học
Nhớ chuyện xưa cũng là hồi tưởng tuổi giao thời đi học và vào đời. Chọn ngành học còn phải nghĩ đến tương lai, nhiều đắn đo. Bên cạnh việc học, còn nhiều điều khác khó quên khi bước chân vào ngưỡng cửa đại học. Trước tiên là cả một sự thay đổi lớn trong tâm tư. Từ những lớp nhỏ vài chục người ở trung học, bước vào giảng đường rộng mênh mông (Đại giảng đường I hay II), tôi không khỏi ngỡ ngàng. Chỗ ngồi không nhất định, phải đi sớm chờ được chỗ gần bục giảng. Bạn kề bên hôm nay người này hôm sau là người khác. Bài vở phải ghi chép cho nhanh, nhất là những người từ trường Việt lên khi còn giáo trình tiếng Pháp.
Trong khung cảnh môi trường mới, gặp gỡ được nhiều bạn từ các trường Việt và Pháp ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận, và cả những bạn từ những trường xa xôi như Mỹ Tho, Cần Thơ, Nha Trang, Dalat vào. Làm thực tập phải có nhóm 3 người, cũng học được cách làm việc chung. Ấy là không kể sau năm dự bị, học các chứng chỉ chuyên khoa không cần theo thứ tự, đã gặp những bạn trẻ hơn, hoặc những bạn lớp tuổi trên, và thành bạn vong niên.
Sinh hoạt chung còn thưa thớt nhưng trong dịp trại hè Dalat năm 1963, leo đỉnh núi Langbiang trước khi bị cấm vì chiến tranh là một kỷ niệm khó quên.
Thầy cũ, bạn xưa
Rời ĐHKHSG từ năm1973, nhưng tôi cũng có dịp thăm các thầy cũ như GS Nguyễn Quang Trình (năm 1976 tại vùng Paris), GS Nguyễn Chung Tú (1997, 2001 và 2006), GS Cao Xuân Chuân và gặp lại các GS Nguyễn Văn Hoàng, Phùng Trung Ngân khi sang Paris. Các GS Trần An Nhàn, Phạm Hữu Hiệp, Võ Thế Hào định cư tại Pháp, nên có nhiều dịp gặp hơn.
Tôi cũng có dịp gặp những bạn đồng nghiệp cũ hoặc bạn đồng khóa MPC 1960-1961, nhất là một số đông các đồng sự cũ định cư ở Pháp. Và đặc biệt là buổi Hội ngộ Paris 30-6-2012 đã là dịp gặp lại rất nhiều bạn cũ ở khắp nơi.