Kinh điển Phật giáo dạy rằng, Bồ Tát Địa Tạng nhận lời phó chúc của Đức Thích Ca Mâu Ni, phát nguyện rộng lớn rằng: “Trong khoảng thời gian từ khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt cho đến khi Đức Di Lặc xuất thế, Ta nguyện độ hết chúng sanh trong sáu đường, cứu khổ tất cả, rồi mới thành Phật.”
Nguyện lực của Ngài bao la rộng lớn, lòng từ bi vô hạn, được ví như đại địa, dung chứa vô lượng căn lành. Kinh Địa Tạng Thập Luân nói: “An nhẫn bất động như đại địa, tĩnh lự thâm mật như bí tạng.” Do vậy, Ngài được tôn xưng là Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Trong Phật giáo Trung Hoa, Cửu Hoa Sơn (tỉnh An Huy) được xem là đạo tràng ứng hóa của Ngài. Tượng Địa Tạng thường được tạc với hình tướng xuất gia: đầu tròn, ngồi kiết già, tay phải cầm tích trượng – biểu thị nhiếp hộ chúng sanh và giới luật nghiêm minh; tay trái nâng như ý bảo châu – tượng trưng mãn túc chúng sanh sở cầu.
Tại Điện Nhục Thân Cửu Hoa Sơn, tượng Địa Tạng đội bảo quan, khoác ca-sa, ngồi trên tòa, hai bên có một vị Tăng và một vị cư sĩ – chính là cha con họ Mẫn, những người hộ pháp trợ duyên cho Ngài. Truyền rằng, Mẫn công hiến trọn Cửu Hoa Sơn cho Ngài, còn con trai xuất gia theo học pháp, pháp danh Đạo Minh.
Ngài xuất hiện vào khoảng 1500 năm sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt. Thuở ấy, tại Tân La quốc (nay là Hàn Quốc) có một vị vương tử tên Kim Kiều Giác, yêu thích Phật pháp nên phát tâm xuất gia, lập nguyện: “Ta phải sang Trung Hoa cầu đạo.”
Ngài vượt biển sang Trung Hoa, theo hầu là một chú chó trắng tên Thiện Thính. Gặp bão lớn, thuyền bị dạt vào bờ, Ngài cùng chú chó lên bờ, men theo núi non và đến Cửu Hoa Sơn. Tại đây, Ngài tìm một hang núi, lấy đó làm nơi tu tập suốt 75 năm trường kỳ khổ hạnh: ăn rau rừng, trái dại, thậm chí có lúc phải ăn đất để sống, người đời gọi Ngài là “Quán Âm sĩ” – biểu tượng của nhẫn nhục khắc khổ.
Nguồn nước cũng thiếu, mỗi ngày Ngài phải trèo xuống vách đá sâu 500m lấy nước, vô cùng gian khổ. Một hôm, Ngài đang tọa thiền thì bị côn trùng cắn, tỉnh dậy thấy một phụ nữ mặc áo đen đảnh lễ sám hối, hứa sẽ giúp Ngài có nguồn nước. Quả nhiên sau đó xuất hiện một suối trong gần hang, dù hạn hán vẫn chảy không ngừng. Đây là một truyền tích nổi tiếng.
Đến niên hiệu Trí Đức (757, đời Đường), chư tăng phát hiện Ngài khổ tu trong hang, chỉ có một ít cơm trộn đất trong nồi. Kính phục hạnh nguyện, họ phát tâm dựng am cho Ngài. Nhờ hộ pháp, đạo tràng ngày càng hưng thịnh.
Tương truyền, khi Mẫn công hỏi Ngài: “Ngài muốn hóa duyên điều gì?” – Ngài đáp: “Ta muốn xin một khoảnh đất bằng tấm ca-sa.” Khi Ngài tung ca-sa lên, ca-sa hóa thành mây đỏ, phủ trọn 99 ngọn núi Cửu Hoa. Mẫn công cảm phục, dâng cả núi và phát tâm hộ trì Tam Bảo. Từ đó, cha con họ Mẫn trở thành thị giả của Ngài.
Ngài độ vô số người, nhiều tăng sĩ từ Hàn Quốc cũng vượt biển đến theo học. Dù cuộc sống thiếu thốn, nhưng ai nấy vẫn vui tu. Ngài thường ngày giảng pháp, đêm nhập định, và tương truyền mỗi khi đêm xuống, Cửu Hoa Sơn vang vọng tiếng khí cụ địa ngục – dấu hiệu Ngài xuống U Minh giới hóa độ chúng sanh. Do vậy, người đời xưng Ngài là Địa Tạng Bồ Tát hóa thân, tôn hiệu Kim Địa Tạng.
✅ Ý nghĩa giáo lý: Hình ảnh Kim Kiều Giác Đại Sư nhắc nhở chúng ta về đại nguyện kiên cố, nhẫn nhục khổ hạnh, và tâm nguyện cứu khổ độ sanh của Bồ Tát Địa Tạng. Ngài thị hiện thân người để làm gương cho hàng hậu học, khơi mở lòng tin sâu vào nhân quả, phát tâm hành Bồ Tát đạo.
Xem thêm các bài viết liên quan đến Địa Tạng Vương Bồ Tát hữu ích khác
Ý nghĩa và Công Đức trì kinh Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn Nguyện
Kiên Lao Địa Thần Ủng Hộ Chúng Sanh Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Khi phước báo chưa đủ, hãy tụng Kinh Địa Tạng để tăng phước, thêm trí
Trải Nghiệm Thực Tế Về Sự Gia Trì Bất Khả Tư Nghì Của Địa Tạng Bồ Tát
Tụng Kinh Địa Tạng Gia Trì – Con Trẻ Bệnh Nặng Được Hồi Phục Kỳ Diệu