Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, thường gọi tắt là Kinh Địa Tạng, là bộ kinh trình bày rõ ràng về sự thật của đời người: sanh – lão – bệnh – tử. Trong kinh, chúng ta thấy hội tụ đại nguyện từ bi rộng lớn của Địa Tạng Vương Bồ Tát, sự chứng minh của chư Phật Bồ Tát, cùng với lời khai thị từ bi của Đức Phật Thích Ca, để hiển bày nhân quả báo ứng không thể nghĩ bàn, đồng thời cho thấy giáo hóa thấm nhuần tình thương của Bồ Tát Địa Tạng.
Ngài phát đại nguyện: “Địa ngục chưa trống, thề chẳng thành Phật; chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ Đề.” Do vậy, chúng ta tôn xưng Ngài là Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Trong tất cả kinh điển Phật giáo, giáo lý của Kinh Địa Tạng được xem là dễ hiểu, nên rất được đại chúng tiếp nhận và hành trì. Kinh này đặc biệt thích hợp trong việc trợ duyên siêu độ cho người đã khuất, cũng như hộ niệm lúc lâm chung. Người còn sống có thể đem công đức tụng kinh mà hồi hướng bảy phần, thì người mất được hưởng một phần, giúp họ thoát khổ, sanh thiện xứ.
Kinh Địa Tạng ghi chép lại sự kiện Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì lòng hiếu kính mà lên cung trời Đao Lợi (tầng trời thứ hai trong cõi Dục giới) để thuyết pháp cho Thánh mẫu Ma Da phu nhân. Trong pháp hội này, Đức Phật cũng tán thán hạnh nguyện và những tiền thân độ sinh của Địa Tạng Bồ Tát, như câu chuyện Bà-la-môn nữ cứu mẹ, Quang Mục nữ độ mẫu.
Trong kinh, qua những lời vấn đáp của các vị thánh giả như: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phật mẫu Ma Da, Định Tự Tại Vương Bồ Tát, Tứ Thiên Vương, Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Quảng Bồ Tát, Đại Biện Trưởng Giả, Diêm La Thiên Tử, Ác Độc Quỷ Vương, Chủ Mạng Quỷ Vương, Kiên Lao Địa Thần, Quán Thế Âm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát..., cùng đối thoại giữa Địa Tạng Bồ Tát và Đức Phật, mà mở bày cho chúng ta biết sự thật của cảnh giới địa ngục, cũng như những pháp môn cứu độ: lúc còn sống, khi lâm chung, khi sám hối, và khi cầu siêu cho thân quyến. Đây cũng là bộ kinh hiếm hoi có sự hiện diện cùng lúc của nhiều vị đại Bồ Tát và chư Phật danh hiệu được nêu rõ.
Đức Phật Thích Ca còn đặc biệt phó chúc Địa Tạng Bồ Tát, từ sau khi Ngài nhập Niết Bàn cho đến khi Đức Di Lặc Bồ Tát thành Phật, hãy đảm nhận làm bậc Đạo Sư, giáo hóa và độ thoát cho tất cả chúng sanh trong sáu đường: trời, người, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục.
Tuy nhiên, từ xưa đến nay vẫn có sự hiểu lầm cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị quản lý địa ngục, hay sợ rằng tụng Kinh Địa Tạng sẽ chiêu cảm quỷ thần và gặp điều chẳng lành. Thật ra đó chỉ là tà kiến và mê tín. Quý Phật Tử tham khảo thêm Sách Kinh Địa Tạng hoặc Máy Tung kinh Địa Tạng tại Máy Niệm Phật đang cung cấp, nội dung của máy và sách được nhiiều Phật Tử để gieo duyên cúng dường hoặc mua về để mở máy liên tục cả ngày lẫn đêm để cho gia quyến giảm trừ nghiệp chướng và siêu thoát về cõi Phật.
Địa Tạng Bồ Tát nổi bật với hạnh hiếu, Ngài lấy việc hiếu thuận cha mẹ làm gốc, lấy tâm báo ân làm nhân duyên cứu độ chúng sanh. Vì vậy, Kinh Địa Tạng cũng được gọi là Kinh Hiếu trong Phật giáo. Bởi lẽ, ân cha mẹ dưỡng dục vô cùng sâu nặng, nếu trưởng thành rồi mà không biết báo đền, thì chưa trọn đạo làm người.
Do nêu rõ những giáo lý căn bản như nhân quả, hiếu đạo, địa ngục, công đức, hồi hướng, siêu độ... Kinh Địa Tạng trở thành bộ kinh nhập môn quan trọng, giúp người mới học Phật có chánh tri chánh kiến, từ đó tránh sai lạc trên đường tu tập. Đây là quyển kinh lợi ích cho cả người và mình, nên được khuyến khích trì tụng hằng ngày.
Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có giảng rõ: Địa Tạng Bồ Tát ở những đời quá khứ từng hiện thân làm Bà-la-môn nữ, Quang Mục nữ, Tiểu quốc quốc vương... Nhờ phát đại nguyện rộng sâu, trải qua vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, không ngừng tu tập và thực hành hạnh nguyện ấy, mà thành tựu quả vị Bồ Tát.
Từ vô số kiếp lâu xa không thể tính kể (trong kinh thường dùng những đơn vị như Vô lượng, A-tăng-kỳ, Na-do-tha, Bất khả thuyết để chỉ số lượng cực lớn, không thể đo lường), khi còn là con một vị đại trưởng giả, Ngài vì cầu được thân tướng trang nghiêm thanh tịnh như ngàn phước trang nghiêm của chư Phật, nên trước Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, đã phát lời đại nguyện này.
Lại vào thời quá khứ, nơi kiếp số không thể nghĩ bàn, khi hiện thân làm Bà-la-môn nữ, để cứu độ người mẹ do không tin nhân quả, thường khinh chê Tam Bảo mà đọa địa ngục, Ngài đã đến trước tháp tượng của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, chí tâm phát ra lời đại nguyện rộng lớn.
Rồi trong một kiếp quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, khi hiện thân làm một người phụ nữ bình thường tên là Quang Mục, vì muốn cứu người mẹ đã tạo nghiệp sát hại và phỉ báng mà bị đọa địa ngục chịu khổ vô cùng, Ngài đã đối trước mười phương chư Phật trong hư không mà phát ra đại nguyện này.
Lại nữa, vào vô lượng A-tăng-kỳ Na-do-tha bất khả thuyết kiếp về trước, có một Đức Phật ra đời, hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, trụ thế sáu vạn kiếp. Vị Như Lai này, khi chưa xuất gia, từng là một vị quốc vương của một tiểu quốc. Ngài cùng một vị quốc vương nước láng giềng kết bạn, đồng hành tu mười nghiệp thiện, đem lợi ích cho chúng sanh. Để cứu độ nhân dân nước bạn vì tạo ác nghiệp mà phải chịu khổ, hai vị vua cùng nhau phát nguyện:
Một vị nguyện sớm thành Phật đạo, rồi dùng sức từ bi độ thoát hết thảy chúng sanh tội khổ.
Một vị nguyện nếu chưa độ hết chúng sanh đau khổ, khiến họ được an vui và thành tựu Bồ Đề, thì quyết chẳng thành Phật.
Người phát nguyện sớm thành Phật đạo, chính là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; còn người phát nguyện độ hết chúng sanh rồi sau mới thành Phật, chính là Địa Tạng Vương Bồ Tát.
🙏 Như vậy, từ thuở nhân địa xa xưa, Địa Tạng Bồ Tát đã lập hạnh nguyện vô cùng sâu rộng, nhiều lần vì lòng hiếu thảo và từ bi mà cứu độ cha mẹ cùng chúng sanh, nguyện vào địa ngục để độ tận tội khổ, rồi sau mới chứng thành Phật đạo. Đây là cội nguồn của danh hiệu Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát mà chúng ta xưng niệm hôm nay.
Địa Tạng Bồ Tát gắn bó mật thiết với các pháp sự tang lễ. Ngài còn được tôn xưng là “Diệt Ác Thú Địa Tạng” – tức Bồ Tát với đại nguyện diệt trừ ba đường ác, cũng gọi là “Phá Ác Thú Bồ Tát”.
Theo truyền thuyết, Địa Tạng Bồ Tát có thể hiện vô biên thân tướng, thậm chí thị hiện trong giấc mộng để chỉ dạy cho chúng sinh, nên còn được gọi là “Vô Biên Thân Bồ Tát”.
Trong Kinh Liên Hoa Tam Muội, có ghi chép danh hiệu các hóa thân như:
Mười hai Địa Tạng,
Mười tám Địa Tạng,
Phá Quân Địa Tạng,
Quỷ Thần Địa Tạng,
Diêm Ma Địa Tạng…
Trong Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ – Quyển 5, ghi chép về Thai Tạng Giới – Địa Tạng Viện, có sáu vị thượng thủ:
Địa Tạng Bồ Tát,
Bảo Xứ Bồ Tát,
Bảo Chưởng Bồ Tát (Phật học đại từ điển chép là “Bảo Thủ”),
Trì Địa Bồ Tát,
Bảo Ấn Bồ Tát,
Kiên Cố Ý Bồ Tát.
Trong Kinh Phật Thuyết Địa Tạng Bồ Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương, có ghi:
Kim Cang Nguyện Địa Tạng Bồ Tát – tay trái cầm tràng phan đầu người, tay phải kết ấn Cam Lộ, chuyên cứu độ địa ngục đạo.
Kim Cang Bảo Địa Tạng Bồ Tát – tay trái cầm bảo châu, tay phải kết ấn Cam Lộ, chuyên cứu độ ngạ quỷ đạo.
Kim Cang Bi Địa Tạng Bồ Tát – tay trái cầm tích trượng, tay phải kết ấn Nhiếp Thọ, chuyên độ súc sinh đạo.
Kim Cang Tràng Địa Tạng Bồ Tát – tay trái cầm kim cang tràng, tay phải kết ấn Thí Vô Úy, chuyên cứu độ A-tu-la đạo.
Phóng Quang Vương Địa Tạng Bồ Tát – tay trái cầm tích trượng, tay phải kết ấn Dữ Nguyện, chuyên độ nhân gian.
Dự Thiên Hạ Địa Tạng Bồ Tát – tay trái cầm Như Ý Châu, tay phải kết ấn Thuyết Pháp, chuyên cứu độ chư thiên.
Trong Mật giáo Chân Ngôn tông – Giác Thiền Sao, ghi:
Địa Ngục Đại Định Trí Bi Địa Tạng – tay trái cầm bảo châu, tay phải cầm tích trượng.
Ngạ Quỷ Đại Đức Thanh Tịnh Địa Tạng – tay trái cầm bảo châu, tay phải kết ấn Dữ Nguyện.
Súc Sinh Đại Quang Minh Địa Tạng – tay trái cầm bảo châu, tay phải cầm Như Ý.
Tu La Thanh Tịnh Vô Cấu Địa Tạng – tay trái cầm bảo châu, tay phải cầm Phạn Hạp.
Nhân Đạo Đại Thanh Tịnh Địa Tạng – tay trái cầm bảo châu, tay phải kết ấn Thí Vô Úy.
Thiên Đạo Đại Kiên Cố Địa Tạng – tay trái cầm bảo châu, tay phải cầm kinh điển.
Trong Kinh Phật Thuyết Diên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát, nói về Diên Mệnh Địa Tạng – do tâm không sinh diệt nên có năng lực kéo dài thọ mạng. Ngài có hai vị thị giả:
Bên trái là Chưởng Thiện Đồng Tử, thân màu trắng, cầm hoa sen trắng, biểu thị cho việc điều phục pháp tánh.
Bên phải là Chưởng Ác Đồng Tử, thân màu đỏ, cầm kim cang xử, biểu thị cho việc hàng phục vô minh.
Trong Bí Ký của Lương Trợ Thân Vương – Dữ Nguyện Kim Cang Địa Tạng Bồ Tát Bí Ký, có dẫn từ kinh điển rằng:
Thắng Quân Địa Tạng – đầu đội mũ Không Tịch, thân mặc giáp Đà La Ni, đeo gươm trí kim cang, tay cầm phướn phát tâm, gươm hàng phục nghiệp ác. Bên tả có Chưởng Thiện Đồng Tử (bản địa là Phổ Hiền Bồ Tát), bên hữu có Chưởng Ác Đồng Tử (bản địa là Văn Thù Bồ Tát). Hóa thân này được xem là đặc biệt linh ứng tại Nhật Bản.
Đàn Đà Địa Tạng – hóa thân cứu độ địa ngục, tay cầm tràng phan đầu người, biểu thị nghiệp báo và sự ràng buộc của tội nhân, nhưng khi Địa Tạng cầm thì khép miệng, biểu thị lòng từ bi không trách tội.
Bảo Châu Địa Tạng – hóa thân cứu độ ngạ quỷ, tay cầm Như Ý Bảo Châu, biến hiện thức ăn uống để no đủ.
Bảo Ấn Địa Tạng – hóa thân cứu độ súc sinh, tay giơ bảo ấn, biến hiện cam lộ, ngăn ngừa sự tàn hại lẫn nhau.
Trì Địa Địa Tạng – hóa thân cứu độ A-tu-la, có năng lực nâng đỡ mặt đất khiến cảnh giới an ổn, tránh chiến tranh với chư thiên.
Trừ Cái Chướng Địa Tạng – hóa thân cứu độ nhân gian, giúp người trừ tám khổ.
Nhật Quang Địa Tạng – hóa thân cứu độ chư thiên, chiếu soi và trừ khổ năm suy của cõi trời.
Trong Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Tân Biên của Đại sư Hoằng Nhất, còn nêu thêm các danh hiệu hóa thân khác:
Hộ Tán Địa Tạng,
Diên Mệnh Địa Tạng,
Mâu Ni Địa Tạng,
Tán Long Địa Tạng,
Phá Thắng Địa Tạng,
Bất Hưu Tức Địa Tạng.
👉 Như vậy, Địa Tạng Bồ Tát không chỉ hiện một thân, mà có vô lượng hóa thân để tùy cơ cứu độ sáu đường, từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, nhân gian cho đến chư thiên – biểu hiện trọn vẹn tâm đại nguyện và đại bi của Ngài.
Trong Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Đức Thế Tôn giảng rằng: Địa Tạng Bồ Tát từ vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp về trước, công hạnh đã viên mãn, công đức đã đầy đủ, vốn đã có khả năng vượt qua biển trí tuệ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Tất cả trí). Thế nhưng, do sức đại nguyện bản thệ, Ngài khéo léo ứng hiện dưới thân Bồ Tát, tùy duyên thị hiện để độ thoát chúng sanh trong cõi đời ngũ trược ác thế.
Kinh dạy:
“Thiện nam tử này (chỉ Địa Tạng Bồ Tát), từ khi phát tâm đến nay, đã trải qua vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp. Công hạnh đã tròn đầy, công đức đã đầy đủ. Nhưng do sức bản nguyện tự tại, Ngài khéo quyền biến thị hiện, ứng hóa khắp mười phương. Dù thường du hóa vô số quốc độ, thường khởi công hạnh, nhưng ở trong cõi ngũ trược ác thế này, sự giáo hóa cứu độ lại đặc biệt sâu dày. Đó là bởi sức bản nguyện huân tập, cũng vì chúng sanh nơi đây cần được hóa độ nên cảm ứng như vậy.
Từ mười một kiếp đến nay, Ngài đã trang nghiêm cõi thế giới này, thành thục vô số chúng sanh. Vì thế, trong pháp hội này, thân tướng Ngài trang nghiêm, oai đức thù thắng, chỉ trừ chư Như Lai ra thì không ai có thể sánh kịp!”
🙏 Qua đó, chúng ta thấy Địa Tạng Bồ Tát vốn đã thành tựu quả Phật từ vô lượng kiếp trước, nhưng vì sức Đại Nguyện "Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật", Ngài vẫn hiện thân Bồ Tát để cứu độ chúng sanh trong cõi đời ác trược này. Chính do tâm đại bi và bản nguyện không cùng, Ngài đặc biệt gần gũi chúng sanh Ta Bà, đồng hành cùng họ trong mọi cảnh khổ, để dần dẫn dắt ra khỏi luân hồi sinh tử.
Địa Tạng Bồ Tát trong cõi Ta Bà hiện thân Bồ Tát, tùy duyên ứng hóa khắp mười phương. Vào thời Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, Ngài được Đức Phật phó chúc trọng trách giáo hóa chúng sanh nơi cõi Ta Bà, cho đến khi Đức Di Lặc Bồ Tát hạ sinh thành Phật tại thế giới này.
Do đó, chúng sanh thường tôn xưng Ngài là Địa Tạng Bồ Tát. Bởi vì Ngài hiện thân Bồ Tát để trợ duyên cùng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật trong việc giáo hóa, nên trong nghệ thuật tạo tượng Phật giáo, người ta thường phối thờ Thích Ca Mâu Ni Phật – Quán Thế Âm Bồ Tát – Địa Tạng Vương Bồ Tát, gọi chung là “Ta Bà Tam Thánh”.
🙏 Ý nghĩa này cho thấy Địa Tạng Bồ Tát không chỉ phát nguyện độ sinh trong quá khứ, mà ngay trong hiện tại Ngài vẫn đang đồng hành cùng Đức Phật Thích Ca, trợ duyên cùng chư Phật Bồ Tát để cứu độ tất cả chúng sanh trong cõi đời ác trược này.
(Trích Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, phẩm Như Lai Tán Thán – Phẩm thứ 6)
Trong pháp hội, Bồ Tát Phổ Quảng cùng bốn chúng thưa hỏi, Đức Phật liền giảng lược về những lợi ích phước đức mà Địa Tạng Bồ Tát đem lại cho chư Thiên và loài Người. Bao gồm:
Nghe danh, xưng tán liền tiêu tội ba mươi kiếp:
“Nếu có người nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, rồi chắp tay cung kính, tán thán, lễ bái hay khởi tâm ngưỡng mộ, thì người ấy được siêu vượt tội nặng trong ba mươi kiếp.”
Được sanh lên cõi Trời, vĩnh viễn không đọa ác đạo:
“Nếu có người vẽ hình tượng, hoặc tạc bằng đất, đá, gỗ, sơn, vàng, bạc, đồng, sắt… một lần chiêm ngưỡng, lễ bái, thì người ấy được sanh lên cõi trời Đao Lợi đến trăm lần, không còn đọa vào ác đạo. Khi phước trời đã hết, sanh trở lại nhân gian, vẫn được làm Quốc vương, hưởng phước lợi lớn.”
Không còn thọ thân nữ nhân:
“Nếu có người nữ, chán ghét thân nữ, chí tâm cúng dường hình tượng Địa Tạng Bồ Tát bằng hoa hương, ẩm thực, y phục, bảo vật, phướn lọng… ngày ngày không thoái thất, thì đến khi mạng báo thân nữ này chấm dứt, trải qua trăm ngàn muôn kiếp, không còn sanh vào thế giới có thân nữ nữa. Trừ phi do đại bi nguyện lực, muốn thị hiện nữ thân để độ thoát chúng sanh. Nhờ công đức cúng dường ấy, trăm ngàn muôn kiếp chẳng thọ thân nữ.”
Nếu hiện đang là nữ nhân, liền được đoan chính, viên mãn:
“Nếu có người nữ xấu xí, nhiều bệnh khổ, nhưng chí tâm lễ bái trước tượng Địa Tạng Bồ Tát, chỉ trong một bữa ăn thôi, thì từ muôn ngàn kiếp về sau, luôn được thọ thân đoan chánh, tướng hảo viên mãn. Nếu chẳng chán ghét thân nữ, thì trong vô số đời, thường được sanh làm vương nữ, vương phi, hoặc con gái các đại thần, trưởng giả, thân tướng đoan nghiêm, phước đức đầy đủ. Tất cả đều do chí tâm lễ bái Địa Tạng Bồ Tát mà được phước như vậy.”
Được quỷ thần ngày đêm ủng hộ:
“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, ở trước tượng Bồ Tát, tấu nhạc, ca ngợi, xưng tán, dâng hương hoa cúng dường, hoặc khuyên một người, nhiều người làm như vậy, thì trong đời hiện tại và đời vị lai, thường được trăm ngàn quỷ thần ngày đêm che chở, không để điều ác lọt vào tai, huống chi là phải tự thân chịu tai ương.”
Dù phạm tội ngũ nghịch, cũng được giải thoát:
“Nếu có người bệnh nặng sắp qua đời, khiến họ nghe danh Địa Tạng hoặc nghe đọc tụng kinh điển này, dù các căn tán loạn, hơi thở dứt mất, trong vòng một đến bảy ngày, được nghe cao tiếng xưng niệm, thì sau khi mạng chung, những tội nặng trong đời trước, cho đến tội Ngũ Vô Gián, đều được vĩnh viễn giải thoát, đời sau thường biết được túc mạng.”
Quyến thuộc nhiều đời được nhờ phước lực mà thoát khổ:
“Này Phổ Quảng! Nếu ông dùng thần lực khiến quyến thuộc nơi ác đạo, được nghe tụng đọc kinh này, tự đọc hay nhờ người đọc, ba biến hoặc bảy biến, thì quyến thuộc ấy thoát khỏi khổ não, cho đến trong chiêm bao cũng không còn thấy cảnh ác đạo nữa.”
Người thấp hèn, nô tỳ, bất tự do được sanh nơi tôn quý:
“Nếu đời vị lai, có kẻ hèn hạ, nô tỳ, người bị trói buộc, biết do nghiệp xưa mà chịu khổ, nay chí tâm sám hối, lễ bái tượng Địa Tạng, chí tâm niệm danh hiệu Bồ Tát một vạn biến trong vòng bảy ngày, thì khi mạng chung, trải qua ngàn muôn đời, thường được sanh nơi tôn quý, không còn rơi vào ba đường ác khổ.”
Trẻ sơ sinh được tăng phước, sống lâu, an ổn:
“Này Phổ Quảng! Nếu đời vị lai, trong cõi Diêm Phù Đề, có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ… hoặc bất kỳ chủng tộc nào, khi sinh con trai, con gái, trong bảy ngày đầu nên vì đứa trẻ ấy mà đọc tụng kinh này, hoặc niệm danh hiệu Bồ Tát đủ một vạn biến, thì nếu do nghiệp cũ đáng chịu quả báo xấu, liền được giải thoát, an lạc, dễ nuôi, thọ mạng dài lâu. Nếu vốn do phước mà sanh, thì lại càng thêm an vui, sống lâu, phước thọ tăng trưởng.”
Hiện đời gia đình an ổn, áo cơm sung túc:
“Nếu vào các ngày trai (mồng 1, mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30…), có thể tụng đọc kinh này một biến, thì hiện đời nhà ấy không gặp tai họa, bệnh tật, áo cơm đầy đủ sung mãn.”
Vì thế, Đức Phật dạy:
“Phổ Quảng! Ông nên biết rằng, Địa Tạng Bồ Tát có trăm ngàn muôn ức đại oai thần lực, công đức lợi ích không thể nghĩ bàn như vậy.”
🙏 Đây chính là phần Như Lai tán thán công đức của Địa Tạng Bồ Tát, để chúng ta tin sâu, nguyện hành và y giáo phụng trì, gieo căn lành, kết thiện duyên, lợi lạc cho cả hiện đời lẫn vị lai.
Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm rằng:
Về sau, trong đời vị lai, nếu có người hữu duyên phát khởi tâm từ bi cứu giúp chúng sanh, khi họ khát ngưỡng cầu được giải thoát, nếu thấy tượng Địa Tạng Bồ Tát hoặc nghe danh hiệu Ngài, rồi chí tâm quy y, lễ bái, cúng dường, thì chắc chắn được như sở nguyện.
Đức Phật lại dạy Bồ Tát Hư Không Tạng rằng:
Nếu có chúng sanh hữu duyên, thấy tượng Địa Tạng Bồ Tát và Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, rồi đọc tụng, cúng dường, thì sẽ được hai mươi tám điều lợi ích, nên gọi là “Địa Tạng Nhị Thập Bát Ích”.
Ngay cả chư Thiên, Long thần, Quỷ thần… nếu chí tâm đọc tụng, chiêm lễ, cúng dường, cũng đều được bảy điều lợi ích.
Trong Kinh Địa Tạng, phẩm thứ 11, Kiên Lao Địa Thần bạch Phật:
Nếu trong đời hiện tại hay vị lai, có chúng sanh dùng đất, đá, tre, gỗ… dựng một am nhỏ, trong đó an trí tượng Địa Tạng Bồ Tát, rồi đốt hương cúng dường, chiêm lễ, tán thán, thì sẽ được mười điều lợi ích.
🙏 Ý nghĩa này dạy rằng:
Chỉ cần khởi một niệm quy y, một lần cúng dường, một lần lễ bái Địa Tạng Bồ Tát, thì công đức và phước báo vô lượng.
Không chỉ loài người, mà ngay cả chư Thiên, Long thần, Quỷ thần cũng được lợi ích khi quy y và cúng dường Ngài.
Trong Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh Địa Tạng Bồ Tát khai thị Pháp Môn Địa Tạng Chiêm Sát.
Pháp môn này dùng mười chín thẻ gỗ gọi là Chiêm Sát Luân, chia thành ba nhóm, theo đúng nghi quỹ chiêm sát mà nêu lên những câu hỏi liên quan đến việc tu hành, nghiệp báo, hay đời sống hằng ngày. Sau đó, chí tâm thỉnh cầu Địa Tạng Bồ Tát khai thị đáp án.
Trong kinh, Đức Phật giảng rõ:
Mỗi loại vấn đề đều có nhiều cách trả lời.
Nếu quẻ chiêm sát rơi vào ô trả lời thì đó là tương ứng, tức lời chỉ dạy chính xác.
Nếu quẻ ra ngoài phạm vi trả lời thì đó là không tương ứng, tức không phải lời khai thị.
Ngoài ra, kinh còn dạy về Địa Tạng Sám Pháp. Người tu có thể kết hợp việc lạy sám với Chiêm Sát Luân để quán xét nghiệp báo nhiều ít, và biết rõ đã thanh tịnh hay chưa.
Tương truyền Tổ sư Ngẫu Ích Đại Sư từng hành trì pháp môn này.
Pháp môn Chiêm Sát Địa Tạng khác hẳn với việc bói toán cầu thần quỷ ở thế gian (mà Phật giáo ngăn cấm). Tuy nhiên, Phật pháp có để lại một số pháp môn chiêm sát đặc biệt, như:
Pháp môn Chiêm Sát Địa Tạng,
Pháp môn Bói Văn Thù,
Pháp môn Quán Âm Linh Khóa.
Những pháp môn này được chư Phật, Bồ Tát đặc biệt để lại nhằm giúp hàng căn cơ hạ liệt trong thời mạt pháp có thể duy trì chánh niệm, chánh nghiệp, và quán xét nhân quả một cách thù thắng.
Tại Trung Hoa, có Hòa thượng Mộng Tham từng hoằng truyền pháp môn này.
🙏 Ý nghĩa sâu xa:
Pháp môn Chiêm Sát không phải để cầu may rủi, mà là một phương tiện thiện xảo của Bồ Tát Địa Tạng, giúp người học Phật phản tỉnh nghiệp báo, tăng trưởng tín tâm nhân quả, và từ đó tinh tấn tu hành.
Trong Phật giáo Đại Thừa, đặc biệt là ở các quốc gia Đông Á như Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, Địa Tạng Vương Bồ Tát (Kṣitigarbha Bodhisattva) là một trong những vị Đại Bồ Tát được tôn kính rộng rãi. Ngài phát đại nguyện rằng:
“Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ Đề.”
(Địa ngục chưa trống, con nguyện chưa thành Phật. Chúng sinh độ hết, con mới chứng Bồ Đề).
Chính vì đại nguyện này, Địa Tạng Bồ Tát được xem là bậc đại từ đại bi, chuyên cứu độ chúng sinh nơi địa ngục, ngạ quỷ, cùng những kẻ nhiều nghiệp chướng khổ đau.
Ý nghĩa thần chú
Thần chú Địa Tạng Vương Bồ Tát là một phương tiện thiện xảo, giúp người trì tụng:
Tiêu trừ nghiệp chướng nhiều đời nhiều kiếp.
Được chư hộ pháp, quỷ thần thiện lành che chở, tránh sự quấy nhiễu của oan gia trái chủ hay các hồn linh vất vưởng.
Chuyển hóa phiền não, sân hận, nuôi lớn tâm từ bi.
Hồi hướng công đức cho cửu huyền thất tổ, oán thân trái chủ, thai nhi hương linh, giúp họ được siêu sinh về cảnh giới an lành.
Công năng tu tập
Người trì chú thường là:
Những ai đang chịu nhiều khổ đau, bệnh tật, nghèo khó, oan gia báo oán.
Người bị ác mộng, bị bóng đè, hay cảm thấy có sự quấy nhiễu vô hình.
Người mong cầu an lành cho bản thân và quyến thuộc.
Người phát tâm hồi hướng cho hương linh, đặc biệt là các thai nhi bị sẩy hay bỏ (ở Nhật Bản gọi là Mizuko).
Trong tín ngưỡng dân gian, Bồ Tát Địa Tạng còn được xem là người bảo hộ cho trẻ nhỏ, cho người đã khuất, cho các linh hồn cô đơn nơi nghĩa trang, thậm chí ở Nhật Bản, Ngài còn được tôn kính như vị hộ thần của lính cứu hỏa.
Lợi ích trì chú và niệm danh hiệu
Khi gặp cảnh nguy nan, khổ đau, hay bị vong linh quấy nhiễu, chỉ cần nhất tâm xưng niệm “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” hoặc trì chú của Ngài, liền được gia trì, thân tâm an ổn.
Người kiên trì trì niệm lâu dài sẽ được tăng trưởng phước báu, trí tuệ, tiêu nghiệp và gieo duyên giải thoát.
✨ Như vậy, thần chú Địa Tạng Vương Bồ Tát không chỉ là phương tiện giúp người đối trị những sự sợ hãi do vô hình quấy nhiễu, mà quan trọng hơn, còn là con đường đưa hành giả trở về với chánh niệm, lòng từ bi và niềm tin sâu chắc vào nhân quả.
CHHIM BHO CHHIM BHO CHIM CHHIM BHO / AKASHA CHHIM BHO / VAKARA CHHIM BHO / AMAVARA CHHIM BHO / VARA CHHIM BHO / VACHIRA CHHIM BHO / AROGA CHHIM BHO / DHARMA CHHIM BHO / SATEVA CHHIM BHO / SATENI HALA CHHIM BHO / VIVA ROKA SHAVA CHHIM BHO / UVA SHAMA CHHIM BHO / NAYANA CHHIM BHO / PRAJÑA SAMA MONI RATNA CHHIM BHO / KSHANA CHHIM BHO / VISHEMA VARIYA CHHIM BHO / SHASI TALA MAVA CHHIM BHO / VI AH DRASO TAMA HELE / DAM VE YAM VE / CHAKRASE / CHAKRA VASILE / KSHILI PHILE KARAVA / VARA VARITE / MADERE PRARAVE / PARECHARA BHANDHANE / ARADANE / PHAN CHI CHA CHA / HILE MILE AKHATA THAGEKHE / THAGAKHI LO / THHARE THHARE MILE MADHE / NANTE KULE MILE / ANG KU CHITABHE / ARAI GYIRE VARA GYIRE / KUTA SHAMAMALE / TONAGYE TONAGYE / TONAGULE / HURU HURU HURU / KULO STO MILE / MORITO / MIRITA / BHANDHATA / KARA KHAM REM / HURU HURU
Oṃ Ha Ha Ha Vismaye Svāhā – Om Ha Ha Ha Win Sam Mo Ti So Ha
Om / Namo Ksitigarbha Bodhisattva hoặc Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Om Pramardane Svaha
Namo Di Zhang Wang Pu sa
Om Ah Kshiti Garbha Thaleng Hum
Tại nhiều nơi ở Nhật Bản, thường thấy thờ phụng sáu tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát, gọi là Lục Địa Tạng.
Nguồn gốc của pháp môn này xuất phát từ giáo lý Lục đạo luân hồi trong Phật giáo: sáu cõi (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, nhân đạo và thiên đạo). Mỗi vị Địa Tạng Bồ Tát ứng hiện để cứu độ chúng sinh trong một cõi.
Danh hiệu của Lục Địa Tạng có hai hệ thống thường được lưu truyền:
Theo lục đạo:
Địa ngục đạo → Đàn Đà Địa Tạng (檀陀地藏)
Ngạ quỷ đạo → Bảo Châu Địa Tạng (寶珠地藏)
Súc sinh đạo → Bảo Ấn Địa Tạng (寶印地藏)
Tu La đạo → Trì Địa Địa Tạng (持地地藏)
Nhân đạo → Trừ Cái Chướng Địa Tạng (除蓋障地藏)
Thiên đạo → Nhật Quang Địa Tạng (日光地藏)
Theo Kim Cang danh hiệu:
Địa ngục đạo → Kim Cang Nguyện Địa Tạng (金剛願地藏)
Ngạ quỷ đạo → Kim Cang Bảo Địa Tạng (金剛寶地藏)
Súc sinh đạo → Kim Cang Bi Địa Tạng (金剛悲地藏)
Tu La đạo → Kim Cang Tràng Địa Tạng (金剛幢地藏)
Nhân đạo → Phóng Quang Vương Địa Tạng (放光王地藏)
Thiên đạo → Dự Thiên Hạ Địa Tạng (預天賀地藏)
👉 Như vậy, Lục Địa Tạng biểu trưng cho tâm nguyện cứu độ không phân biệt, từ địa ngục khổ đau đến cõi trời an vui, không nơi nào vắng bóng đại nguyện từ bi của Bồ Tát Địa Tạng.
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Xem thêm các bài viết Về Nguyện Lực của ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát