- Viếng Chùa Châu Thới
- Con Đường Kỷ Niệm
- Có Một Loài Cây Chỉ Nở Hoa Lúc Cuối Đời
- Trái Cây Và Một Vài Loại Bánh Đặc Biệt
Viếng Chùa Châu Thới
Chùa Châu Thới tọa lạc trên đỉnh núi Châu Thới, thuộc xã Bình An, huyện Dĩ An, là một trong những ngôi chùa cổ nhất của tỉnh Bình Dương. Những công trình kiến trúc Phật giáo độc đáo, vẻ đẹp yên bình, thoáng đãng của chùa thu hút nhiều khách thập phương đến viếng thăm.
Chùa Châu Thới nhìn từ dưới lên
Ngọn núi Châu Thới cao khoảng 85m, gồm 220 bậc thang lên núi (các bậc này do chư tăng ở chùa xây đắp bằng xi măng vào năm 1971). Cho đến nay, tuổi của chùa Châu Thới vẫn chưa xác định rõ ràng. Giữa chùa có một tấm biển đề “Tân Dậu niên, chánh ngoạt sơ kiến nhật” (ngày tốt đầu tháng Giêng năm Tân Dậu), bên dưới ghi 1612, như vậy có thể hiểu chùa được xây vào năm 1612. Nhưng thượng tọa Thích Huệ Thông cho rằng lấy năm Tân Dậu (1681) là năm dựng chùa thì hợp lí hơn, vì năm 1612 là năm Nhâm Tý.
Lối lên chùa
Chùa Châu Thới gồm nhiều khu vực kiến trúc: chánh điện, nhà tổ, điện Thiên Thủ Thiên Nhãn, miếu thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu và Ngũ Hành Nương Nương… Điểm nổi bật trong lối kiến trúc của chùa là sử dụng các mảnh gốm sứ để trang trí, tạo hình rồng phượng, đắp các bức tranh mô tả sự tích nhà Phật…
Một góc chùa Châu Thới
Chùa Châu Thới hiện đang giữ gìn nhiều tượng và chuông có giá trị văn hoá và lịch sử. Chùa có bộ tượng đồng nơi chánh điện, có 2 bộ tượng cổ là Thập bát La Hán và Thập điện Diêm Vương bằng đất nung, 3 pho tượng đá từ thế kỷ 18, 1 tượng Quan Âm bằng gỗ mít hàng trăm tuổi… Vào năm 1988, chùa đúc một đại hồng chung theo mẫu chùa Thiên Mụ (Huế), nặng 1,5 tấn, cao 2m. Năm 2003, một chiếc đại hồng chung bằng đồng được đúc ngay tại chùa với trọng lượng khoảng 5 tấn. Ngoài ra, chùa còn có một tượng Quan Âm Bồ Tát lộ thiên cao 22,5 m, nặng trên 100 tấn, được xem là pho tượng cao nhất của tỉnh Bình Dương.
Đại hồng chung nặng 5 tấn
Tượng Quan Âm Bồ Tát cao 22,5m
Ngoài yếu tố tâm linh, chùa Châu Thới còn thu hút du khách nhờ không khí mát mẻ trên núi, bằng phong cảnh hữu tình và yên tĩnh với những hàng cây trăm năm tuổi. Đứng trên đỉnh núi, phóng tầm mắt xa xa sẽ thấy thấp thoáng cảnh TP.HCM, TP Biên Hoà, thị xã Thủ Dầu Một và dòng sông Đồng Nai quanh co uốn khúc…
CON ĐƯỜNG KỶ NIỆM
Quê tôi ở thành phố Biên Hòa, nên đường phố nào cũng có dấu chân tôi. Nhưng con đường thân quen nhất mà tôi đi lại từ thuở nhỏ đến bây giờ là đường quốc lộ 15.
Hồi ấy, nhà ba mẹ tôi, ở cách quốc lộ 15 hơn 100m. Vì vậy mà tôi xin gọi nó là "đưồng nhà tôi".
Cách nay gần 50 năm, khi tôi còn nhỏ, mỗi ngày, vào lúc 4h sáng, tôi thức giấc thì đã nghe tiếng "lọc cọc-cóc cách" của đoàn xe bò đi từ ngã ba Vườn Mít đi ra các khu rừng ở Suối chùa, Trảng dài, Tân phong...Đoàn xe bò nối nhau dài khoảng 200m, ở dưới lườn của mỗi xe đều có treo cây đèn dầu(đèn bão). Trên xe thường có hai người, họ nằm ngủ thêm hay ngồi nói chuyện làm ăn. Họ không cần cầm cương(dây mũi) , mà bò vẫn đi ngay hàng thẳng lối, không lạng lách, leo lề vô trạt tự .
Sau đó, là tiếng "lách cách" giòn giã của những chiếc xe ngựa từ Tam hiệp, Tân mai, Núi đất...chở bạn hàng vào chợ Biên hòa, và ngực lại. Sau khi cho tiền chúng tôi ăn quà sáng, Mẹ tôi quảy gánh ra đường, chờ xe ngựa, vào chợ Biên hòa lấy cá.
Khi trời sáng tỏ, trên đường xuất hiện lưa thưa vài chú công nhân đi bộ đến ngã ba Máy cưa để vào hảng cưa BIF. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe máy loại Vet-pa, go-ben...nổ máy "bong bong" xì khói đen, chạy vào thành phố.
Rồi đến các chị nữ sinh trường học Ngô Quyền, Trần Thượng Xuyên...Một số ít người có tiền thì đi bằng Pê-lô-sô-lết màu đen có đầu máy trên bánh xe trước, còn đa số thì đi xe đạp, đi bộ. Cho nên sáng nào cũng vậy, tôi thường thấy cảnh đi lại trên "đường nhà tôi" một cách êm đềm, đầy ấn tượng. Hầu như suốt khoảng thời thơ ấu, tôi không thấy một cảnh tai nạn giao thông nào nghiêm trọng nào trên "đường nhà tôi" và tôi cũng không biết hình dáng chú cảnh sát giao thông ra sao?
Bây giờ, tôi vẫn thỉnh thoảng đi lại trên "đường nhà tôi" thuở ấy, nhưng tôi không còn hy vọng thấy cảnh xe bò, xe ngựa và các loại phương tiện giao thông chậm chạp như xưa nữa. Bởi vì khoa học ngày càng phát triễn, lương xe này càng khá nhiều, khiến mặt đường trở nên chật hẹp, mặc dù đã được mở rộng.
PHÙNG KIM THỌ
Trong cõi trần, có những loài cây nở hoa đẹp và buồn như những huyền thọai, như những triết nhân. Người ta khó vui được khi nhìn thấy một giàn hoa ty-gôn đỏ như màu máu vẳng về những câu thơ của TTKH. Nhìn hoa sen, lòng người chợt nhận ra lẽ vô thường thanh sạch của kiếp người. Ai đã từng có một đêm thức với hoa quỳnh, hẳn khó cầm được tấc lòng trước hình ảnh cái đẹp quá đỗi mong manh, mau chóng tàn phai. Người xưa một lần qua núi, thấy hoa lau nở trắng bạt ngàn, đã thảng thốt buông một câu hỏi buồn trong gió: Sao vừa nở ra đã vội bạc đầu thế hở lau ơi?...
Và có một lòai cây chỉ nở hoa lúc cuối đời, nở xong là chết; nở như biết mình đã đến và sẽ ra đi trong cuộc đời; nở như những giây phút dọn mình để giã từ thế giới; nở tưng bừng như điệp khúc một giai điệu tráng ca. Loài đó là TRE.
Tôi nghĩ đã là người Việt Nam, dù ở đâu và làm gì, ai cũng mang trong mình một bóng tre của quê hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, đó là nơi hội ngộ buồn vui của cả một cộng đồng người, của hàng bao thế hệ. Không biết tự bao giờ, tre đã tham dự vào cuộc sống con người như một thành tố không thể thiếu được. Chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa đã có cây tre trăm đốt. Và dẫu bây giờ nông thôn đã công nghiệp hóa, tre vẫn không thể thiếu được đối với người. Đó là cái đòn gánh có thể đàn hồi làm nhẹ vai cô thôn nữ gánh nước từ bến sông, gánh hàng ra chợ. Đó là mười sáu vành nón lá của mẹ tảo tần qua nắng qua mưa nuôi ta khôn lớn, của em dấu nụ cười e ấp mối tình đầu. Đó là giàn bí, giàn bầu nặng lòng câu ca” bầu ơi thương lấy bí cùng” mà cha ngồi hóng mát mỗi chiều. Đó là sợi lạc buộc chiếc bánh chưng xanh luôn gợi nhắc truyền thuyết Lang Liêu...Tre thủy chung một mối tình vĩnh cửu với người dân Việt.
Tre lặng lẽ hiến dâng cho đời và hy sinh tất cả. Trong hành trình dâng hiến của mình, tre dâng tặng con người âm thanh từ máu thịt của nó. Tre tạo nên tiếng sáo Trương Chi làm điêu đứng người con gái cành vàng lá ngọc. Tre tạo nên cây đàn bầu khiến cả thế giới phải nghiêng mình trước ngón độc huyền của một dân tộc, mà dân tộc ấy lại đa tình làm sao: Đàn bầu ai gảy nấy nghe, làm thân con gái chớ nghe đàn bầu! Trên non ngàn Tây Nguyên, hồn tre nứa nhập vào đàn t’rưng, nhập vào đàn klông put, đàn chim đing, đàn đinh pah, và cả ching kram (chiêng tre) nữa...tạo nên âm sắc núi rừng Việt Nam độc đáo, không nơi nào có được. Và trong những ngày hội tưng bừng trên đỉnh non ngàn này, không thể thiếu những ché rượu cần mà những chiếc cần như những chiếc cầu của tình bạn, tình yêu, của men nồng cuộc sống...
Từ măng non, tre vươn thẳng làm bạn với người, làm ngọn roi dạy dỗ con người, giúp con người bao điều trong cuộc sống, để rồi một buổi sáng kia, tre nở một chùm hoa và chết. Rất hiếm khi được nhìn thấy hoa tre nở. Cho đến nay, tôi cũng chỉ thấy hoa tre nở hai lần. Lần thứ nhất vào năm tám mươi lăm thế kỷ hai mươi. Năm đó, vào một buổi sáng mùa hè, rặng tre la ngà dọc bờ sông Bồ trước làng tôi đột nhiên bừng nở. Cả một rặng tre bung nở từng chùm hoa vàng xuộm màu thổ hoàng. Cái màu đất bình dị nổi lên nhờ màu xanh của lá, bình dị đến nao lòng. Cả lũ học trò chúng tôi hồi đó chiều nào cũng rủ nhau nhìn ra sông vì nghe nói tre nở hoa xong là chết. Nhiều đứa, trong đó có tôi, cố cãi lại lời tiên tri ấy, đến mức phải chia phe thách nhau. Nhưng ngày qua ngày, cả rặng tre từ màu xanh dần chuyển sang ngà. Cho đến một chiều nọ, không tin nổi vào mắt mình khi rặng tre cứ nhạt thếch hẳn đi, chúng tôi chạy ra xem thì thân tre đã khô lại. Trên cao kia, những chùm hoa tre khô cong rủ xuống như một bàn tay tiễn biệt. Bất giác cả bọn cứng lưỡi không nói nên được câu nào, cũng không thấy mấy đứa thắng cuộc yêu sách một điều gì. Trong làng có chú Tin đã ngoài bốn mươi vẫn còn độc thân chưa vợ. Chú xin làng chặt một cây tre về làm đàn bầu. Đêm đêm, tiếng đàn của chú nỉ non vang vọng khắp làng. Chẳng bao lâu sau thì có người chịu cùng chú kết tóc se tơ. Người già nói, tre nở hoa cả rặng như vậy là có điềm lành. Quả nhiên sau đó ít lâu thì không khí công cuộc đổi mới cũng tràn về nông thôn, đời sống của người nông dân có đỡ cực nhọc hơn. Nhưng cũng sau khi rặng tre la ngà ấy chết, làng không còn một cây tre la ngà nào nữa. Bấy giờ cả làng mới thấy do tre la ngà nhiều gai nên ít người trồng. Sau này tôi lang thang khá nhiều nơi, chú tâm tìm gặp một bóng dáng tre la ngà, ấy vậy đến giờ vẫn chưa một lần thấy lại
Lần thứ hai tôi nhìn thấy hoa tre nở chỉ mới cách đây vài năm, vài tháng sau cơn đại hồng thủy tháng 11 năm 1999. Ấy là một hôm giá rét đầu năm 2000, qua khỏi cầu TâyThành bỗng thấy một bụi tre nhỏ bên sông nở hoa trong mưa. Cũng những chùm hoa tre vàng nhạt như màu đất, vươn giữa trời xanh bất chấp mưa gió phủ phàng, rét buốt, bản lĩnh vô cùng. Bây giờ nghiệm lại, thấy loài tùng bách như người quân tử ẩn dật, tre lại như người quân tử dấn thân. Từ khi sinh ra, tre đã sống và trả nghĩa cho đất cho người, đến khi hoa tre nở lần đầu tiên, cũng là lúc tre từ giã sự góp mặt của mình trên trái đất. Đó là một cách đi vào cõi chết rất đẹp: cả tre và hoa đều chết đứng như phơi gan ruột cùng trời đất chứ không chịu rủ xuống, lụi tàn như bao loài hoa khác. Cái chết ấy không hề làm cho người ta thấy một chút bi ai nào, ngược lại, nó tạc dáng hình giữa trời đất mênh mông, giữa muôn vàn hoa lá như một triết nhân đã ngộ ra chân lý về lẽ sống chết của con người.
Hồ Đăng Thanh Ngọc
Trái cây và một vài loại bánh đặc biệt
Thuở nhò, trưa hè tôi thường leo cây ổi trước nhà đọc sách, trái nào gần thì hái ăn, thỉnh thoảng bày trò leo trèo thám hiểm với bạn trong xóm, lục lọi những lùm, bụi, hang rào đi tìm những cây trái có thể ăn được, nào là khoai mở rừng, nấm rơm, măng non, rồi chùm bao, lá vang…và những loại trái mà nhiều người không biết rỏ, lớn lên với hành trang của tuổi học trò tôi đi ăn tạp khắp miền đồng bằng sông Cửu long, để rồi sau này cái tình thâm quyến luyến ấy kết tinh thành tình yêu một cô gái Cẩn Thơ. Xin gởi bài viết này- dựa theo ký ức với tham khảo hình ảnh trên Internet-cho người bạn đời và các bạn như một chút quà của quê hưong.
Loại trái đặc biệt của miền Nam
Trước nhất là trái nhản lồng dại, mà tôi không thấy ít ai nói tới, gọi là nhản lồng nhưng là loại trái hoang, lúc sống màu xanh, chin màu vàng, trong có hột, ngọt lờ lợ,, không có “cơm” nhiều, khác với trái nhản lồng (chùm bao) và nhản trồng.
Nhản trồng có nhiều rất thơm khi chín, nhiều cơm , cây khá lớn, trái phải bọc lại trong lổng bằng tre, hay bao bố nếu không bị chim ăn hết. Nói đến chuyện này tôi nhớ chuyện đi ăn cắp nhản. Nhà tôi cũng có trồng một cây nhản nên tôi biết gia đính tôi quý nó như thế nào, nhưng bạn tôi thôi thúc rủ rê mãi tôi cũng mềm lòng. làm chuyện này vui , mạo hiểm mà được ăn tha hồ, vả lại nhà bà mười Két trong xóm có trồng rất nhiều, mất trộm chút đỉnh, chắc không sao. Thế là tôi theo bọn nó. Một hôm đợi trời tối cả lủ hẹn nhau lén lúc men theo rào, rôì xé rào vào sân nhà bà, biết trước bà không nuôi chó nên lọt vào êm xuôi, tôi có nhiệm vụ đứng dưới đất chụp lồng nhản từ trên quăng xuống, mọi chuyện đang trôi chảy bổng có người trong nhà mở cửa , ánh đèn hắt ra, hai thằng bạn khôn hồn ngồi trên cây im phăng phắc còn tôi thiếu điều muốn tè, tay ôm đầy bao nhiêu bao nhản. Cửa đóng lại hú vía, , tôi bảo tụi bạn đủ rồi nhảy xưống, bổng cửa nhà lại mở lần nửa thể là tụi nó nhảy xuống cùng tôi chạy bán sống bán chết, tìm chổ không ai thấy, không ai theo mà chia nhản, khổ nổi lúc chạy có thằng lọt vào vũng nước dơ, hôi thúi nên phải tìm chổ rửa thế là phải chạy vào nhà tôi. May quá để ý, tụi tôi dùng gáo múc nưóc từ cái lu cạnh giếng mà rửa . Xong rôì tụi tôi ra cổng chia nhản ăn đả , chưa xong, nhản ăn đả vừa ăn lại vừa canh nhưng vẩn không hết, phải dâú tiệt chứ ai biết được thì chỉ có đường chết , rồi mấy bao nhản không phải quăng đi đâu. Cuối cùng mổi thằng phải đem dâú một mớ, còn bao nhiêu thì dâú trên mái cổng tìm cách thủ tiêu sau.
Trái chùm bao (nhãn lồng).
Chùm bao cũng còn gọi tên khác như nhãn lồng, lồng đèn, lạc tiên là loại dây dại mọc hoang ở hang rào trước nhà tôi, cũng thấy mọc ven đường quê hoặc bờ rào, trái màu xanh được bao bằng lưới , chín trở màu vàng có vị chua chua chua ngọt ngọt, trong có nhiều hột như hột của trái trứng cá. Chim chóc rất thích loại trái này, có câu ca dao “Chim Quyên ăn trái nhản lồng thường . lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi”
Nấu canh với đọt dây chùm bao nghe nói giúp trị bịnh mất ngủ ?
Trái bần
Cây bần không cao, rậm, xanh mướt quanh năm mọc đầm mình dọc những bờ sông nước mặn. Trái bần hình bong vụ (con quay) hơi dẹp, dáng giông giống như trái hồng dẹp còn xanh. Lần nào đo tắm sông gần cầu Bính lợi cũng hái Bần sống ăn với muối ớt đem theo , có vị chua và chát, lúc chin thì ngọt lờ lợ.
Trái bình bát
Bình bát là loại dây leo mọc hoang ở hang rào trong xóm, lá hình ba góc bầu màu xanh đậm trái giống như dưa chuột, nhỏ cỡ ngón tay út. Còn loại bình bát cây thì trái hơi tròn, màu vàng lúc chin bên trong có nhiều hột to đen như hột trái mẳng cầu .
Trái lý
Cây lý trồng trong sân nhà, giống cây mận (đào) nhưng hoa to rực rỡ hơn, trái lý tròn trịa hơn mận, không xốp, giòn ngọt ngào, mùi thơm rất đặc biệt.
Trái xay
Còn gọi là trái sa lông lớn bằng đầu ngón tay út , vỏ da cứng có màu nhung đen, cơm bên trong mềm và ngọt, hình cây trái xay chỉ mọc nơi vùng cao.
Trái ô môi
Trái ô môi dài, cong, màu da đen , sần sùi, gút mắc, cứng như khúc cây, nhìn ngoài không hấp dẩn. Khi ăn phải vạt hai bên trái, chừa lại hai sống hai bên, đẩy nhẹ hai sống so le, gỡ ra từng miếng tròn đường kinh khoảng 20mm mà ăn. Ô môi có vị ngọt, vỏ hột ô môi ngâm nước sẻ mềm, có thể nấu chè ăn rất ngon.
Trái điệp
Trái điệp nhỏ cỡ quả đậu hòa lan, khi tách vỏ, phần ăn được là lớp cơm mỏng bao quanh hột màu xanh phỉa bên trong.
Trái keo
Trái keo vỏ mềm cong vòng khúc mắc, bên trong trái hình bầu dục, lớp cơm hơi nhớt nhưng có vị ngọt , nếu còn hơi sống hơi chát chát . Đường Chi Lăng nay là Phan Đăng Lưu (còn biết là đường Háng Keo) xưa có trồng nhiều cây keo, khu vực này cũng gọi là khu Hàng Keo, nơi đây có một cơ quan ai cũng biết đến gọi là bót Hàng Keo, nếu bị kéo vào đây là có chuyện lớn rồi.
Trái me
Me có loại chua và loại ngọt, me có thể ăn sống, rốt, chin hay ngào đường, được dùng như là một loại gia vị để nấu chua , canh chua, nước sốt chua. Có người chế biến nước me thành nước uống. Hột me được bé gái làm trò chơi búng đủa , hột me ngâm lâu, nấu cho mềm lột vỏ nấu chè hột me ăn với nước dừa rất ngon
Đường Saìgòn ngày xưa nhất là ở quận nhất có nhiều hàng me. Đường Hàm Nghi với những hang me, khi có gió to me rơi rụng , nhặt ăn rất ngon !
Đường Nguyển Văn Học nay là Nơ trang Long cũng trồng me có xen với Điệp va Phưọng Vĩ, còn đâu tiếng ve kêu và hoa phượng đỏ , đó đây có những cô cậu bé cắp sách tung tăng nhặc me theo những cơn giông nhẹ. Kỷ niệm không bao giờ phai nhòa theo năm tháng !
Trái Hồng Quân
Có người gọi bồ quân, mồng quân, gia đình tôi gọi là hồng quân vì nó thích hợp hơn cả, lúc còn non trái xanh chua và chát, lúc chin có màu tím đỏ thường khoảng mùa tựu trường. Cây Hồng Quân khó trồng và thân cây có gai nhưng không nhiều, nhà tôi cho dây thanh long mọc quấn theo thân cây nên lúc trái hồng quân chính loáng thoáng với hoa thanh long trông rất đẹp.
Cây hồng quân rất sai trái nặng trỉu trên cành mong manh , lá nhò rất sạch và đẹp. Trái hồng quân giống như cục đạn bi nên trè em và các cô bé rât thích.
Trái còn xanh, ăn rất chua và chát, nhiều người ăn chấm với muối ớt Trái chin từng chum trông rất đẹp. Có thể hái nó lúc gần chin (gọi là chin hờm) rồi vò trong tay thì ăn ngọt. Nếu chin thì ngọt hơn, khi ăn thì cũng nên vò sơ sơ, cơm phía trong ngọt và có hột. Ăn nhiều thì đi cầu, quá độ có thể bị táo bón. Đặc biệt các cô còn nhỏ tuổi thích hồng quân lắm, nhưng khéo chứ hồng quận dính quần áo thì giặt khó ra.
Trái chùm ruột
Cây chùm ruột trong sân nhà tôi rất sai trái nhưng không mấy người ăn vì chua quá, cây thấp lè trái đeo kín chi chít khắp các cành, trái giòn có vị chua nên thường được ăn với muối ớt . Chùm ruột chua ngâm vói đường muối ăn rất ngon. Chùm ruột làm mứt cũng rất ngon vì có vị ngọt lẩn với vị chua.
Trái Lê-ki-ma (Lecuma)
Đây là một cây trái khá lớn trong sân, lá xanh đậm một bên, còn một bên có màu sa pô chê. Còn gọi là likima , có người gọi là trái trứng gà, gọi màu trứng gà thì không đúng lắmvì lúc chín vỏ bên ngoài từ xanh chuyển sang vàng bên trong thì thịt màu vàng ửng , ăn rất ngọt thịt giống như trái bơ, ăn rất ngán. Hột to bên trong màu đen bóng láng. Bông lê-ki-ma nhỏ , rất đẹp giống rất đồ trang sức nên các cô bé nhỏ thich làm xâu chuổi đeo.
Trái sê ri, sơ ri (Cerise)
Trái còn sống thì chua, chín có vị ngọt, màu hồng đỏ tưoi, tròn , đường kính khoảng 10mm, c ó hai ba hột cứng . Hình dáng bên ngoài giống trái chùm ruột.
Trái chùm bát
Trái chùm bát trái này chim hay ăn. Ăn vào ngọt , cũng là trái dại ít người trồng.
Trái thanh trà
Hình dáng và bên trong y chang trái xoài nhỏ ăn vào chua chua ngọt ngọt. Thấy bán nhiều ở Cần Thơ, V ỉnh Long…
Trái trứng cá
Một loại cây thân gỗ nhỏ, cao khoảng 5-10m 7-12 m với các cành xếp chồng lên nhau, lá rủ có mép khía răng cưa. Khi ra bông màu trắng, trái chín màu hồng đỏ nhạt , giống trái sơ ri , vị ngọt , trong ruột chứa nhiều hột nhỏ giống như trứng cá.
Trái sim khô
Trái Sim
Cây sim thường mọc thành rừng trên đồi cao rất đẹp mắt. “Những đồi hoa sim, Ôi những đồi hoa sim, tím chiều hoang biền biệt” Hoa sim có màu tím, trái bằng đầu ngón tay út và khi chín trái có màu tím đen thẩm , cơm của trái sim mềm và bở vị sim ngọt lờ lợ, có xen lẫn vị chát và có thể dùng làm rượu.
Trái sim khô thường có bán trong các chợ, chung với trái xay.
Trái dừa nước
Dừa nước mọc trong những vùng sình lầy dọc theo bờ sông, hay vùng ven cửa biển có thủy triều lên xuống, có nước chảy chậm bồi đắp phù sa dinh dưỡng. Nếu để tự nhiên, dừa nước sẽ phát tán sinh sôi nảy nở theo sự đưa đẩy của thủy lưu. Dừa nước rất thường gặp dọc theo bờ biển và các cửa sông ở miền Đồng bằng song Cửu long, đặc biệt xứ dừa Bến Tre.
Hoa cái nở rộ thành chùm ở đầu cụm hoa hình cầu, hoa đực màu đỏ hoặc vàng dạng đuôi sóc trên những nhánh kế sau. Khi hoa đã thụ phấn, những trái nhỏ ép vào nhau lớn lên thành như một quả bóng đường kính cỡ 25-30 cm trên mỗi đầu cuống (quài dừa). Hạt dừa nước khô già sẽ rơi rụng và phân tán theo thuỷ triều, có khi mọc mầm ngay khi trôi nổi.
Cơm dừa nước để ăn và lá để lợp nhà hay làm củi, không mấy ai biết đến kỹ thuật rút nhựa dừa nước từ cuống hoa để nấu đường, ủ rượu, làm bia, lên men giấm, chưng cất cồn và một số loại sản phẩm có giá trị khác trong khi đó lại là nguồn thu nhập ít có hiệu quả nhất của dừa nước. Sản lượng đường dừa nước trung bình 20,3 tấn/ha cao hơn so với đường mía (khoảng 5 đến 15 tấn/ha). (theo Wikipedia).
Trái vú sửa
Vú sửa là loại cây trái to, có nhiều loại và nhiều màu (căn bản trắng, tím, hồng) ngày xưa trong Nam còn gọi vú sửa màu tím là hồng nhung.
Trái vú sửa tròn trịa đường kính khoảng 5-8cm, lúc chin cơm vú sửa thơm và nhiều nước…sửa. Nếu cắt ngang trái vú sửa sè thấy cơm có hình ngôi sao. Trái vú sửa có mủ nên lúc ăn phải để ý, cách ăn dể nhất là cắt vú sửa làm hai rồi dung muổn mà ăn.
Trái điều (đào lộn hột)
Cây cao từ khoảng 3m đến 9m. Lá mọc so le, cuống ngắn.Hoa nhỏ, màu trắng có mùi thơm dịu. Trái hình thận dài khoảng 2-3cm . Trái khô, không tự mở, vỏ ngoài cứng, mặt hõm vào, cuống quả phình to thành hình trái lê hay đào, màu đỏ, vàng hay trắng. Do vậy người ta thường có cảm giác lộn hột (tức đào có hột nằm ngoài quả). Hột điều rất béo và có chứa dầu.
------------------------
Một vài loại bánh đặc biệt ở miền Nam
Ngày xưa hầu như má tôi rất khéo nội trợ , nấu ở nhà vừa rẻ lại vừa ngon, vừa vui, vì có sự tham gia của nhiều người, nhất là dịp Tết đến, vừa ăn lại vừa biếu cho nữa. Sau này bà lớn tuổi nên thường nấu chia với người dí ở cùng xóm. Trong các loại bánh được nhắc đến, chỉ có loại bánh chao là má tôi chưa làm bao giờ. Lúc còn thơ tôi thường phải canh chừng nấu bánh hàng giờ ngoài sân trước, những kỷ niệm gia đình khó phai, nhất là phải canh bánh đến khuya trong ánh lửa bập bùng và mùi khói bay trước Tết .
Bánh Tét
Bánh tét chỉ được gói và nấu trong dịp Tết nên khởi thủy được gọi là Bánh Tết, sau này bị nói trại ra là bánh Tét.
Bánh cúng
Khởi thủy bánh này được gọi là bánh cuốn, vì lá chuối phài cuốn hình ống tròn, dài cỡ gang tay người lớn, trước khi bỏ bột gạo pha vào (nước cốt dừa, muối, đướng, đậu) thường dùng để cúng “cô hồn” rằm tháng bảy, hoặc cúng tổ tiên trong những ngày giỗ chạp ở miền Nam, nhất là miền Đồng bằng sông Cửu Long cùng với bánh tét, bánh ít…”.
Bánh cấp
Loại bánh thường được dâng cúng cùng lúc với bánh cúng . Khởi thủy có tên là bánh cặp vì cứ hai cái úp mặt vào nhau rồi cột dây thật chặt. Nguyên liệu thì cũng giống như bánh cúng.
Bánh cay
Bánh này làm bằng khoai mì , có pha ớt, bỏ muối đường chiên vàng ăn mặn mặn cay cay rất ngon !
Bánh rế
Bánh rế là loại bánh ngọt được làm bằng khoai lang sắc ra thật mỏng thành sợi, đường nấu chảy được tưới lên mặt bánh như cái rế. Tương tự như cách đặt tên của chả giò rế… Bánh là đặc sản của nhiều nơi như Sóc Trăng, Phan Thiết …
Bánh hỏi
Khởi thủy là bánh xổi, hấp nóng hổi vừa thổi vừa ăn, lâu ngày biến thành bánh hỏi.
Bánh Chao
Bánh chao thường được làm từ bánh trung thu cũ. Nhờ đã qua một lần nướng, các loại nguyên liệu đều đã thấm đường nên khi nhồi với chao, bánh ra đúng vị bánh chao mặn mặn ngọt ngọt, lại thoang thoảng mùi hành lá nướng rất ngon. Nếu làm trực tiếp từ bột như cách bên, nên để bánh thật nguội hoặc để vài ngày cho bánh dịu rồi mới nhồi chao nướng thì sẽ ngon hơn. Món bánh chao đặc biệt này nên làm từ bánh trung thu, càng cũ càng ngon. Tuy nhiên, tuyệt đối không dùng bánh trung thu hư, mốc để làm bánh vì không thể loại bỏ được độc tố từ nấm mốc, không bảo đảm sức khỏe.
Bánh thửng, bánh thuẫn
Hai loại bánh hấp này cũng từa tựa như bánh bong lan và loại muffin của các xứ da trắng nói tiếng Anh, như hình thức bên ngoài thì khác hẳn.
Bánh cam, bánh vòng
Bánh Cam miền Nam làm bằng bột pha (gạo, nếp, nổi) , sau khi nhồi dẻo rồi có thể uốn dẹp vo tròn có nhưn bằng đậu xanh có trộn đường , sau đó được chiên lên.
Bánh vòng chỉ có bột dẻo kéo dài rồi khoanh tròn lên chiên chừa lổ trống ở giữa.
Ngày xưa người ta hay rao bán “ai ăn bánh cam bánh vòng hôn” ví hai thứ bánh này hay bán chung với nhau.