- Côn Mưa Đầu Hạ (CMQ)
- Sao Thiên Thu Không Là... (VTND)
- Chuyện Bà Mai (NTMT)
- Kỷ niệm Đệ Tứ Bốn Ngô Quyền (LSĐ)
- Còn nhớ hay đã quên! (NTH)
Không biết có phải sắp chia tay với thời tiết êm dịu của mùa Xuân không, mà bầu trời lại giận dữ, gầm gừ nổi sấm chớp. Cô mây mặt mày cau có một màu xám xịt giăng kín khắp nơi, kéo chị mưa nhanh chân bước tới. Anh gió tiện dịp hùa theo quật từng cơn mạnh làm rung chuyển cành cây, ngọn lá. Ban đầu, chị mưa đi chầm chậm từng bước...từng bước...rồi ào ào lướt tới, từng cơn trút xuống. Vạn vật lúc này thì hả hê, mãn nguyện được chị mưa ve vuốt và thì thầm với nhau: "Mùa mưa đã đến".
Mùa mưa đến, cũng là mùa Hạ bắt đầu. Hình như có sự hài hòa, khéo léo giữa cơn mưa ướt át với không khí oi nồng của nắng hạ. Mưa đã làm dịu đi cái gay gắt của khí trời mùa Hạ, xoa dịu muôn loài sau những trận nắng chói chan bằng những giọt nước trong lành, mát mẻ và bù lại, nắng hạ đã làm ấm áp muôn loài sau những con mưa dữ dội, khơi nguồn cho sự sống hoa trái, xanh tươi. Biểu tượng cho sự sống mạnh mẽ của mùa Hè là màu đỏ rực của hoa phượng và nhạc ve râm ran vừa du dương, vừa sôi nổi.
Nghe tiếng ve, nhìn mầu đỏ của phượng, tôi lại nhớ đến người bạn thân yêu của ngày còn đi học với bao tháng ngày êm đẹp đã qua, và tôi còn nhớ rất rõ lời ví von thật dễ thương của bạn: “Tuổi học trò chúng mình đẹp như giọt mưa lóng lánh và rực rỡ như màu đỏ của hoa phượng”.
Tôi làm sao quên được giọng nói Bắc Kỳ nhỏ nhẹ, dễ thương, tính tình hiền lành đáng mến của bạn tôi ngày ấy. Bạn thường nhường nhịn và chiều chuộng tôi, với bạn điều gì tôi nói ra cũng có lý và đúng cả. Điều đó, ngày ấy làm tôi thích lắm và bây giờ, nghĩ lại, tôi thấy thương bạn quá, biết làm sao bù đắp lại cho bạn đây? Tôi không chỉ gắn bó với bạn mà còn gần gũi với cả những người thân yêu trong gia đình bạn nữa. Mỗi thành viên trong gia đình bạn thì cũng giống như chính người thân của tôi vậy, gia đình bạn đã gây cho tôi biết bao niềm cảm mến.
Ba bạn, người đàn ông lịch lãm, từ tốn trọng nếp sống mẫu mực của người công chức. Đối với gia đình, Ông rất gần gũi với các con, chăm sóc, giúp đỡ vợ không nề hà. Không may, ông mất sớm, để lại cho người thân niềm tiếc thương vô hạn. Ngày ông mất, các bạn thân chúng tôi cùng các thầy giáo đã đến đưa ông về nơi yên giấc nghìn thu, và cùng lặng người nghe tiếng khóc than của Mẹ, chị, em và của bạn. Chúng tôi đều không cầm được nước mắt khi nhìn bạn lả người thương tiếc người Cha đáng kính. Mẹ bạn, người phụ nữ Hà Nội, nhỏ nhắn, dịu dàng, thường mặc chiếc áo lụa phin trắng, quần vải lụa đen. Bà nấu ăn rất tài, thêu đan thật khéo. Tôi và bạn thường hay bị Bà mắng yêu: “hai con bé này sao mà vụng về quá”. Mà quả thật vậy, bạn đã lười, tôi còn lười hơn, nhất là việc bếp núc, những bữa cơm mà giao cho tôi và bạn đảm trách thì thường bị dưới điểm trung bình.
Những chiếc áo len màu trắng, bạn mặc đi học, đẹp ơi là đẹp! Tất cả đều do bàn tay khéo léo của Mẹ đan, móc. Rồi đến chị Yến của bạn, chị rất hiền lành, cởi mở. Da chị ngăm đen, rất có duyên, chị hay cười, giọng cười giòn tan. Chị chu đáo, lo cho Mẹ và các em từ khi Ba mất. Chị thật xứng đáng là một người chị Cả đầy trách nhiệm. Chị cũng rất thương tôi, mỗi lần tôi ghé nhà, chị thường nấu món này, món nọ đãi tôi. Còn các em của bạn như các em: Dư, Hoà, Lan, mỗi em một tính. Em Dư ngày ấy rất nghịch ngợm, nói nhiều và hay trêu chọc hai đứa chúng tôi lắm. Trong nhà thì có thể nói, Dư là lanh lợi nhất. Điều gì mà không vừa ý thì không được với Dư đâu, Dư muốn là phải chiều mới xong. Tuy vậy mà Dư rất ngoan, chăm chỉ, siêng năng. Công việc trong nhà mà giao cho em thi chỉ một cái vèo là xong. Riêng hai em Hòa, Lan thì ít nói, nhất là em Út Lan thì "mít ướt" vô cùng. Hai em thường mặc đầm trắng hay hồng do Mẹ bạn may vá thêu nhiều bông hoa rất khéo léo trên áo. Ôi! Giờ ngồi nhắc lai gia đình và mọi người trong gia đình bạn thì tôi nhớ sao là nhớ! Biết đến bao giờ mới tìm lại đây?
Ngày ấy, bạn và tôi học chung một lớp, ngồi cùng một bàn. Bạn khá môn Anh Văn, tôi lại có khiếu về Việt Văn, hai đứa lại rất dốt về môn Toán. Eo ơi! Ngày nào có giờ toán thì hai đứa ngán ngược, ngán xuôi trông cho mau hết giờ. Hễ nghe tiếng chuông ra chơi vừa reo, hai đứa vội vàng chạy ngay ra căn-tin để đãi cho mình mỗi đứa một ly đậu bánh lọt, xanh xanh, đỏ đỏ nói là để xả xì trét (stress).
Tôi vẫn còn nhớ đến mái tóc của bạn, uốn cong cong úp vào đôi mép tai, tuy không chải chuốt nhiều, nhưng nó vẫn mượt sao, là mượt, trông dễ yêu lắm, và bây giờ xem mấy tấm ảnh bạn gởi về, mái tóc ngày xưa vẫn nguyên như vậy. Nhìn tóc mà tôi thấy gần gũi, thân thương sao đó. Tôi càng ngắm ban, càng nhớ lại bài hát xa xưa: “ Về Đâu Mái Tóc Người Thương ”. Ôi! Sao mà lãng mạn đến thế!
Một đặc điểm nữa ở bạn mà làm tôi không thể nào quên được. Đó là nụ cười. Nụ cười của bạn hiền hòa, thân ái đầy hòa bình. Tôi phải dùng từ ngữ Hoà Bình mới diễn tả được hết tâm trạng của tôi về nụ cười của bạn. Nói làm sao bây giờ? Bắt đầu thế nào đây? Nghĩ cũng khó, nhưng thôi cứ viết theo cảm nhận sâu sắc nhất, cái nhìn thực tế nhất về nụ cười của bạn tôi là được rồi.
Cứ mỗi lần Hè về, nhìn cơn mưa đầu hạ với những cánh phượng đỏ trôi theo giòng nước trên sân trường, bạn như bị cuốn hút, say đắm trước vẻ đẹp đẽ vô tận của những cánh hoa phượng theo giòng nước chảy, bạn nhìn tôi cười, như mong sự đồng cảm, chia xẻ và nói: “Xem kia, bồ nhìn xem, trông đẹp không, và thương cho những cánh phượng mong manh quá nhỉ?” Nụ cười của bạn lúc nầy trông hiền hòa, thân ái làm sao! Có những buổi đi cắm trại ngoài trời, khi đồi núi, lúc bờ biển dài xanh vô tận, v.v., bọn tôi, cả nam, nữ vui đùa, chọc ghẹo, cắp đôi nàng này với cậu khác, bạn tôi chỉ mỉm cười tuy tinh nghịch, nhưng lại rất thân ái: "Được đấy, đẹp đôi lắm". Nụ cười của bạn lúc này trông rất thiếu nữ và đầy hòa bình. Có những lúc làm bài kiểm tra trong lớp, nhất là giờ Toán, hai nữ dốt toán này có chỗ phải ngậm bút, bạn chồm lên phía trên, quay sang phía này, phía kia, cười hòa bình với bạn cạnh bên nhờ cứu bồ, và thế là tôi được hưởng "ăn theo”.
Mà đã nói đến nụ cười của bạn, thì phải nói đến đôi mắt. Đôi mắt một mí rất dễ thương. Đôi mắt mà bạn nói xấu ơi là xấu! Nhưng với tôi thì đôi mắt thật dễ thương ơi là dễ thương. Tôi nói với bạn: "Mắt một mí là mắt Nhật mà. Các cô minh tinh, diễn viên của Nhật thì đa số thường có những cặp mắt một mí đó, có sao đâu?” Nếu xấu sao họ được làm minh tinh, lên màn ảnh và nổi tiếng dữ vậy?” Tôi nói mãi, hình như bạn nghe cũng bùi tai, gật đầu cười hòa bình, "Ừ há” lại. Hòa bình. Với bạn, tôi lúc nào cũng có lý mà.
Nói thế chứ có lúc bạn cũng quyết đoán độc tài với tôi nhiều việc lắm. Nghĩ cũng tức, nhưng thôi, độc tài hợp lý thì biết nói sao?
Có lẽ bạn thừa hưởng được khiếu thẩm mỹ của Mẹ về cách may mặc, mua sắm và chọn lựa món ăn, nên trong việc này, hễ hai đứa có dịp “lội chợ” là bạn giành quyền quyết định. Tôi chọn bộ đồ màu xanh, bạn gắt nhanh: “Thôi, màu xanh mặc trông không sáng da lắm, chọn màu vàng nhạt đẹp hơn”. Tôi thấy cũng đúng nên nói theo: “Ừ, vàng thì vàng”. Rồi lúc hai đứa dắt nhau đi ăn, tôi khoái ăn bánh cuốn, chả lụa, bạn thì thích bún riêu, bạn ra chiêu dụ dỗ: “Mình ăn bún riêu trước đi, Trời đang mưa lạnh, ăn bún riêu cho ấm bụng, hợp hơn, ăn xong, nếu còn đói thì mình sang hàng bánh cuốn”. Tôi thấy cũng hợp lý, nên gật đầu: “Ừ, riêu thì riêu!” Trời đất! Lúc nghĩ lại sao bạn khôn quá, còn tôi lại ngu ngơ. Cái gì tôi cũng làm theo ý bạn, mà lại tự nguyện lắm, như thế mới đáng nói chớ, làm sao mà giải thích đây?
Và cứ thế, tình bạn của chúng tôi lớn dần theo năm tháng và ngày càng gắn bó, sâu đậm hơn. Học xong, mỗi đứa một nghề, mỗi người một nơi và đều tìm được một nửa yêu thương của mình cùng chung nhịp bước. Rồi cả gia đình bàn định cư ở nước ngoài, riêng tôi vẫn ở lại quê hương. Cứ mỗi lần phượng đến trong cơn mưa đầu Hạ, lòng tôi lại bùi ngùi nhớ đến ngày xưa, nhớ vùng trời thơ mộng của tuổi học trò, nơi ấy có bạn, có tôi, có bạn bè với bao kỷ niệm.
Tôi thương bạn vì nơi bạn đang sống thiếu tiếng ve sầu, thiếu màu phượng đỏ, nên bạn không nghe được những điệp khúc mùa hè của những ngày xa xưa ấy. Dù rằng, cuộc sống hiện nay, bạn không thiếu gì cả. Tôi biết bạn, thường nhung nhớ đến con đò ngang ngày xưa đã đưa hai đứa sang sông đến nhà tôi để cùng thưởng thức chùm trái ngọt của mùa Hè.
Bạn thương ơi, tôi biết lòng bạn đang dành một khoảng hồi ức, một chỗ ấm áp để cất giữ những kỷ niệm của những ngày xưa thân ái ở quê hương phải không?
Viết cho Oanh thương mến
Châu Mỹ Quế (tháng 6, 2011)
Sao Thiên Thu Không Là...
(Để tưởng nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên,
nhân ngày giỗ thứ 15 của anh / tháng Tám, 2008)
Khi gọi Minh Thủy để nhắc về buổi hẹn đi ăn trưa vào ngày Chúa nhật hôm sau, tôi nghe giọng Thủy thật nhẹ nhàng ở bên kia: “Dung à, mày đi với tao thăm mộ anh Nhiên trước khi đi ăn một chút được không? hôm qua là giỗ của anh ấy đó, chắc lâu lắm rồi mày đâu có đi đến đó hả nhỏ?”. Tôi giật mình như vừa được nhắc nhớ đến một người bạn thân, một kỷ niệm quen thuộc, rất gần gũi, rất tự nhiên mà mình đã có và vô tình quên khuấy đi mất. Ừ nhỉ, đời sống bên này với những bận rộn, hối hả từng ngày, đôi khi có ai tình cờ nhắc đến những người bạn nào đó đã có một thời thân thiết, giao thiệp qua lại với nhau thật lâu bỗng dưng “mất tích” không gặp nữa vì hoàn cảnh, công việc hoặc dọn đi xa, tôi vẫn mừng rỡ, háo hức, chờ được nghe thêm tin tức hoặc gặp lại. Huống chi là anh Nhiên, vừa là người anh, vừa là người bạn đời quá cố của đứa bạn thân thiết nhất của tôi từ dạo còn đi học cho đến giờ. Trong phút chốc, hình ảnh cao gầy, lỏng khỏng với hai cánh tay dài quá khổ hay quơ quơ để diễn tả và gương mặt cứ… nhăn nhó, bậm môi, mỗi khi nói chuyện với tôi của anh hiện ra, rõ ràng trong trí nhớ. Anh Nhiên và tôi đã có một thời gian thân thiết và cũng có một thời gian…thù nhau quá sức. Nhớ tới mối quan hệ rất ngộ nghĩnh, đầy “hỉ, nộ, ái, ố” của chúng tôi trong chuỗi ngày xa xưa ấy, tôi thật không biết phải vui hay buồn. Thời gian quả thật đáng sợ, mới đó mà anh mất đã 15 năm rồi. Lần này đến thăm anh, chắc chắn tôi có rất nhiều điều để nhắc nhớ.
Khi Thủy bắt đầu quẹo xe vào cổng của nghĩa trang Peek Family, cái âm thanh náo động ngoài đường phố bỗng dưng chìm dần, rồi tắt hẳn. Trước mặt tôi là con đường nhỏ vòng theo những vòm cây rợp bóng mát, thinh lặng, nhẹ nhàng… Mặt đất là những thảm cỏ xanh mượt mà được chăm sóc cẩn thận. Ngồi cạnh Thủy đang chầm chậm lái xe đến chỗ an nghỉ của anh Nhiên, tôi thong dong ngắm nhìn một khoảng không gian an bình, thoát tục đang trải rộng quanh mình, chỉ có tiếng gió rì rào trên các tầng cây, tiếng xào xạc của những chiếc lá khô đang uốn mình trên mặt đất khi bánh xe nghiến lên. Không khí yên lành, thanh tịnh dễ khiến lòng người lắng đọng. Những lo buồn, ray rức của đời sống, của những ngày trước kia đã có bỗng dưng chìm xuống, ngủ yên. Tôi như lịm người đi với cái cảm xúc lạ lùng chợt ùa tới, cái cảm giác mà từ lâu tôi không có được… bình yên và thanh thản. Không thấy bóng người lai vãng, buổi trưa cuối tuần thế mà vắng vẻ quá! Dường như những người nằm đây đã bị đời lãng quên? Lâu lắm rồi từ ngày tiễn anh ra đến phần mộ trong nghĩa trang này, tôi chưa bao giờ có dịp để trở lại viếng thăm, kể ra là cũng quá tệ! Nhưng biết làm sao hơn? thôi thì nhờ Thủy hôm nay cho tôi cơ hội để được thăm lại người mà tôi đã từng xem như một người anh và có lúc đã xem nhau như “kẻ thù” (như tôi và anh đã từng nghĩ về nhau sau một trận cãi vã kịch liệt).
Tiếng Thủy kéo tôi trở về với thực tại:
-"Chịu khó đi bộ một chút nha nhỏ, mộ anh Nhiên ở trong kia, không cho xe vô được."
Tôi cười:
-“Ừ thì có dịp đi excercise một chút, có sao đâu!”.
Tôi xuống xe với một tâm trạng nao nức, kích động như sắp sửa đi gặp lại người quen đã lâu rồi…thất lạc. Hai đứa chia nhau cầm bó hoa, nhang và hộp quẹt bắt đầu lần bước tìm bia mộ anh Nhiên. Nghĩa trang ở đây không choáng đầy mắt với những ngôi mộ xây cất đủ hình đủ kiểu, chằng chịt như ở Việt Nam. Các ngôi mộ ở Mỹ đều giống như nhau. Một khoảng đất cùng kích thước, nằm san sát, có hàng lối rõ ràng, tấm bia được đặt nằm phẳng phiu ngay trên mặt đất, vì thế cũng khó mà định hướng mộ của thân nhân mình nếu không biết trước.
Thủy nhắc tôi:
-“Coi chừng đạp lên mộ người ta đó nha, có khi mộ cũ quá rồi mày không thấy rõ cái mặt bia đâu.”
-“Ừ, tao biết mà.”
Tôi vừa đi vừa nhẩm đọc thử tên tuổi của những bia mộ gần bước chân mình nhất, có nhiều người chết thật trẻ, nằm bên cạnh những ông bà cụ tuổi thật cao. Nắng chói chan trên từng giòng chữ, trên những tấm ảnh đã phai màu với thời gian.
Chúng tôi dừng lại ở dưới một bóng cây với những tàn cao, to rộng, đầy bóng mát. Thủy nói:
-“Đây rồi, mộ của anh Nhiên may là được nằm ở chỗ này, có bóng mát lại cũng gần chỗ có nước, thoáng và lý tưởng, chứ mộ của ông Mai Thảo ở đàng kia, trơ trụi, không có cây cối gì cả nắng nóng cả ngày, mày ơi!”
Tôi rảo mắt nhìn quanh, cố nhớ lại hình ảnh của mười mấy năm về trước. Cũng nơi này, gia đình, bạn bè, người thân của anh Nhiên có mặt đông đủ lúc hạ huyệt, những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, mà lần đầu tiên tôi mới gặp mặt đã đứng ở đây đọc điếu văn, chia buồn, nhỏ lệ xót thương. Chưa bao giờ tôi được thấy nhiều nhân vật nổi tiếng cùng một lúc như thế. Tôi nhớ là mình đã rất xúc động khi nghe ông Phạm Duy với mái tóc bạc trắng ngậm ngùi, từ tốn nhắc đến những kỷ niệm với anh Nhiên và những bài thơ mà ông đã phổ nhạc. Tôi nhớ ca sĩ Việt Dũng đứng ở góc kia và một số người nữa nhìn tôi với đôi mắt hiếu kỳ khi thấy Thủy cứ gục đầu vào vai tôi khóc nức nở. Chắc họ thắc mắc không biết tôi là ai và có quan hệ gì với gia đình người quá cố. Và nơi đây, mẹ anh là người cuối cùng sau khi xác thân anh đã thực sự được đặt yên dưới lòng đất lạnh, đã khóc than, hối tiếc về sự ra đi của đứa con mà đến bây giờ trước sự thương tiếc, quý mến của thân hữu, của mọi người đối với anh, bà mới nhận ra con mình quả là một “thiên tài” đích thực. Nơi đây, chỗ này đã chứng kiến giờ phút cuối cùng “nghĩa tử nghĩa tận” của anh đấy mà. Những cành hoa đã thay nhau rơi xuống, phủ đầy trên nắp áo quan, những giọt lệ đã cạn khô trên mắt người đưa tiễn. Anh đã thực sự đi vào cõi thiên thu. Nơi mà anh đã cảm nghiệm được và nói đến rất nhiều từ những bài thơ đầu tiên. Tôi nhớ sau tang lễ của anh, khi mọi người lần lượt ra về, tôi đã đứng trước mộ anh một hồi lâu, nhớ đến bài thơ “Thiên thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập “Thiên tai”, một trong những bài thơ mà tôi rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía:
“Sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu.
Sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hôn mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau…
…………………………………….
Sao thiên thu không là thiên thu
Nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!”
Quả thật, sau mọi linh đình đưa tiễn, anh đã ở lại một mình trong nghĩa trang này với những khổ đau, nghiệt ngã của cuộc đời đã được chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh, đã cùng anh đi vào tận chốn thiên thu!
Tôi lặng lẽ cắm hoa vào cái bình đã có sẵn ở trước mộ, Thủy đi lấy nước ở một cái vòi cách đấy vài mươi bước và trở về đổ đầy vào bình hoa, tôi ngạc nhiên nhìn Thủy tưới phần nước còn lại lên trên mặt tấm bia, nhưng ngay sau đó lòng lại xúc động, bùi ngùi khi thấy Thủy dùng cuộn giấy mang theo, từ tốn lau sạch đi những bụi cát đang phủ lờ mờ trên đó. Bia mộ anh là một phiến đá làm bằng lacquer đen bóng, sau những vệt lau của Thủy đã lại sáng như gương. Tấm ảnh của anh hiện ra thật rõ ràng ở trên góc trái cùng với phần đầu của bài thơ “Giữa trần gian tuyệt vọng” anh viết từ năm 1972 nằm ngay bên cạnh. Tôi ngồi xuống, đọc từng giòng thơ đã được viết với nét chữ khắc thật đẹp với lòng trân trọng pha lẫn xót xa:
“Ta phải khổ cho đời ta phải khổ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(Vì thượng đế từ lâu kiêu hãnh
Cầm trong tay sinh tử muôn loài.
Tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
Thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)
Cũng khá thân và lại rất thích thơ anh Nhiên, nên hầu hết các bài thơ của anh tôi đều biết và thuộc lòng (hoặc ít nhất cũng vài đoạn trong mỗi bài). Riêng bài này, khi tình cờ nghe lại, trích trong bài viết “Tìm ở sao trời” của Hoàng Mai Đạt đăng trong tạp chí Văn Học và được đọc một lần trên đài radio Little Saigon hồi đầu năm, tôi đã ngậm ngùi, chợt nhớ ra: anh Nhiên đã mất lâu lắm rồi! Nghe nhắc đến bài thơ đã buồn, giờ trông thấy, đọc lại càng buồn và thấm thía hơn! Anh làm thế nào mà có thể khẳng định rằng cuộc đời mình là “phải khổ” “phải ê chề” và nhất là “phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định” từ năm mới vừa 20 tuổi?
Thủy vỗ nhẹ vai tôi, đưa mấy nén nhang và dặn dò:
"Mày khấn xong rồi cắm cho anh Nhiên vài cây, còn lại chừa để lát nữa đem cắm ở những ngôi mộ khác nha"
Từ ngày qua Mỹ, thực sự tôi cũng rất ít, hay nói hẳn ra là không có dịp nào đi vào nghĩa trang thăm mộ người chết như thế này, trừ những lần đưa tiễn, cầu nguyện ở nhà quàn trước khi hạ huyệt, nên có Thủy nhắc nhở cũng đỡ phải lúng túng.
“Khấn gì đây? Liệu anh có còn quanh quẩn đâu đây để nghe tôi nói không?” Tôi với anh từ lúc mới quen biết đến khi anh mất đi, có lúc đã chuyện trò vui vẻ, đã “cãi vã” thật nhiều, có lúc lại không thèm nhìn mặt hoặc nói với nhau lời nào. Hơn nữa, tôi đã không gặp anh ít ra cũng gần ba năm trước khi anh mất, anh giận tôi đã không cho tin tức gì của Thủy, tôi giận anh đã đối xử với đứa bạn thân của tôi và là vợ con anh quá… hờ hững, vô tình! Và như thế chúng tôi cứ như là “ân đoạn nghĩa tuyệt” từ đó. Không ngờ, chỉ một thời gian sau, anh đã tự rời bỏ cuộc đời quá sớm và dễ dàng như những bài thơ anh đã viết vậy!
Tôi cầm mấy nén nhang, mắt đăm đăm nhìn vào di ảnh của anh, thì thầm những lời không chuẩn bị mà vẫn nói thật suông sẻ như là đang có anh trước mặt:
“Anh Nhiên à, chắc rằng ở chốn “miên trường, vĩnh cửu” nào đó, anh đã quên hết mọi thống khổ, lụy phiền của nhân gian, đã được hưởng sự an vui, cực lạc đời đời rồi. Mong anh cũng quên và tha thứ cho những gì anh em mình đã hiểu lầm, giận ghét nhau trong quá khứ. Hãy ngủ yên và thanh thản trong“cõi thơ” trên chốn thiên đàng của anh. Hãy phò trợ cho Thủy và các con anh, giữ gìn, nâng đỡ chúng để chúng khôn lớn, vững chãi, có sức mạnh, niềm tin mà vượt qua mọi thử thách của cuộc sống, đừng để chúng vấp ngã, trầy sướt và đau đớn nha anh.”
Mắt tôi bỗng nhòa đi với ý tưởng là tôi đã nói được điều mình muốn nói với anh mà trước kia đã không có dịp. Lời xin lỗi rất chân thành. Dù gì tôi, Thủy và anh cũng có cái “duyên” với nhau trong một khoảng đời dù không dài lắm nhưng cũng không thể gọi là ngắn ngủi. Và cứ thế, những hình ảnh xa xưa bỗng quay về trong ký ức thật nhanh như những đoạn phim rời vừa được ráp nối.
Tôi nhớ lần đầu tiên, lúc anh vào lớp tôi để giới thiệu tập thơ “Thiên Tai”. Tôi đã ngạc nhiên vì không biết tại sao một nhân vật…tầm thường của trường mình, người vẫn có tiếng là “gàn”, thậm chí còn bị cho là “khùng” như anh mà lại biết… làm thơ và lại còn… dám in thơ đem bán nữa. Vì tò mò, tôi đã lật xem thử vài bài trong tập thơ và không ngờ bị lôi cuốn ngay với “Bài thấm mệt đầu tiên”, “Nên sầu khổ dịu dàng”, “Linh mục”, “Nên thời gian ấy ngùi trông”… tôi đọc say sưa, đọc mãi cho đến bài cuối cùng “Thiên Thu”, và như người vừa nhận ra mình đang cầm một “báu vật” trên tay, không thể nào để mất, tôi mua ngay một quyển dù lúc đó giá tiền của tập thơ không phải là nhỏ đối với tuổi học trò lớp mười của tôi. Tôi đem về nhà đọc đi đọc lại mãi những bài thơ của anh, bắt đầu thán phục về “tài làm thơ”, về sự liên tưởng, lý luận để bày tỏ, diễn đạt tâm tình một cách thật đơn sơ, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc qua việc sử dụng từ ngữ mới lạ, độc đáo của anh. Những hình ảnh rất dung dị, bình thường của đời sống qua thơ anh bỗng trở thành đẹp đẽ, ý nghĩa hơn. Tôi thật sự ngạc nhiên và thích thú với sự so sánh của anh trong “Bài thấm mệt đầu tiên”:
“Tình mới lớn phải không em rất thích?
Cách tập tành nào cũng thật dễ thương
Thuở đầu đời chú bé soi gương
Và mê mải dĩ nhiên làm lạ.
Tình mới lớn phải không em rất lạ?
Cách tập tành nào cũng ngượng như nhau
Thuở đầu đời chú bé ôm phao
Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước.
Tình mới lớn phải không em rất mỏng?
Cách tập tành nào cũng dễ hư hao
Thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
Và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ…”
Cũng nhớ, trong tập “Thiên Tai” bài "Phác họa" thật ngắn với một câu đã làm tôi sững sờ và có ấn tượng mạnh mẽ về con người của anh là:
“Tôi không đủ kiên nhẫn để đọc hết một quyển truyện dài, vì truyện dài không thể đọc vội vã. Người chắc cũng không đủ kiên nhẫn để yêu tôi vì tôi còn dễ chán hơn truyện dài. Tôi là một kịch bản trường thiên!”
Anh đã tự thu mình lại, khiêm nhường đi, chọn cho mình con đường cam phận, chịu thua thiệt, hay dùng đó để xác định rõ về bản tính, về chủ năng của chính mình, một “thiên tài” không dễ ai hiểu biết và cảm thông?
Từ đó, anh được tôi xem như là một nhà thơ trong danh sách “thần tượng” của thơ với ngôn ngữ mới lạ. Sau, nhờ chị Duyên, nhân vật trong bài thơ “ Khúc tình buồn”, được Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát “Thà như giọt mưa”, tôi lại có “duyên văn nghệ” được anh cho mượn phụ bản “Duyên” trong tập thơ “Thiên Tai” để làm bìa tập thơ “Tuyên ngôn 15”cho chính tôi và Ngọc Yến, một cô bạn cùng lớp. Thủy bị tôi rủ đi theo gặp anh mấy lần để lấy và trả tập bản kẻm, thì lại mắc vào một cái duyên khác “duyên nợ ba sinh” với anh sau này. Thật tình, lúc đó anh làm tôi rất cảm động vì thấy “nhà thơ lớn” mà sao lại dễ dãi với “đàn em nhỏ” như tôi mượn gì là được nấy. (Chắc tại nghe tôi khoe là “em nuôi” của chị Duyên?). Về sau, tôi còn… khám phá ra do gia đình có quan hệ dây mơ rễ má thế nào đó, mẹ của anh gọi ba tôi bằng cậu, tức là tôi tới vai “dì” của anh Nhiên lận. Chao ôi, thật là oai ghê!
Nhưng thú thật, anh có một cái tật mà tôi rất… kỵ là mỗi khi lỡ nói gì trái ý là anh chau mày, bậm môi, đôi mắt cúi gầm xuống, hai bàn tay chập vào nhau chống trước trán, lầm lì không nói gì hết cho đến lúc… bỏ đi. Có lúc tức quá, tôi bảo Thủy: “Ông này cứ làm như đang đóng kịch vậy đó mầy ơi!... thấy ghét!”. Thủy rất hiền, nhút nhát, ít nói, nên cô nàng chỉ cười lặng lẽ, không ý kiến. Cũng vì tính tình như vậy nên thư tình, quà cáp gì của anh Nhiên gửi cho Thủy sau này cũng một tay tôi chuyển giúp. Cứ tan trường, hai đứa đi bộ về nhà chỉ cần nhác thấy bóng chiếc Honda của anh Nhiên sắp lạng tới là Thủy đẩy tôi ra phía ngoài để nó đi bên trong, tránh nói chuyện hay nhận thư, quà từ anh. Vừa sợ vừa muốn cho xong, nên tôi cứ nhận đại rồi đưa qua cho Thủy ngay sau khi anh đã phóng xe đi mất. Thủy vừa nhận vừa phản đối nên tôi cũng không biết rõ cô nàng có… chịu chàng hay là không. Nhưng tôi thì thấy vui lắm vì nghĩ rằng mình đang làm chứng nhân cho một mối tình cũng lãng mạn quá đấy chứ. Cũng nhờ vậy mà có lần tôi được “ăn theo” với Thủy, lần đó, anh Nhiên rà xe cạnh tôi dúi nhanh một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: “Thuốc… bổ óc đó, một cho Dung, một cho Thủy, ráng uống để mà thức học bài thi”. Tôi đưa cho Thủy bọc thuốc, cảm động một chút, vui vui một chút, coi vậy mà anh chàng cũng… biết điệu quá đó chứ! Lúc ấy, anh Nhiên đã bắt đầu thân thiết với tôi, thỉnh thoảng cứ chạy xe đến nhà tôi đưa thư, kể lể mọi chuyện… Có một hôm, đang ngồi trong nhà tự dưng thấy anh chạy xe đạp xồng xộc tới, vừa dựng xe, vừa thở hào hồn kể cho tôi nghe chuyện “gây gỗ” giữa anh với anh T., em của chị Duyên, mới vừa xảy ra ở quán cà phê gần nhà tôi. Câu chuyện bắt đầu từ bài viết “Hột mè” của anh đăng trên báo Văn thì phải? Anh nói: “Thằng T. nói anh viết bài này “chửi” chị nó độc quá, nên nó tức đòi đánh anh…”. Tôi có đọc qua bài đó nên cười an ủi: “Anh viết cũng nặng tay lắm chứ bộ. Anh T. tức là đúng rồi. Thôi ai biểu viết mà chọc giận người ta làm chi. Chửi người khác mà anh vui sao?” Trước khi ra về anh còn nói như thật: “Lần sau, anh không có nhịn đâu.”. Tôi cười vì biết tính anh nói thì… dữ nhưng chẳng làm gì hại ai cả. Chắc cũng vì chuyện này mà thời gian sau anh đã viết “Bài tạ lỗi cùng người” có những câu thật cảm động:
“Năm năm trời… ta làm tên quái đản
Cầu danh trên nước mắt người tình
Năm năm trời có nhục có vinh
Có chua, chát, ngọt, bùi, cay, đắng…
Có hai mái đầu chia nhau thù oán
Có thằng ta trút nạn xuống vai em!
Năm năm trời …có một tên Duyên
Ta ca tụng rồi chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Nếu em còn thương mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận mỉm môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá
Nên tị hiềm nhen nhúm giữa ngây thơ
Nếu em còn chút đỉnh mộng mơ
Xin rộng lượng thứ dung người lỡ dại.”
Tôi dạo ấy cũng… hơi lo dùm cho Thủy, Thủy học rất giỏi, giỏi nhất trường, xinh xắn, tài năng toàn diện, ai cũng quí mến, còn cái ông nhà thơ này sao ngày nào cũng đón đường, tỏ tình, tỏ ý với Thủy mà làm thơ thì cứ thấy ca tụng hết cô này đến cô khác. Vậy thì thương thiệt hay giả đây?
Cho nên, đến khi Thủy năn nỉ nhờ tôi mang trả lại hết quà cáp, thư từ cho anh Nhiên, tôi đã…ngây thơ thương bạn, nhận lời mà có biết đâu tự mình đi đón nhận phong ba bão tố. Sau khi biết tôi mang mọi thứ đi trả giùm cho Thủy, anh Nhiên đã mắng tôi và đổ thừa tại tôi…xúi Thủy tuyệt tình với anh. Tôi tức điên lên và cãi với anh một trận tơi bời hoa lá. Anh giận tôi đến độ còn dọa sẽ viết một bài… chửi tôi trên báo để cho tôi biết tay anh. (May là chắc anh nghĩ lại, thấy “tội” của tôi còn nhẹ hoặc biết là không có tội gì hết, nên không có bài nào nêu đích danh tôi để… trả thù, trừ một câu trong bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” đã ví tôi là “quỷ sứ” mà sau này qua Thủy tôi mới biết. Đó là câu: “Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân. Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ” Chứ nếu không chắc tôi cũng đã được anh đưa vào… văn học sử bằng một ngõ… tối tăm rồi!). Bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” anh viết với những lời rất ngông ngạo mà cũng rất… thê lương, tội nghiệp, khiến tôi dù biết là hình ảnh của mình có trong bài thơ này cũng chẳng… đẹp đẽ gì nhưng qua cách dùng từ ngữ rất tự nhiên, tượng hình và gợi cãm của anh trong một số đoạn đã khiến tôi xúc động, khó quên:
“ Vì chẳng được cầm tay nhau kể lể
nên chuyện tình cứ thế, thảm hơn
Chúa cũng cau mày ngắm nỗi cô đơn
của một kẻ đóng tim mình trên thập giá!
…………………………………………
chiều em đi học về, thơm tóc thả
áo suông eo trinh bạch cả giáo đường
ta ngọt ngào gọi khẽ, người đi luôn
nên lũ thiên thần bỗng nhiên thất chí
bay xuống trần gian làm thi sĩ
nâng Thánh Kinh mà hát thơ tình
có con chiên nào thoáng ngạc nhiên
rồi lại đắm chìm trong vần nhã nhạc...
…………………………………………
chiều em đi học về, chim trắng bước
ngang giáo đường nhòe nhoẹt màu vôi phai
có động lòng xin hãy rút khăn tay
lau giùm mắt kẻ xương bày trên thánh giá
là ta đó, em ơi, đang tầm tã
mưa đầy hồn đau đớn thương thân
lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân
phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ
tính nhân hậu đã hồi nào hóa dữ
chỉ vì em lành lặn quên chàng
chỉ vì em... gõ nhẹ cửa thiên đàng
bình thản gửi cho hai hàng bím tóc!
………………………………………..
ta phải chết cho Nước Trời thịnh vượng
cho thánh thần chúc phúc bình an
cho em còn mãi mãi dịu hiền ngoan
mà hãnh diện có thằng đen đúa
luôn nhăn nhó mặt mày chê Chúa khó
nhưng cắn răng không hở miệng trách em!”
Từ đó, tôi với anh Nhiên bắt đầu một mối thù… không tên, và cứ mỗi khi Thủy nhắc tới anh Nhiên là tôi tha hồ mà… đay nghiến. Lúc này, tôi đã thực sự giận ghét anh Nhiên và muốn cho Thủy đừng thèm “mềm lòng” với cái anh chàng nghệ sĩ tài hoa mà gàn dở này nữa.
Nhưng khi đọc bài thơ“Thục Nữ”, là bài đầu tiên anh Nhiên viết cho Thủy, với hình ảnh Thủy trong thơ và Thủy ngoài đời là một, rất thật, rất dễ nhận ra với tóc bính, nón lá, hài nhung, mảnh mai, nhẹ nhàng, vô cùng thục nữ đã làm tôi xúc động:
“Chiều em đi hai hàng bính tóc
Gieo xuống đôi vai nhỏ thiệt thà
Còn bao nhiêu dấu hài khuê các
Sao đành gieo xuống phố đời ta?
Chiều em đi nón lá che nghiêng
Sao đành che mất nụ cười duyên?
Mây vẫn chưa về gom bớt nắng
Trần ai đông lắm kẻ si tình.
Chiều em đi trong nắng trời tây
Bóng đổ lênh đênh – bóng đổ gầy
Bóng đổ gầy như ta ốm yếu
Đeo đẳng hoài theo tình không may
Chiều em đi bước ngại bước ngùng
Như sợ làm đau ngọn cỏ nhung
Như sợ bay lên từng đóa bụi
Sao khách tài hoa nát cả lòng?
Chiều em vui quá thuở vàng son
Ta bỗng lang thang khắp ngả đường
Ta đi cho chết thời oanh liệt
Cho thấu một trời đau đớn riêng!”
Bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” là bài thứ hai anh đã viết gửi cho Thủy với những lời bày tỏ chân tình, nhưng đã khiến cho Thủy. giận hờn, ấm ức nhờ tôi mang trả lại thư từ, quà tặng của anh và đã là nguyên nhân khiến tôi phải… rước họa vào thân. Đó là những câu:
“Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát
Ta vẫn thèm hôn lên mắt tiểu thơ buồn
Ta vẫn thèm ăn năn những lúc đón đường
(Em khó chịu… mà thư nào em cũng nhận)
Sau khi biết vì mình mà tôi và anh Nhiên đã không thèm nhìn mặt nhau nữa, thì Thủy ít nhắc nhở tới anh hơn và lặng thinh mỗi lần nghe tôi kể tội anh đã mắng nhiếc, sỉ vả tôi như thế nào. Anh Nhiên thì phải tự động tìm cách để… nối nhịp cầu tri âm với Thủy một mình vì không còn cái nhịp cầu mang tên…Dung nữa.
Mãi cho đến một buổi chiều kia, tan học về, Thủy báo cho tôi biết: “ Ông Hải (tôi và Thủy vẫn quen gọi anh bằng tên thật là Hải, dù anh đã nổi tiếng và mọi người luôn gọi anh bằng tên Nguyễn Tất Nhiên) nói chiều thứ Sáu hàng tuần có chương trình giới thiệu nhạc mới ở radio, thứ Sáu này nhớ đón nghe vì sẽ có bài thơ “Hai năm tình lận đận” ổng làm cho tao được Phạm Duy phổ nhạc, hát lần đầu.” Tôi nhìn Thủy ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Ông này coi vậy mà cũng… khôn, biết cách giải mã “độc đáo” thiệt, như thế này thì Thủy có… chạy đàng trời.” Tôi tuy còn ấm ức vì… mối hận lòng, “oan âm Thị Kính” vẫn còn đầy ứ mỗi khi nhớ tới, nhưng cũng thấy vui và hãnh diện lây với bạn. “À há, như vậy mi đã bắt đầu được đi vào văn học sử rồi đó nha”. Cũng nhờ vậy, chiều thứ Sáu đó, tôi đã được thưởng thức trọn vẹn bài hát “Hai năm tình lận đận” với âm điệu nhẹ nhàng, buồn rầu đến tội nghiệp qua tiếng hát dễ thương, nồng nàn của Duy Quang:
“Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Mùa đông hai đứa lạnh
Cùng thở dài như nhau.
Em không còn thắt bính
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn lýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư
Hai năm tình lận đận
Hai đứa đành xa nhau
Em vẫn còn mắt liếc
Anh vẫn còn nôn nao
Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao.
Em bây giờ có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ có lẽ
Xin làm người tình thua.
…………………………
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa!”
Tôi đã bật cười khi nghe Thủy kể lại, hai câu cuối của bài thơ này đã làm… động lòng Lâm Diễm, một đứa bạn cùng lớp với chúng tôi, khi nó đọc thấy bài thơ đăng trên báo trước khi được phổ nhạc. Diễm vào lớp báo ngay với Thủy: “Thủy ơi, ông Hải làm thơ chê mày… già”.
Sau khi nghe bài hát này tôi thầm nghĩ, Thủy đã không thể thoát khỏi lưới tình nữa rồi. Thủy vốn yêu thích thơ văn, cũng như tôi và số đông bạn bè cùng lứa lúc ấy, rất hâm mộ thơ Nguyễn Tất Nhiên, Thủy đã được làm “nàng thơ” của thi sĩ, nay lại được dòng nhạc của Phạm Duy đưa hình ảnh “thắt bính” của mình chắp cánh bay xa. Còn gì hơn! Nhưng chúng tôi không có thời giờ để hỏi han những chuyện vớ vẩn nào khác nữa. Tất cả thời gian còn lại là học thi, thi Tú Tài II. Tôi quên bẵng đi chuyện tình của anh Nhiên và Thủy để lo học.
Rồi đến lúc lên Sài gòn vào đại học, tôi và Thủy lại cùng ở trọ với nhau, chắc Thủy nghĩ là tôi còn giận anh Nhiên lắm, vì mỗi lần Thủy nhắc tới anh là cứ nghe tôi châm chọc: “ông ấy là ai? tưởng mình là nhà thơ lớn… ngon lắm hở?”. Không nhớ tôi có nói gì nặng hơn nữa không mà Thủy càng ngần ngại, dè dặt tránh nói về anh trước mặt tôi. Tôi học bên Văn Khoa, Thủy học ở Đại học Vạn Hạnh, bên kia cầu Trương Minh Giảng. Bởi thế, bài “Chở em đi học trường đêm” có đoạn:
“Chở em đi học mưa, chiều
Tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa
Mưa thánh thót, mưa ngân nga
(hình như có bão băng qua thị thành)
……………………………………
Đèo nhau qua đoạn đời này
Cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn...”
Tôi cứ tưởng là viết cho Thủy, nhưng sau này khi hỏi lại, Thủy nói: “ổng viết cho… con nhỏ khác mày ơi!”. Tôi giật mình và cảm thấy bất mãn vì nghĩ rằng các ông văn thi sĩ chắc không chỉ có bốn ngăn tim, nên mới có thể chứa đựng được một lúc nhiều hình bóng đến như vậy! Bài “Thơ khởi tự mê cuồng” anh viết năm 74, mới là bài anh viết cho Thủy, nên vẫn thấy bóng dáng Thủy đâu đó, mặc dù lúc này Thủy và anh đã không còn liên lạc với nhau.
“Trời mưa, không lớn lắm
nhưng đủ ướt đôi đầu!
Tình yêu, không đáng lắm
nhưng đủ làm… tiêu nhau!
Đường người, vui có chăng
ta trùng điệp u buồn
nhớ ai mà tóc rụng
ngóng ai muốn đục tròng.
…………………………
Đường người, đau có chăng
em tính còn ham chơi
lưng ngoan dòng tóc bính
môi trinh non thích cười
Chiều chiều hay giỡn nắng
tình trôi kệ tình trôi…”
Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi chia tay nhau, Thủy tiếp tục học và về làm việc ở Biên Hòa. Tôi thì lưu lạc đến Long Thành làm nghề “gõ đầu trẻ”. Công việc bận rộn nên chúng tôi cũng liên lạc ít hơn. Thủy và tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau trong những ngày cuối tuần khi tôi trở về nhà.
Tôi không biết rõ mối quan hệ của anh và Thủy bắt đầu lại từ lúc nào, mãi cho đến khoảng giữa năm 78, một hôm, Thủy đột ngột đến tìm tôi vào buổi trưa, chúng tôi kéo nhau lên lầu nói chuyện. Thủy ngần ngại, rào đón một lúc lâu mới báo tin là sắp đám hỏi với anh Nhiên. Thấy tôi lặng thinh, Thủy hỏi: “Mày bất ngờ không?... thất vọng không?”. Tôi biết Thủy vẫn còn nhớ “mối thù” của tôi với anh Nhiên lúc trước, nên cười và lắc đầu: “Chuyện cũ, chuyện nít nhỏ, tao quên rồi. Đừng nhắc tới nữa. Vậy là “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” rồi. Mày có cần gì tới tao không?” Thủy thở phào nhẹ nhõm: “Có chứ, mời mày tới dự đám hỏi, nhớ tới sớm sớm để phụ tao nha nhỏ.” Không hiểu sao lúc đó, tôi vừa mừng lại vừa lo cho Thủy, Thủy dịu dàng, yếu đuối và sống “kín cổng cao tường” trong mái ấm của đại gia đình từ bé, còn anh Nhiên, đời sống luôn quay quắt với dư luận khắc nghiệt và lang bạt kỳ hồ, như trong thơ anh vẫn thường khẳng định: “ Em có một đời rong xanh mơ đá. Tôi có ngàn năm say khước hận thù”(Bài thấm mệt đầu tiên) hay “Chim trong tổ biết chi đời giông bão. Em con cưng nào biết tuổi lưu đày” và “Em gia giáo phải lòng anh lang bạt” (trích Uyên Ương). Liệu Thủy sẽ được bình yên, hạnh phúc hay sẽ lao đao với sóng gió cuộc đời?
Thời gian này, bài “Nụ hôn đầu” với những câu:
“Gian truân lắm mới hôn người
Chiếc hôn tình lớn đem đời theo nhau.
………………………………
Hôn em chấn động đầu đời.
Chiếc hôn tình lớn kiếp người đôi giây.”
Và “Cuối tháng Tám”, không hiểu đã cảm nhận được điều gì mà cả hai bài thơ của anh viết cho Thủy đầy những lời ăn năn, thống hối:
“Khổ đau oằn nặng sinh thời
yêu ai tôi chỉ có lời thở than,
có môi hôn trộm vội vàng
khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu
nụ cười giữ được bao lâu
nhân sinh là một dòng sầu miên man
sông dài rồi cũng chia phân
tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
Tôi đam mê siết thân người
hay đâu tảng đá đeo đời trăm năm.
Em gầy guộc, em mong manh
Em chưa đủ sức long đong cùng chàng
Em ngây thơ đến rỡ ràng
Em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung
Em tội nghiệp, em tủi thân
Em chưa tự chủ kíp nhăn lệ tràn
Lôi người té sấp gian nan
Lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi.”
Đến ngày đám hỏi của Thủy và anh Nhiên, tôi mới biết chỉ có tôi là đứa bạn duy nhất được Thủy mời trong đám đông của gia đình hai họ.
Lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm không nhìn mặt nhau ở đám hỏi, được coi như là một nhịp cầu nối lại mối quan hệ giữa tôi và anh Nhiên. Anh tỏ vẻ quí mến tôi hơn và thỉnh thoảng hay ghé nhà tôi để hỏi thăm hoặc nhắn tin cho Thủy
Có một chuyện khiến tôi cảm động và nhớ mãi là một buổi trưa vừa từ trường về nhà trọ sau mấy giờ dạy, thay chiếc áo dài xong thì nghe tiếng gõ cửa và sau đó là giọng của Thảo, chị bạn cùng nhà gọi : “Dung ơi, có ai kiếm kìa.”. Nhà chúng tôi ở là một căn biệt thự khá lớn của một chị bạn dạy cùng trường, mấy ngày trước 30 tháng 4, chợ Long Thành bị pháo kích, sập gần hết, nhà chị cạnh đó nên cũng bị một quả ngay vào giữa, căn nhà như bị cắt ra làm đôi. Phần phía trước chỉ còn cái mặt tiền và khung cửa sắt là nguyên vẹn, hai phòng phía sau, sâu vào trong, nơi không bị hề hấn gì, là nơi mà nhóm giáo viên chúng tôi chia nhau ở, được nối bằng một khoảnh đất nhỏ mà trước đó dùng để trồng hoa kiểng và một cánh cửa lớn bằng gỗ. Tôi vội chạy lên và ngạc nhiên khi thấy anh Nhiên đứng sừng sững ngay khung cửa với chiếc xe đạp bên cạnh. Anh nhìn tôi đang ngó anh trân trối, nhe răng cười hỏi: “Sao? không mời vô à?” Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sự xuất hiện bất ngờ của anh. “Ủa, anh đi đâu đây? Sao biết Dung ở chỗ này?” Anh dựng xe sang bên, một tay giở nón, một tay lau mồ hôi trán và nói: “Nghe Thủy nói Dung dạy học ở trường Long Thành, nhà anh có rẫy cũng gần đây, sẵn đi ngang ghé vô trường hỏi, họ nói Dung mới đi về, rồi chỉ nhà cho anh đó chứ.” Tôi mời anh vô trong uống nước và giới thiệu với chị Thảo: “Anh này là thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên đó!”. Chị Thảo tròn xoe mắt nhìn anh: “Vậy hả? Trời ơi, nghe tiếng quá chừng mà bây giờ mới gặp đó nha.”. Anh Nhiên chỉ cười và không nói năng gì. Hỏi thăm nhau được một chút, anh từ giã ra về còn hỏi tôi: “Dung có cần nhắn gì về nhà không? anh ghé qua nhắn cho”. Bỗng dưng tôi nhớ tới chục ký gạo vừa đươc lãnh sáng nay ở trường theo tiêu chuẩn công nhân viên nhà nước, và tôi đã làm một việc vô cùng tệ hại mà sau này lúc kể cho Thủy nghe hoặc nhớ tới, tôi vẫn còn áy náy và rất xấu hổ là : “Anh Hải chở dùm bao gạo này ghé qua nhà đưa cho má Dung được hông?”. Tôi thấy đôi mày anh cau lại, trán nhăn nhăn, môi mím chặt, nhưng cũng gật đầu: “Ừ, thì để anh chở cho”. Tôi giúp anh khuân bọc gạo lên để phía sau “bọoc ba ga”, cột giây cẩn thận, cám ơn anh, chào tạm biệt và… tỉnh bơ, mãi cho đến khi đưa anh ra tới cửa ngoài thấy anh bắt đầu gò lưng trên chiếc xe đạp tôi mới giật mình. Tiếng chị Thảo phía sau tôi vang lên: “Trời ơi, mày ác quá trời đi người ta tới thăm mà còn bắt chở bao gạo về dùm nữa, nặng lắm đó, một chút lên tới dốc 47 làm sao ổng lên nổi.!” (Dốc 47 là cái dốc rất cao ở gần ngã ba Thái Lan giữa đường đi Biên Hòa và Long Thành). Tôi mới bắt đầu hối hận và thấy mình… vô duyên quá đỗi!
Cứ tưởng mọi việc sẽ được tiến hành êm đẹp như đã định, Thủy và anh Nhiên sẽ làm đám cưới cuối năm đó. Nhưng không ngờ, bao ngang trái cuộc đời không hẹn mà cứ đến đe dọa cho mối tình của hai người, lý do từ việc có nhiều dư luận về anh Nhiên đã đến tai gia đình Thủy. Lúc này, tôi đã đổi về Biên Hòa để đi học lại, nên Thủy thường gặp tôi sau những giờ làm việc, tâm sự, thở than về những ngăn cấm của gia đình và đôi khi nhờ tôi làm “bình phong” để Thủy và anh Nhiên hẹn hò nhau.
Bài “1978 ở Việt Nam” chắc anh đã viết trong lúc tâm trạng u uất, chán chường về sự đổi thay của xã hội lẫn hoàn cảnh riêng tư của chính mình:
“Phu thê nếu phải nợ rồi
Thì tôi đâu ngại ngỏ lời yêu em
Như con chim mới tập chuyền
Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra
Mặt trời rực rỡ phương xa
Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương.
…………………………………
Phu thê nếu đã buộc ràng
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng
Tôi, quanh năm sống hoang đàng
Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương khóc tình!
Rồi đến bài thơ “Uyên Ương” với những câu thật não lòng:
“Có những chiều ta muốn hôn em, rồi khóc
Mùa bình an nào chờ đợi uyên ương?
Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường
Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa.
………………………………..
Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ
Môi vô tư chưa bợn nhuốm hơi người
Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời
Tóc bính thảnh thơi chưa phiền khói thuốc
Ta lẽo đẽo theo tình ê ẩm bước
Để chiều về nhẹ thấm thía gian nan!
Nhớ hôm xưa em mơ mộng nhẹ nhàng
Hay hát khẽ đôi bài tình man mác.
Chim trong tổ biết chi đời giông bão
Em con cưng nào biết buổi lưu đày…”
Nhưng rốt cuộc, Thủy đã quyết định cùng với gia đình anh Nhiên rời khỏi Việt Nam cuối năm 78, sau những tháng ngày dài nổi trôi cùng vận nước và cả vận mệnh của chính mình. Một năm sau, tôi mới nhận được lá thư đầu tiên có kèm theo hai tấm hình của Thủy và anh Nhiên chụp ở vườn Luxembourg trong mùa thu, đầy lá vàng, lãng mạn, tuyệt đẹp, mới biết là hai người đã định cư ở Pháp. Nhờ địa chỉ đó nên tháng tư năm 81, sang đến đảo Ga Lăng, Indo, tôi đã liên lạc được với Thủy. Không ngờ, Thủy vẫn nhớ và gửi quyển “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” gồm những bài từ tập “Thiên Tai” và những bài thơ sáng tác từ 1970 đến 1980, đã được ấn hành lại ở Pháp, làm quà sinh nhật cho tôi trên đảo. Tập thơ này quả là một món quà vô cùng quí báu lúc bấy giờ đối với bọn chúng tôi gồm một đám thanh niên cùng mê thơ Nguyễn Tất Nhiên, cả mấy tháng trời, đêm nào cũng mang ra vừa đọc vừa bàn luận, thật sôi nổi, hào hứng.
Đến tháng mười, tôi được các em bảo lãnh sang Mỹ, về ở Missouri. Anh Nhiên và Thủy cũng đã dọn về Cali từ tháng tư.
Chúng tôi thư từ, điện thoại thăm hỏi nhau nhưng vẫn chưa gặp mặt, Thủy và tôi cùng bận rộn với đời sống mới mà lại ở xa nhau, nên ngay cả đám cưới tôi tổ chức ở Utah, Thủy cũng không có dịp sang dự. Cho mãi đến hôm tôi sinh cô con gái đầu lòng khoảng một tuần, thì Thủy gọi phone báo tin là sẽ đi xe bus Greyhound sang thăm tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại bạn sau 6 năm xa cách. Thủy không thay đổi tí nào, vẫn dáng dấp học trò, vẫn gầy gầy, nhỏ nhắn, gương mặt, nụ cười vẫn hệt như thời còn đi học, mặc dù bây giờ đã có thêm hai chú nhóc, Tí Anh đã ba tuổi và Tí Em sắp lên hai, lúc nào cũng quấn bên chân mẹ. Trong dịp này, Thủy đã kể cho tôi nghe hết về cuộc sống từ ngày rời VN, với những ngày đầu vất vả nhưng hạnh phúc ở Pháp, đến những khi sóng gió vì đời sống nghệ sĩ lang bạt, bất đắc chí của anh Nhiên ở Mỹ, cả đến những cay đắng mà Thủy phải chịu đựng để chu toàn cái hình ảnh của “một người vợ, một người đàn bà thuần túy Á Đông, chỉ biết phục tùng chồng và tuyệt đối không nên để ý hoặc thắc mắc gì về những quan hệ công việc bên ngoài của chồng.” mà anh Nhiên vẫn luôn nhắc nhở Thủy mỗi khi có chuyện bất đồng. Tôi ngạc nhiên và không ngờ đứa bạn với bề ngoài yếu đuối như Thủy mà có thể chịu đựng được ngần ấy thứ đau khổ, trắc trở trong cuộc đời làm vợ của nhà thơ. Thủy nói lần này, sau khi trở về, hai người sẽ quyết định chia tay.
Thoạt tiên, tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai đứa bé đang hồn nhiên, quấn quýt bên Thủy, tôi giận anh Nhiên quá sức, tại sao có mái gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc thế này mà anh không chịu gìn giữ? Tôi muốn an ủi Thủy, nhưng an ủi thế nào khi tôi cũng không biết phải xử trí làm sao trong hoàn cảnh ấy. Thủy định là sẽ ở chơi với tôi đến hai tuần nhưng chỉ một tuần Thủy đã đổi vé về lại Cali, sau những cú phone dồn dập của anh Nhiên. Mấy hôm sau, Thủy gọi để báo tin là sóng gió đã tạm dừng, dù không biết là chàng sẽ giữ lời hứa đến bao lâu. Tôi mừng cho Thủy và thầm cầu nguyện cho cái tổ ấm của Thủy sẽ bình yên, sáng sủa hơn sau cơn bão tố vừa qua.
Năm 86, gia đình tôi dọn về Cali, căn nhà nhỏ của chúng tôi ở Gardena, thỉnh thoảng đón tiếp Thủy và hai cậu con trai đến chơi, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ thấy anh Nhiên đi cùng. Thủy tâm sự: “Tao chỉ là một người đàn bà bình thường, mơ có một mái ấm gia đình rất bình thường như những người đàn bà khác, nhưng với tao sao nó khó khăn, xa vời quá mày ơi!”. Nghe Thủy nói, tôi càng thấm thía hơn ý nghĩa của cái thuyết “Hồng nhan bạc phận”, của “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, càng thấy xót xa và thương bạn hơn. Có lúc, tôi đã phải nói với Thủy: “Tao thì chỉ biết “yêu thơ” thôi chứ không có “can đảm” để “yêu nhà thơ” như mày, sao mà khổ quá đi!”
Từ lúc sang Mỹ dù đã xuất bản được tập thơ “Chuông mơ” (1987), “Tâm Dung” (1989) và cả việc sáng tác nhạc để ra đời băng nhạc “Tình khúc Nguyễn Tất Nhiên” nữa, nhưng anh vẫn là một người “bất đắc chí”, cay đắng với cuộc đời, hờ hững với trách nhiệm gia đình và đó có phải là nguyên nhân khiến anh trở thành một con người khác, một hình ảnh bất toàn hơn trong đời sống gia đình chăng?
Có lẽ vì biết quá nhiều về những bất hạnh từ đầu của hai chữ “nợ duyên” giữa anh Nhiên và Thủy, nên tôi đã đứng về phía bạn khi Thủy dứt khoát đoạn tuyệt với những khổ đau, oan nghiệt của quá khứ, hiện tại và có thể sẽ mãi còn tiếp diễn ở tương lai để chọn một cuộc sống bình an hơn cho Thủy và nhất là hai đứa con, nên tôi đã lặng thinh khi anh Nhiên gọi tôi để hỏi về tung tích của Thủy. Và đó là lần thứ hai, tôi lại bị anh mắng nhiếc thậm tệ, bằng những lời nhắn nặng nề trên máy answering. Lúc đó, tôi nghĩ, cứ để cho anh nghiền ngẫm, rồi tỉnh thức, nhận ra và biết quí báu những gì mình đã có, ân cần với đời sống và trách nhiệm hơn để có thể định hướng lại tương lai của mình. Nhưng không ngờ, anh đã quá yếu đuối và dễ tuyệt vọng đến độ phải chọn sự kết thúc bi thảm đến vậy! Lúc nghe tin anh mất, là lúc tôi đang trong giờ lunch ở một hãng điện tử. Sửng sốt, kinh ngạc… tôi nuốt không trôi miếng cơm còn đang nhai dở trong miệng. Tôi muốn về nhà ngay để gọi cho Thủy…
Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, mới đó mà đã mười mấy năm. Cuộc sống vẫn nối tiếp với những định mệnh đã được an bày. Các con anh nay đã khôn lớn, trưởng thành. Thủy đã tìm được bờ bến bình yên và đang có một đời sống hôn nhân hạnh phúc, điều mà trước kia tưởng chừng sẽ không bao giờ có được.
Giờ đây, dưới những tàn cây, bóng mát trong nghĩa trang này, tôi đến thăm mộ anh, thắp nén hương lòng hoài niệm về một thời quá khứ buồn nhiều hơn vui giữa chúng tôi, dù không biết rằng những việc làm trước kia đối với anh là đúng hay sai, nhưng tôi cũng muốn nói với anh lời tạ lỗi. Có những điều khi còn sống chúng ta chưa có dịp phân trần, tỏ bày cho hết thì đến lúc lìa đời, cũng xin được có cơ hội để hòa giải, thứ tha. Chỉ tiếc một điều là những câu thơ anh viết lúc còn trẻ, khi đọc lên cứ tưởng sẽ là “lá bùa hộ mạng” cho anh, đã không nâng đỡ, vực dậy anh trước khi anh quyết định đi về một đời sống khác:
“Nếu vì em mà thiên tài chán sống
thì cũng vì em ta ngại bước xa đời”.
TƯỞNG DUNG
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992) – Tranh Đinh Cường
Nguồn: - Tạp chí Hợp Lưu, California, Hoa Kỳ, số 101, tháng 7&8/2008
- Đã đăng lại trên talachu.org tháng 10/2008
- hopluu.net tháng 11, 2008
CHUYỆN BÀ MAI
Chắc kiếp trước bạn tôi, Ngọc Dung, có nợ nần chi đó với mấy anh chị phụ trách báo chí cho Hội Cựu Học Sinh Ngô Quyền, nên cô nàng sốt sắng với việc ăn cơm nhà vác ngà voi vô cùng. Và chắc kiếp trước, tôi cũng mắc nợ bạn tôi nhiều lắm, nên trái tim - tuy đã khổ luyện cho thật chai đá - của tôi cứ phải chảy mềm khi nghe bạn thiết tha réo gọi... nộp bài. Tối hôm qua, cô nàng còn “tinh vi” nhắc lại những kỷ niệm thời làm báo trường hồi nẫm nẫm, thời mộng mơ đầu đời của tụi tôi, để... “động viên” tôi nữa chứ. Nhờ Ngọc Dung nhắc, tôi mới nhớ lần nhân danh trưởng ban biên tập báo xuân Ngô Quyền năm Quý Sửu 1973, tôi đã “dám” loại, không đăng bài thơ của anh Nguyễn Tất Nhiên. Oai ghê chưa! Những cảm xúc cũ, trong một lúc, bất chợt ùa về. Ờ, tại sao mình không viết về chuyện giữa tôi và anh Nhiên - cũng kể là một mối tình Ngô Quyền chớ bộ - để như một lần “giải đáp thắc mắc” cho một số bạn bè, trong đó có chị Ngọc Huệ, về vai trò “bà mai” Ngọc Dung trong “thiên tình sử” ấy.
Nói đến “vai trò lịch sử” của Dung, tôi chợt giật thót mình! Thôi đã rõ như ban ngày còn gì, đâu cần chi kiếp trước tôi mắc nợ Dung; ngay kiếp này đây, trong những ngày quá khứ đầy sóng gió của đời sống tình cảm của tôi, tôi đã mắc nợ bạn tôi nhiều vô số kể. Với cương vị “đại sứ thiện chí”, Dung bị bên này trách phiền, bên kia mắng mỏ, vậy mà cái đuôi heo còn chưa được chứ nói chi đầu heo! Trong màn cuối của cuộc tình mười lăm năm, anh Nhiên, trong những lúc mất bình tĩnh, còn tận dụng phương tiện hiện đại, lưu lại mấy trái mìn nổ chậm trong “answering machine” để “make sure” địch thủ phải thọ trọng thương với những lời mạt sát kinh hoàng không thể tưởng.
Nhưng từ đầu chí cuối, Dung vẫn tận tụy với bạn, sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp, không bao giờ từ chối một lời cầu cứu nào của tôi dù biết sứ mạng có đầy “hiểm nghèo”. Đôi khi tôi tự hỏi, hay là Dung cũng mắc nợ tôi với anh Nhiên từ kiếp trước? Đưa thư, đưa quà của anh Nhiên gửi cho tôi cũng Dung, mà trả lại thư, trả quà cũng cô nàng. Đến nỗi trong một bài thơ, anh Nhiên đã dùng phép ẩn dụ, ví Dung như... quỷ sứ. Có lẽ cho tới giờ này, Dung vẫn không biết điều đó. Thật tình, khi nghe anh Nhiên, trong một lúc vui miệng khi đã thành chồng vợ, bảo là anh viết câu thơ đó vì căm tức Ngọc Dung. Tôi bật ngửa, vừa buồn cười vừa thương bạn, than thầm: Trời mẹ ơi! Đâu dè giấc mơ đi vào văn học sử của bạn tôi lại “come true” một cách oái oăm như vậy! Đó là câu “Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân, Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ” trong bài thơ có tựa đề “Kẻ tự đóng đinh tim”. Bài thơ ấy có nhiều lời lẽ rất ngông ngạo nhưng cũng có nhiều đoạn thật dễ thương, thật tội nghiệp mà anh viết ra sau những lần lén đứng đón tôi đi học về, ngang nhà thờ Biên Hòa ở bùng binh công trường Sông Phố trước khi rẽ xuống đường Hàm Nghi. Tuy bài thơ đã từng được đăng trong một tạp chí văn học ngay lúc anh mới sáng tác, nhưng sau khi đã qua thời “trẻ người non dạ”, lúc gom lại thơ cũ để in tập “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” vào năm 1979, anh không để vào vì ngại đụng chạm với giới tín đồ Thiên Chúa; mãi về sau, anh mới cho in lại nó trong tập “Chuông Mơ” (1987) với một vài sửa đổi cho dịu bớt. Bài thơ ấy có những đoạn như sau:
“Chiều em đi học về, ngoan tóc thả
Áo suông eo trinh bạch cả giáo đường
Ta ngọt ngào gọi khẽ, người đi luôn,
Nên lũ thiên thần bỗng nhiên thất chí
Bay xuống trần gian làm thi sĩ
Nâng Thánh Kinh mà hát thơ tình
........................
Chiều em đi học về, chim trắng bước
Ngang giáo đường nhòe nhoẹt màu vôi phai
Có động lòng xin hãy rút khăn tay
Lau giùm mắt kẻ xương bày trên thánh giá
Là ta đó, em ơi, đang tầm tã
Mưa đầy hồn đau đớn thương thân
Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân
Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ
Tính nhân hậu đã hồi nào hóa dữ
Chỉ vì em lành lặn quên chàng
Chỉ vì em... gõ nhẹ cửa thiên đàng
Bình thản gửi cho hai hàng bính tóc!”
Bài thơ với những hình ảnh quá tội nghiệp ấy đã đánh trúng lòng trắc ẩn của tôi, nên dù không thật sự rung động, tôi vẫn không thể chối từ. Vào những buổi trưa, anh hay đón đường tôi (cũng ở khoảng trước nhà thờ là nơi tôi đi bộ ngang để tới đầu đường Trịnh Hoài Đức đón xe lam đi học), để dúi vội một cuốn sách nào đó có kẹp những trang thư. Những lúc đó tôi chỉ biết lấm lét nhận đại cho xong và mau mau cất vào ngăn cặp vì sợ người nhà bắt gặp. Khổ như vậy mà sau đó anh còn gửi tôi một bài thơ trong ấy có đoạn:
“Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát
Ta vẫn thèm hôn lên mắt-tiểu-thư-hờn
Ta vẫn ăn năn những lúc đón đường,
(Em khó chịu... mà thư nào em cũng nhận!)”
(Giữa trần gian tuyệt vọng)
Đọc tới bài này thì tôi vừa giận vừa ức, “xí, làm như người ta ham nhận thư lắm, đã vậy còn nói người ta khó chịu nữa”. Thế là Dung, sau khi nghe tôi năn nỉ, gồng mình vác hết chồng thư tình kèm bao nhiêu quà cáp, mang tới tận nhà anh để trả. Hậu quả ra sao thì chắc ai cũng dư đoán! Sau khi trút cơn thịnh nộ với “con tin”, anh lại đón đường tôi, phân trần, giải thích. Anh phân bua rằng anh dùng chữ “khó chịu” là muốn ca tụng một sự chịu đựng “phi thường” đáng tội nghiệp của tôi, vì anh thấy những lúc ấy mắt tôi đo đỏ như sắp khóc, chứ không phải nói “khó chịu” là chê tôi “khó ưa”. Khổ nỗi anh Nhiên làm thơ hay bao nhiêu thì nói năng vụng về bấy nhiêu, nhất là trong trường hợp cần “thanh minh thanh nga”. Vẻ lúng túng của anh càng làm tôi xấu hổ, và vì sợ gia đình bắt gặp, sợ bạn bè trêu chọc, tôi lại gật đầu cho qua chuyện, để anh “an lòng” thả cho tôi đi.
Sau đó, tôi bàn với Dung, cầu cứu bạn tìm cách nói cho anh Nhiên biết tôi có người yêu, đúng ra, tôi đang yêu một người khác rồi. Sợ kẻ si tình không tin, tụi tôi còn tính làm một màn kịch cho thấy tôi đang “yêu đắm đuối” một nhân vật nọ kia cho anh vỡ mộng mà quên tôi đi. Dĩ nhiên, anh Nhiên không tin, hay không muốn tin thì đúng hơn. Và trước khi anh viết tối hậu thư cho tôi, chịu “hứa sẽ không bao giờ làm phiền Thủy nữa”, thì bạn tôi cũng lãnh đủ trận lôi đình của anh vì đã dám “chà đạp” anh “như đạp lên con trùn con dế!”
Chuyện tình tưởng đã xong nhưng đúng là “nợ tình chưa dứt”, nên mới có màn tái hợp về sau và kết thúc bằng một bi kịch. Nhiều năm trôi qua, nước mắt tưởng đã khô nhưng hệ lụy vẫn khó bề dứt tuyệt, tôi làm sao gom hết được bao nhiêu tâm tình rối ren vào trong dăm dòng chữ ngắn, nên đành thôi ngưng kể tiếp chuyện tình. Vả lại, chủ đề bài này là “vai trò bà mai” của bạn tôi kia mà.
Thật ra, nói bạn tôi là bà mai không đúng mà cũng không sai. Không đúng vì làm gì có chuyện Ngọc Dung giới thiệu tôi với anh Nhiên. Nhưng không sai vì nếu không chơi thân với Dung thì không chắc tôi vướng lụy lưới tình. Số là vào năm lớp mười, Dung, Yến và tôi dự định ra một tập thơ chung, kiểu tập thơ học trò in bằng cách quay ronéo những bản viết tay hay đánh máy trên giấy stencil, xuất bản chừng vài chục cuốn để tặng bạn bè ấy mà. Vì một lý do nào đó tôi rút lui không góp mặt trong tập thơ đó, nhưng vốn đã “dính với nhau như sam”, mỗi khi Dung đi đâu để lo cho tập thơ thì cũng lôi tôi đi cùng. Hôm ấy, Dung tới gặp anh Nhiên ở quán Cà Phê Tuyệt vì cần lấy tấm bản kẽm bức tranh phụ bản “Duyên” của tập thơ Thiên Tai của anh để làm bìa cho tập “Tuyên Ngôn Mười Lăm” của Dung. Dung quen với anh Nhiên qua chị Duyên vì Dung là học trò tư của anh Đống, anh của chị Duyên. Nghe tới quán “Cà Phê Tuyệt”, đứa nào trong bọn tôi cũng rét run, đi ngang còn sợ huống gì là phải bước vào. Mà ác một nỗi là anh Nhiên nhắn Dung tới đó vì anh hay “ngồi đồng ngồi cốt” ở cái quán ấy. Sau này, cũng ở cái quán cà phê trứ danh ở đường Trịnh Hoài Đức này anh đã viết những câu mà Phạm Duy đã phổ nhạc thành “ngoài đường em bước chậm, quán chiều anh nôn nao”. Thực ra, trong bài thơ “Hai năm tình lận đận”, nguyên văn là:
“Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao...”
(Khi làm bài thơ này, anh Nhiên cũng bị tôi giận bởi trong bài có câu “em vẫn còn mắt liếc, anh vẫn còn nôn nao”, nhưng tôi “liếc” ở đây là để lén dòm thiệt lẹ vô trong quán coi có bị rình không, thế mà anh viết như vậy “rủi” có ai tưởng tôi “liếc mắt đưa tình” với ảnh thì sao!)
Trở lại với việc theo Ngọc Dung vô quán Tuyệt. Lần đó, hai đứa lóng ngóng bước vào quán, lúc anh Nhiên đang ngang nhiên ngồi gác chân lên bàn. Dung nhanh nhẩu nhập đề trong lúc tôi đứng xớ rớ kế bên. Anh Nhiên hách xì xằng vừa nói chuyện vừa nhả khói thuốc, như chẳng đếm xỉa tới ai, trông rất ư là “mục hạ vô nhân”. Lúc ra khỏi quán, tôi bực bội bảo với Dung: “Thằng cha” Hải làm thơ hay mà lối quá, ngồi gác chân không thèm ngó tới ai, mày xin xỏ làm chi! (Lúc đó tài năng của anh Nhiên đã sáng chói trong giới học trò ưa làm thơ như tụi tôi vì anh vừa phát hành tập Thiên Tai (năm 1971) và từng vào các lớp trong trường để bán tập thơ.)
Đâu ngờ rằng chính trong lần ấy, anh Nhiên đã để ý tới tôi. Anh còn nói rõ anh nhớ gương mặt rạng rỡ sáng láng rất đặc biệt của tôi và đặc biệt hơn nữa, là... tôi có hàng lông mép khá đậm màu nổi bật trên làn da trắng trẻo! Thế nên đến lần anh tình cờ gặp lại tôi ở nhà một chị bạn thì anh tự cho đó là duyên số (tuy hàng lông mép của tôi lúc này không hiểu vì sao đã lợt đi rất nhiều!) và nhất quyết theo đuổi tới cùng, theo lời anh kể sau này.
Dòng đời, cùng với thời gian, trôi miệt mài không ngừng nghỉ và dường như càng lớn tuổi, người ta càng thấy thời gian qua nhanh. Bao bi ai phẫn nộ hay hỉ lạc hân hoan một thời rồi cũng lắng xuống dịu êm. Dòng sông đời của tôi cũng đã rẽ qua nhiều khúc, để rồi chiều nay, khi viết những dòng này, trong bóng hoàng hôn nhòa nhạt bên ngoài, tôi tự dưng mang tâm trạng chàng học trò thi trượt, ngồi trong quán chiều đợi chủ quán đun chín món kê vàng. Được một đạo sĩ cho mượn chiếc gối kê đầu, chàng học trò không may đã ngủ quên vì buồn rầu lẫn đói mệt. Trong giấc mơ chàng thấy mình thi đỗ làm quan, được vợ đẹp con khôn, đạt sự nghiệp vinh quang để rồi thăng trầm sao đó đến nỗi cuối cùng phải ra pháp trường để chịu xử trảm. Chàng sợ quá, vùng tỉnh dậy, và thấy mình mới vừa nằm mộng, và trên bếp quán, nồi kê vẫn hãy còn chưa chín. Điển tích “giấc mộng hoàng lương” tôi đã học trong chương trình Việt Văn thuở nhỏ chiều nay như chợt thấm thía tận hồn. Nhìn lại cuộn phim đời mình, thấy phúc họa quả thật khó lường. Nếu buổi chiều đó tôi không đi cùng Dung tới quán Cà Phê Tuyệt thì đời tôi sẽ ra sao nhỉ? Hay là... tôi đã không đi và tôi chỉ nằm mơ thấy mình đi? Tôi đang mơ hay tỉnh? Ờ, mà chắc không mơ, vì điện thoại đang reo giục giã, và tôi biết đầu dây bên kia ai đang gọi tới mình.
Nguyễn Thị Minh Thủy
30 tháng 4, 2006
Kỷ niệm Đệ Tứ Bốn Ngô Quyền
(1963-1968)
Nhận được email của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền Biên Hòa tại California thông báo về ngày Đại Hội Trùng Phùng kỷ niệm 50 năm thành lập trường Ngô Quyền với Tập san “Tuyển Tập Ngô Quyền 2006”, thành thật mà nói, lòng tôi bồi hồi, chộn rộn như lúc còn ngồi ở trường học cũ, khi Thầy Cô Hướng Dẫn kêu gọi học sinh lo tổ chức tiệc tất niên, làm bích báo cho lớp và trường vậy.
Thời gian qua nhanh quá! Đã hơn 30 năm, bây giờ ngồi ôn lại những kỷ niệm xa xưa và hình ảnh cũ, tất cả hiện ra như thật trước mắt mình. Các bạn còn nhớ lớp “Đệ Tứ Bốn” không? Tôi thì nhớ và nhớ rất nhiều đến cái lớp quậy nổi đình nổi đám nầy. Nào là Cô Lan dạy Pháp văn, Thầy Mẫn dạy vẽ…rất hiền, một thuở nào đã khóc khi bị đám “nhất quỷ nhì ma thứ ba là…” phá phách, báo hại trưởng lớp cứ phải cúi đầu xin lỗi, điểm danh từng thằng ghi vô sổ bìa đen. Bao nhiêu là ngổ nghịch! Làm sao quên được tình thương bao la và rộng lượng thứ tha của Thầy Cô!
Những thằng bạn ấy bây giờ ra sao rồi nhỉ? Mới chỉ có hơn ba mươi năm, lớp Tứ Bốn giờ đây có bạn sắp sửa hồi hưu, có bạn đã làm ông nội, ông ngoại, có bạn đã vĩnh viễn ra đi, nhìn lại mình, mái tóc muối đã có phần nhiều hơn tiêu. Bây giờ, cho trưởng lớp Lâm Sĩ Đắt điểm danh các bạn trong trí nhớ còn sót lại, với những hình ảnh các bạn học trên túi áo đính phù hiệu Ngô Quyền, đến trường học rất xuất sắc mà khi quậy phá xuất chiêu nhiều màn thật hết lời phê phán!
Các bạn ráng nhớ, nghĩ cùng tôi bổ túc thêm tên các bạn học cũ chung trường, chung lớp đã cùng mài đủng quần trên ghế ngày nào nhé:
Này Mai Trọng Ngãi (CA), chuyển trường về nhập bọn; Nguyễn Từ Tâm, Nguyễn Văn Khánh (VN, con thầy Thoại) giỏi toán: Nguyễn Trọng Đệ (VN) hoạ sĩ Bắc Kỳ; Nguyễn Mai (TX) với tài ấn loát; Nguyễn Ngọc Điền (VN) được gọi “Điền Con”; Phạm Dung (CA, tiệm chụp hình Phạm Lung) chuyên thụt bi da đánh cá bò viên ở khu rạp hát Biên Hùng; Phan Thành Tâm (MA, con tiệm vàng Kim Hưng) “dân cậu”; Kennedy Nguyễn Kim Thế (?); Nguyễn Hữu Điền (VN) tự “Điền Đô”; Trần Văn Hải (CA) “Hải mặt đỏ”; Ngô Tấn Phước (WA) dân Cù Lao Phố nhà gần Nguyễn Thị Thùy Linh; Trần Trung Thu (cháu thầy Sái, hiện đang ở Biên Hòa, bán thuốc tây); Dương Minh Hoàng (?) con thầy Tổng Giám thị); Phạm Lê Việt Quốc (CA); Phạm Thế Dũng (CA); Nguyễn Hữu Dũng (CA)…
Và nhớ đến các bạn đã xa lìa chúng ta như Trần Văn Thành (VN, con Cô Giàu); Nguyễn Hoàng Long (VN); Phạm Văn Trước (VN); Võ Hoàng Hùng (Hùng Cận, VN); Hồ Văn Lưu (VN);…Một chút ngẩn ngơ thương tiếc đến linh hồn các bạn đã ra đi về miền an lạc, cõi thiêng liêng!
Các bạn nhớ không? Nổi tiếng gan lì, quậy nhất là Dương Minh Hoàng với bao trò nghịch phá phách làm ô uế ghế bàn, thế là cả lớp được nghỉ học đi lang thang. Một màn bắn “bi giấy cuộn tròn” do đám thằng Nhân “chợ Đồn”, bên trái dãy bàn cuối, bắn nhóm “Điền Đô” bên phải, khi thầy cô quay lưng viết bài trên bảng. Đạn bi giấy bay tứ phía, trúng đầu trúng cổ, đứa vô tội phải cố ngậm miệng chịu đau, đứa hụp đầu dưới bàn “tìm đường lánh nạn”. Một bài viết của Nguyễn Kháng Huỳnh đăng trên bích báo đả kích, kết quả cả đám gọi là “Ban Báo Chí” phải lên trình diện thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo. Cả đám đã đồng lòng không nhận tội, mà tội đó lại là của Lâm Sĩ Đắt. Bài viết của Lâm Sĩ Đắt! Nhớ quá đi thôi! Nhớ cái tuổi mới vừa nứt mắt, thích hào hùng, thích ra vẻ bảnh bao, đòi tập tành làm thơ với thẩn như con chim non vừa mọc cánh đã muốn bay cao, lòng đã biết mơ mộng nhưng chưa có anh nào dám mang họ Thích Làm Quen. Gặp các cô em Ngô Quyền thì ấp a ấp úng, miệng như ngậm hột thị, tay chân lúng túng không biết cất chổ nào, phải không các bạn?
Tôi còn nhớ một kỷ niệm cuối năm Tứ Bốn. Tiệc Tất Niên ở lớp xong, cả đám theo Võ Hoàng Hùng (Hùng Cận) về nhà bên cạnh dòng Đồng Nai. Gia đình Hùng Cận có nhà hàng Tuyết Hồng nổi tiếng với các món ăn đặc biệt ở Biên Hòa như xôi chiên phồng, gà hấp rau răm, đầu cá bánh canh…ngoài ra còn lãnh thầu giao thức ăn cho Trường Sĩ Quan Thủ Đức. Ngày đó, đám chúng tôi đến đúng lúc nhà bếp làm các thức ăn rất nhiều, sắp xếp mang ra xe giao cho quân trường.
Thấy Hùng Cận dẫn đám bạn về nhà, Bác Tư Thạnh, má Hùng Cận kêu tất cả ở lại ăn cơm, chúng tôi cảm thấy quá sung sướng, híp cả mắt, nở cả mủi! Bác kêu nhà bếp mang cho cả đám bọn tôi ăn đủ thứ, cái gì chứ ăn thì tha hồ nếm thử, tôi nhớ và thích nhất món sườn “cốt lết”. Món ăn quá ngon rất bắt mắt. Màu vàng tươm mật thơm phưng phức, quyến rủ cái miệng, cái mũi, cái mắt của tôi mãi. Tuổi trẻ mà, đang sức ăn nên cứ thực như hổ vậy! Bây giờ viết cho các bạn, vị giác của tôi theo thời gian “điểm danh” mất vài gai lưởi mà miếng sườn kia tôi vẩn còn thòm thèm ...
Giã từ tuổi học trò tôi theo đường binh nghiệp. Rồi thời cuộc đổi thay, bất đắc dĩ tôi phải ra đi, rời xa quê nhà, tổ quốc, lang thang trên xứ lạ quê người. Qua bao cảnh vui cười, buồn chán, lòng cứ ước ao gặp lại các bạn cũ chung trường, chung lớp để cùng nhắc lại kỷ niệm, xem ai còn ai mất. Đôi khi trên bước đường đời, biết tin tức một số các bạn:
- Có Bạn nên duyên vợ chồng, hạnh phúc - VUI
- Có Bạn đã học thành tài, công thành danh đạt, an cư lạc nghiệp - MỪNG
- Có Bạn còn lận đận cuộc sống vất vã - BUỒN
- Và có Bạn đã ra đi như “Thành-Hùng-Lưu…” - THƯƠNG TIẾC
Với Võ Hoàng Hùng (Hùng Cận), sau khi chia tay các bạn, năm 1972, Hùng Cận được gia đình cho đi du học ở Nhật, ra trường đậu rất cao (Kỹ sư Hoá học) được mời ở lại làm tại Nhật. Sau đó được phái sang Canada làm Giám đốc một chi nhánh của hảng Nhật tại đây. Năm 1981, Hùng có sang Houston thăm gia đình, nhưng rất tiếc lúc đó tôi còn ở Hawaii nên không gặp được bạn xưa. Gia đình muốn Hùng ở lại làm việc tại Mỹ nhưng Hùng có lý tưởng riêng, chí hướng đã quyết định, nên gia đình không cản được nhiệt tình tranh đấu của Hùng, đường lối của Hùng thật đáng ngưỡng mộ. Hùng đã rất nồng nhiệt giúp đở đồng bào ta trong các trại tị nạn ở Nhật. Hùng mất đột ngột năm 1988, còn trẻ mới 37 tuổi, mang theo giấc mộng đấu tranh không thành! Thuở ấy, trong cảnh phân ly, di tản, Hùng đã được kiều bào ở Nhật thiêu xác, tro để tại chùa ở Nhật, đến năm 1994 thì được đem về Việt Nam, thờ ở chùa gần cầu Mương Sao, Biên Hoà. Một nén hương lòng tưởng niệm đến bạn: Võ Hoàng Hùng (Hùng Cận)!
Vài hàng cảm tạ Thầy Cô đã một thời dạy dỗ tôi, để ngày nay được nên danh nên phận với đời. Cảm ơn tất cả các bạn đã cho tôi được chia xẻ những kỷ niệm vui, buồn, thương nhớ đến các Thầy, Cô cùng những người bạn học cũ của tôi.
Cảm ơn đời đã dành cho tôi những ngày sung sướng được sống với bao kỷ niệm trường xưa Ngô Quyền mà tên gọi của một thời: Tứ Bốn. Không bao giờ quên!
Lâm Sĩ Đắt
(Trưởng lớp Đệ Lục-Đệ Tam)
Còn nhớ hay đã quên!
Thân tặng các bạn chs NgôQuyền và đặc biệt cho các bạn cùng lớp Đệ Nhất B1(1971) hiện đang ở Nam Cali: Phan Thị Ngọc Quỳnh, Nguyễn Hữu Dũng, Huỳnh Văn Tùng, Phạm Lê Việt Quốc, Bạch Thu...
Tưởng đã qua đã chìm vào quên lãng,
Thuở học trò áo trắng tuổi ngây thơ
Đã qua rồi hơn ba mươi năm lẻ
Nợ áo cơm, trĩu nặng gánh gia đình
Cuốn thân ta vào bão nổi trầm luân
Thân viễn xứ nhưng lòng luôn khắc nhớ
Nhớ quê hương và nhớ cả mái trường
Do mong ước hay tình cờ run rủi
Mà thầy xưa, bạn cũ lại gặp nhau
Vui hớn hở bây giờ không đơn độc
Ta có thầy, có bạn, có trường xưa
Có mái ấm Ngô Quyền, đặc san, kỷ yếu
Tìm nơi đó bao thân tình nồng ấm
Hình ảnh thân thương, tình ý ngọt ngào
Ta tưởng mất nhưng giờ đây có cả
Đại gia đình thân thiết siết tay nhau
Ơi vui sướng bây giờ ta giàu có:
Tình yêu đời - thầy bạn đã cho ta
Nghĩ đến nhau là ấm cả tấm lòng
Vậy còn nhớ hay đã quên tất cả!?
ChsNQ NguyễnThị Hiền