- Kỷ Niệm Vẫn Còn Xanh (NTC)
- Năm Tháng Ngày Xưa (NTC)
- Nhớ Về Cù Lao Phố (PTHH)
KỶ NIỆM VẪN CÒN XANH
Nếu ai hỏi tôi khoảng thời gian nào đẹp nhất, tôi sẽ không ngần ngại trả lời: khoảng thời gian cắp sách đến trường. Đó là những năm hạnh phúc nhất. Tuổi học trò thật vô tư, thật yêu đời và thật ngổ ngáo dễ thương. Không bao giờ tôi quên ngôi trường NGÔ QUYỀN thân thương. Ở đó, tôi có thầy cô, có bạn bè, có niềm vui và nhất là có những kỷ niệm thật nồng nàn dù đã xa, đã mất.Trí nhớ tôi vẫn còn đậm nét về ngày tháng cũ… từng môn học... từng khuôn mặt thầy cô, bạn bè.
CÔ KHƯƠNG THỊ BÀN:
Có lẽ tôi là học trò dở nhất lớp của cô về môn Nữ Công. Không hiểu tại sao tôi có thể ngồi hàng giờ để làm thơ hay có thể viết nắn nót những bài thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính vào trong vở học trò mà không cảm thấy chán chút nào. Còn may hay thêu, chao ôi với tôi là một cực hình. Cho tới bây giờ tôi vẫn không biết mũi dây chuyền và mũi nhành cây phải bắt đầu như thế nào. Để có những mẫu thêu nộp cho cô tôi phải "lượm mót" của các bạn. Tôi gọi là "lượm mót" là vì những tác phẩm đó xấu quá bị bỏ đi; tôi lượm lại dành cho mình.Thường thường là tôi lượm của nhỏ Lưu hay Thu Xuân.Tuy không đẹp nhưng có còn hơn không. Dĩ nhiên là cô không vui. Những lần chấm điểm, cô thường chép miệng, lắc đầu. Một lần - tôi nhớ - cô dạy chúng tôi mũi mạng. Lần đó xui cho tôi, cái mẫu tôi lượm mót cũng không được hoàn chỉnh. Nó bị khuyết mất một lổ. Khi tôi nộp bài, cô nhìn tôi có vẻ giận lắm. Cô vốn ốm yếu, hiền lành, khi giận trông như cô muốn khóc. Cô không hiểu sao em lại dở như thế nầy...
Nhìn đôi mắt ươn ướt của cô, tôi tự hứa sẽ cố gắng học thêu để làm vui lòng cô, nhưng khi về tới nhà tôi lại quên mất. Mơ ước làm văn thi sĩ đã chiếm hết thời gian còn lại của tôi. Cuối cùng tôi vẫn là con nhỏ học trò dở nhất của cô.
THẦY TRƯƠNG SĨ BẰNG:
Môn Vẽ đối với bọn học trò con nít chúng tôi chẳng có gì khó khăn cả. Chỉ là những hình vuông, tam giác, trình bày giống như tấm gạch bông thế thôi. Đây là giờ nghỉ xả hơi để chúng tôi có dịp chụm đầu vào nhau tán gẩu. Không có gì đáng than phiền. Chỉ có một việc nhỏ làm tôi thắc mắc hoài. Tại sao điểm nhỏ Lưu lúc nào cũng trội hơn tôi? Đâu phải vì nó vẽ giỏi hơn tôi. Tôi đã bỏ thời giờ lặng ngắm nhỏ tô màu. Chẳng có nghệ thuật chút nào cả. Với cây bút chì hai màu xanh, đỏ -Lưu đè thật mạnh -hai môi mím chặt để lấy sức tô cho đậm đến nổi tôi phải buột miệng kêu lên "Quỷ sứ cái này không phải là tô màu mà là trét màu... ghê quá!”. Nhỏ vừa cặm cụi hoàn thành tác phẩm vừa cười: "Rồi mày xem".
Thật vậy, trời ạ! Tuần tới nhỏ Lưu lại được điểm cao. Lúc này, nhỏ rù rì bên tai tôi bật mí:
"Thầy cận thị dữ lắm, tô như mày làm sao ổng thấy, mày cứ tin tao tô thật đậm là ăn tiền". Tôi làm theo lời nhỏ Lưu và kết quả đúng như ý muốn. Không hiểu có bạn nào lưu ý và có kinh nghiệm như chúng tôi không. Nói thật chứ không bịa đâu nhé! Cho đến bây giờ mỗi lần nhắc lại chuyện xưa nhỏ Lưu vẫn thì thầm: “Ừ, thầy cận nặng lắm mày ơi! ".
CÔ PHẠM NHÃ Ý:
Nơi nào có cô hiện diện hầu như rực rỡ hơn và tươi mát hơn. Những áo dài cô mặc màu sắc thật đẹp càng tôn nước da trắng hồng của cô, và mái tóc lúc nào cũng được chải khéo léo xinh xắn khiến cho khuôn mặt cô rạng ngời như một đóa hoa nở giữa ánh mặt trời. Bọn học trò con gái chúng tôi luôn miệng xuýt xoa: "Chao ôi, cô đẹp quá, sang quá!".
Riêng tôi ngơ ngẩn vì cái tên của cô -Nhã Ý- ông cụ thân sinh của cô đã khéo chọn cho cô một cái tên quá đẹp, từ trong ý nghĩ đã đẹp thì làm sao cô không đẹp cho được. Cô dạy môn Việt Văn. Nhóm Ngũ quỷ chúng tôi lúc nào cũng ồn ào, rộn ràng. Để tránh tình trạng mất trật tự, cô phân tán chúng tôi mỗi đứa một nơi. Tôi được đổi lên trên ngồi cạnh trưởng lớp Bùi thị Lợi, một trưởng lớp tuy nhỏ con nhưng lanh lợi và nhiệt tình mọi mặt. Giờ học cô rất hào hứng sôi nổi. Khi khảo bài, cô cho một người vai Lục Vân Tiên và một người vai Kiều Nguyệt Nga:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai
Chẳng hay con cái nhà ai
Đi đâu đến nổi mang tai bất kỳ
...
Nàng rằng tôi Kiều Nguyệt Nga
Còn con tì tất tên là Kim Liên
...
Luôn luôn có những ý kiến phê bình ngoài lề nhưng tạo bầu không khí thật sôi động, nhộn nhịp. “Chao ơi! Đúng là ông Lục Vân Tiên quá đổi cù lần, gặp người đẹp như thế mà không biết ga lăng còn bày đặt khó chịu". "Thông cởm đi bạn ơi! Lúc đó nam nữ thọ thọ bất thân mà”.
Tôi còn nhớ một lần cô hướng dẫn lớp chúng tôi làm đơn xin việc làm. Nhìn các bạn chung quanh ai cũng chọn những địa điểm quen thuộc như Ty Giáo Dục, Ty Công Chánh, Ty Thủy Lợi... Buồn tình tôi nghuệch ngoạc vào tờ đơn của tôi: Maxim. Cô đi ngang liếc mắt xem bài của tôi và nhẹ nhàng nhắc nhở "Maxim là của ông Hoàng Thi Thơ, ở đây chỉ tuyển nữ vũ công thôi em!. Cả hai cô trò cùng cười, nụ cười của cô thật tươi tắn, dễ thương.
CÔ HÀ BÍCH LOAN:
Cô cũng dạy môn Việt Văn. Dáng cô gầy, thanh thoát. Nhưng màu áo cô mặc thật trang nhã và chưa bao giờ tôi thấy cô mặc áo hoa sặc sỡ. Khi giảng bài, cô đứng trên bục gỗ hay cạnh bàn, luôn luôn vân vê viên phấn trắng trên tay. Với tôi, đó là một cử chỉ rất nữ tính, rất dễ thương mà tôi không bao giờ quên. Vừa giảng Kiều, cô vừa liếc mắt canh chừng bọn tôi -Ngũ quỷ- nghe dễ sợ nhưng thực sự chỉ ồn ào phá phách hơn đám con gái bình thường chút xíu thôi. Nhỏ Ba tinh nghịch hay tìm những mẫu chuyên vui cười để chọc ghẹo bạn bè. Nhỏ Lưu nổi tiếng quảng giao. Nó có tài gợi chuyện "kiến trong lỗ cũng phải bò ra". Vì vậy những chuyện bồ bịch thầm kín của ai nó đều biết. Cô Loan phải nhắc chừng và cảnh cáo thường xuyên "Đừng nói chuyện nhiều nhá", "Đừng chọc ghẹo cái Lưu và cái Ba nhé -coi chừng chúng xin tí huyết đấy..." Cả lớp cười ồ! Nhỏ Ba và Lưu được dịp "ré" lên thỏa thích "Ô, tao thích cô này quá, cổ nói chuyện "chiụ chơi " quá!”.
Cô hay chêm những từ ngữ giang hồ võ hiệp như "XIN TÍ HUYẾT", "XIN TÍ GÂN", '"LẠNH LÙNG NHƯ MỘ ĐỊA" để pha trò tạo bầu không khí hào hứng sôi nổi cho lớp học. Chúng tôi say mê nghe cô giảng truyện Kiều:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong Thu đã nhuốm màu quan san.
...
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Nhờ nghe cô giảng, tôi đã làm hai bài thơ KHÓC THÚY KIỀU và TRÁCH TỪ HẢI. Hai bài này đã đăng trong Đặc San lớp Tứ Ba trường NQ do tôi làm trưởng Ban Báo Chí:
KHÓC THÚY KIỀU
Mười lăm năm sống giang hồ
Buôn hương bán phấn nhuốc nhơ tuổi nàng
Ai làm rẽ thúy chia loan?
Ai làm nát ngọc tan vàng đời hoa?
Bán mình chuộc tội cho cha
Quên tình vì hiếu trời già hay chăng?
Phận hồng nhan gặp gian truân
Mây trôi, bèo nổi muôn phần đau thương
Xót xa cho kiếp đoạn trường
Đây hàng nước mắt sầu thương khóc nàng.
TRÁCH TỪ HẢI
Cằm én, râu hàm oai lắm nhỉ
Tung hoành góc bể bấy nhiêu năm
Bốn phương nổi tiếng tài ngang dọc
Nghe gái xui nên chết chẳng nằm
Mang tiếng anh hùng sao quá dại
Thế gian mấy kẻ bảo rằng ưa?
Không tiếc - không thương mà tớ bảo
Chết vì gái đẹp - đáng đời chưa?
THẦY NGUYỄN PHI LONG:
Thầy đến lớp tôi trong một ngày đẹp trời. Với chiếc áo sơ mi màu trắng trông thầy giống sinh viên hơn là nhà mô phạm. Sau lời giới thiệu mở đầu, thày nhấn mạnh "Tôi chỉ muốn các em xem tôi như một người đi trước có kinh nghiệm chỉ dẫn các em thế thôi". Có tiếng xì xầm - miệng nhỏ Lưu to nhất “Ông này coi bộ lối nha tụi bây". Nhỏ Chẳn đồng tình "dĩ nhiên rồi, trẻ tuổi mà làm thầy không lối sao được mậy”. Cho dù lớp tôi có nhiều bạn rất giỏi Toán, tôi vẫn cho Nguyễn Kim Tiến là cô học trò giỏi và được thày chú ý nhất. Bằng chứng là thầy hay kêu Tiến lên bảng giảng những bài toán khó. Kim Tiến quê ở Tân Hạnh -tóc dài rất thùy mị- khuôn mặt có nét buồn xa vắng. Tôi gọi Tiến "dáng buồn Tân Hạnh". Tiến cũng biết làm thơ. Bài thơ Tiến cho tôi xem rất hay.Vì xem qua có một lần nên tôi chỉ thuộc hai câu đầu:
Người đi trong buổi hoàng hôn lạnh,
Thắm ướt đôi mi ngấn lệ mờ.
Ngồi gần bàn chúng tôi nên Tiến rất khổ sở, đôi khi phải quay đầu xuống nhắc nhở: "Đừng nói chuyện nữa -nghe thày giảng đi- sắp tới ngày thi rồi đó". Vậy mà vẫn không ngăn được đám bà Tám nhiều chuyện. Không hiểu sao lúc đó nhỏ Lưu và nhỏ Ba có nhiều đề tài để nói thế. Hết chọc đứa này, đến ghẹo đứa khác, ngay cả các bạn ở dãy bàn bên kia chúng cũng không tha. Một hôm trong lúc thày đang giảng bài, sực nhớ đến điều gì, nhỏ Ba chồm lên khều vai cô bạn Đồng Thị Sáng: "Ê mậy! Hôm nay kép nào chở mày đi học vậy?"
Sáng, cô Bắc kỳ nho nhỏ mà Phạm Thị Minh đã giới thiệu trong sớ Táo Quân:
Đồng thì có tối bao giờ
Thế mà tên Sáng lại mang họ Đồng!
Không thể nào làm ngơ với nhỏ Ba đành phải quay lại trả lời: "Quỷ ơi, kép nào đâu, ba tao đó.”. “Cái gì?'" nhỏ Ba giật nẩy lên: “Trời ơi! Ba mày trẻ và đẹp trai quá vậy? Tao chấm ổng rồi đó!”. Các bạn ngồi ở dãy bàn cuối lớp đều cười theo nhỏ Ba. Tuy giảng bài nhưng mắt thầy Long vẫn không bỏ sót một cử chỉ nào. Đang lúc nhỏ Ba khoái chí toe miệng cười, thầy đã ném viên phấn vào nó một cách giận dữ: "Nham nhở ". Bất ngờ nhưng nhỏ Ba vẫn nhanh miệng chống chế: "Thầy ơi em chỉ cười thôi đâu có làm gì mà nham nhở thầy?". Để lấy lại bình tỉnh thày bỏ ra ngoài. Vài phút sau thày mới trở vào giảng bài tiếp.
Lớp tôi có bạn nào để mắt xanh đến thầy Long? Không ai biết. Có điều chúng tôi biết chắc chắn thày được nhiều chị lớp lớn ái mộ. Các chị vẫn đến lớp tôi tìm thày. Đang giảng bài thày phải bỏ ngang nửa chừng để ra ngoài nói chuyện. Chỉ vài phút thôi, không có gì đáng ầm ĩ. Nhưng có một lần lâu quá... năm phút... mười phút... trôi qua, thầy vẫn còn đứng ngoài hàng ba với hai chị học trò quen thuộc. Câu chuyện có vẻ quan trọng. Lớp học bắt đầu bàn tán ồn ào. Nhỏ Lưu quả quyết "chắc mối tình tay ba khó xử rồi đây". Các bạn ngồi ở bàn trên vốn hiền lành, hiếu học cũng cảm thấy khó chịu, bực bội. Lời ra tiếng vào làm lớp tôi như một chợ trời. Có lẽ thầy cũng nghe được những lời xầm xì nên có vẻ tức giận lắm. Chưa bao giờ tôi thấy thầy nổi nóng như lúc này. Thầy ném viên phấn xuống sàn đưa ngón tay như chỉ vào mặt chúng tôi, nói gằn từng chữ một: "XIN ĐỪNG LÁI XE VẬN TẢI VÀO ĐỜI TƯ NGƯỜI KHÁC”. Nói xong, thầy bỏ đi xuống lầu. Từ đó câu nói của thầy trở thành bất tử. Cuối năm, khi mãn khóa học, thầy yêu cầu chúng tôi cho ý kiến về môn Toán của thầy. Dĩ nhiên thầy dạy giỏi, học trò mến yêu thầy. Nhưng khi nhìn các bạn viết cảm nghĩ, tôi băn khoăn tự hỏi " “Có bao nhiêu cô học trò tinh nghịch đã viết lại câu danh ngôn độc đáo của thầy?”.
THẦY LÊ HOÀNG SANG:
Thầy dạy Pháp Văn, rất hiền -từ nụ cười đến lời nói- lúc nào thầy cũng từ tốn, nhẹ nhàng. Điều làm tôi nhớ nhất về thầy là có nhiều lần thày khuyên tôi nên ráng học: "Một mai khi vào đời em sẽ nuối tiếc vì đã bỏ lỡ mất cơ hội". Những lời thầy không bao giờ tôi quên.
THẦY ĐÀO VĂN VƯỢNG:
So với các thầy khác thì thày thấp và ăn vận rất lè phè. Trán thầy cao, vồ, bóng lưỡng biểu lộ sự thông minh, bướng bỉnh.Thầy dạy môn Quang Học. Chúng tôi gọi thầy là “gương cầu lồi". Đôi mắt thầy nhìn chúng tôi gườm gườm như thầm bảo: "Này ông biết chúng mày hay phá nhưng không sao, ông chẳng ngán đâu. Chúng mày học thì chúng mày nhờ còn không học thì kệ thây chúng mầy ông cóc cần". Chẳng có gì đặc biệt để nhớ nếu không có
một ngày thầy dồn lớp tôi và lớp con trai học chung. Đến lớp lạ là một điều chúng tôi không thích. Một tên không phải là trưởng lớp nhưng tự ý xung phong đứng ra điểm danh. Anh chàng này biết nhỏ Ba quậy và dữ nên muốn chọc quê cho bẻ mặt Nguyễn thị Ba. Hắn dõng dạc gọi to. Tưởng điểm danh bình thường nhỏ Ba giơ tay "Có mặt". Vài phút sau bị gọi tên lần nữa, biết gặp tên xấc láo, nhỏ Ba gằn giọng hỏi lại: "Ê, sao gọi tên tao hoài vậy?". Tên kia trân tráo trả lời: "Bộ tên xấu quá rồi quê hả?", Ba giơ ngón tay hăm dọa: “Gọi một lần nữa biết tay bà". Lúc này, lớp học cũng chưa được ổn định. Tôi lặng lẽ quan sát mọi người. Các anh ở bàn trên hiền lành, lịch sự hơn đang lúng túng nhường chỗ cho các cô bạn lớp tôi. Cả hai đều bỡ ngỡ thẹn thùng. Thầy Vượng đã có mặt. Thầy khoanh tay đứng bên cạnh bàn, hai chân tréo vào nhau và gương mặt vẫn gàn gàn như thủa nào: "Xong chưa, sao lâu thế ?". Các anh bàn trên gải đầu lí nhí không rõ. Thầy liếc mắt nhìn các anh, nói thật nhỏ nhưng cũng đủ cho tôi nghe lóm: "Ăn no thì ấm cật -dậm dật đủ đường". Trời ạ! Tôi lấy tay che miệng để khọ̉i phải kêu lên thành tiếng. May là nhỏ Ba và nhỏ Lưu không nghe. Nếu chúng nghe thì "đại loạn". Tình hình giữa nhỏ Ba và tên kia vẫn gay cấn. Hắn chọc quê nhỏ Ba lần nữa. Nhỏ Ba chồm lên giận dữ : "Bà nội đây con". Lưu phải kéo nhỏ Ba ngồi xuống và tên kia cũng được một người bạn kềm lại. Từ đó, mỗi lần thầy dồn hai lớp học chung là chúng tôi vắng mặt. Bao năm qua rồi tôi vẫn nhớ ánh mắt và lời thầy mắng các anh trai. Có lẽ các tên này ḅị thầy mắng hoài nên không thấy ngượng ngùng, mắc cở. Tuy nhìn ánh mắt của thầy ngày hôm đó thật dịu dàng, nồng ấm và lời mắng yêu của thầy cũng nhẹ nhàng như một người anh trai mắng yêu người em trai thế thôi.
THẦY NGUYỄN THẾ VĂN:
Theo tôi, các thầy cô dạy môn Việt Văn thường gần gũi với các học trò hơn các thầy cô dạy những môn học khô khan khác. Có lẽ một phần vì môn dạy và một phần vì bản tánh phóng khoáng của họ. Thầy Văn ngoài "tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, dân hữu tứ sĩ vi chi tiên" ra, thầy còn chia sẻ những quan niệm sống mới với các học trò. Khi nói về môn khiêu vũ, thầy cũng nhẹ nhàng cổ vũ chứ không tỏ ý chê bai. Điều này làm bọn tôi thích thú. Nhỏ Lưu và nhỏ Ba bô bô: “Ô cái này hợp gu quá!”. Vào lúc đó văn học báo chí đang xôn xao về truyện Mối Tình Cao Thượng của Nguyễn Mạnh Côn, thầy Văn có hỏi ý kiến lớp tôi về tác phẩm đó. Trong lớp, chỉ có tôi và Phạm Thị Minh đọc qua MTCT. Cô bạn Phạm Thị Minh -chúng tôi gọi là big Minh để phân biệt với Nguyễn Thị Thanh Minh - với bản tánh "nghĩ sao nói vậy xem thì hơi ngang", giống như tôi - đã nhăn mặt văng tục: "Bố nó! Nham nhở thế mà cũng cho là tình yêu cao thượng!". Quan điểm về tình yêu và tình dục của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn quá mới mẻ chưa hợp với lứa tuổi chúng tôi lúc bấy giờ. Riêng với tôi, thầy Văn có nhã ý khuyến khích tôi viết hồi ký, nhất là viết về thời quậy phá của tuổi học trò. Ngày đó, tôi chỉ cười và lắc đầu "cái tôi là cái đáng ghét thầy ạ!". Tuy nhiên, bây giờ tôi nghĩ lời khuyên của thầy rất có lý.
THẦY NGUYỄN VĂN LỤC:
Không phải chỉ riêng mình tôi mà hầu hết các bạn bước vào năm Đệ Nhất đều mang tâm trạng như thế nầy: có một niềm vui lâng lâng như vừa nhấp một chút rượu nồng. Cho mắt sáng hơn và môi cười rạng rỡ hơn, Thầy Lục và môn Triết Học đến như một luồng gió mới. Giã từ những bài thơ và tư tưởng cũ của cụ Nguyễn Công Trứ để đón nhận một tư tưởng hiện đại thật lạ và thật quyến rũ. Trong ba môn Đạo Đức học, Luân lý học và Tâm Lý học, tôi thích Tâm Lý học nhất. Lời thầy giảng và những dẫn chứng thật dễ hiểu làm chúng tôi say mê.
Năng mưa thì giếng năng đầy
Em năng qua lại mẹ thầy năng thương.
Tình yêu vẫn là đề tài muôn đời của các văn thi sĩ. Thầy Lục đã khéo léo đưa bài thơ Cô Hàng Xóm của Nguyễn Bính để phân tích tình cảm cho chúng tôi nghe:
Nhớ con bướm trắng lạ lùng
Nhớ tơ vàng nữa... nhưng không nhớ nàng.
...
Hôm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc quả tôi yêu nàng.
Sau này khi nghe một nhạc sĩ đã phổ bài thơ này thành nhạc, tôi đã giận ông thật nhiều vì người nhạc sĩ đã không diễn tả hết cái ý của thi sĩ và khi nghe bài nhạc không có cảm xúc dạt dào như thầy Lục giảng năm xưa.
Khi thầy kể về cuốn film STRADA, câu chuyện về cô vợ Gelsomina bé bỏng, yếu đuối vô tích sự và anh chồng Zambino cục súc, vũ phu. Ý nghĩa của câu chuyện là trên đời này vật nào cũng có ý nghĩa đễ đáng sống cả. Thầy kể và phân tách từng tâm lý nhân vật rất hấp dẫn lôi cuốn. Tôi đã bắt gặp trên khuôn mặt của các bạn trong lớp -từ bàn trên như: T. K. Mỹ, T. Ứng, C.Tường... cho đến bàn cuối như Chẳn, Sáng, K. Tiến ,T. Thu... nỗi say mê thích thú. Và trong đầu óc bé nhỏ hay tưởng tượng của tôi lúc nào cũng thấy hình ảnh anh chồng vũ phu đi tìm cô vợ yếu đuối của mình. Tiếng gọi của anh vẫn còn vang vọng đâu đây...Gelsomina... Gelsomina...
THẦY HIỆU TRƯỞNG PHẠM ĐỨC BẢO:
Thầy là nhân vật đáng nể nhất trường. Ai ai cũng khiếp sợ thầy. Dáng dấp thể thao, trẻ trung. Thầy thường hay mặc áo ngắn tay để lộ cánh tay rắn chắc, khỏe mạnh. Có nhiều truyền thuyết về thầy và nhỏ Lưu cũng là người kể cho chúng tôi nghe nhiều nhất. Nào là thầy có võ Judo, võ Karate… Những tên học trò ba gai, ngỗ nghịch chỉ cần một tay thôi là thầy tóm cổ chúng thật dễ dàng. Chúng tôi rất ngán và luôn luôn tránh mặt thầy.Vậy mà một ngày nọ cả bọn được giẩy mời xuống Văn Phòng gặp thầy Hiệu Trưởng. "Chết mẹ! Sao vậy?”, nhỏ Lưu dơ hai tay như phân bua, "mình có làm gì đâu”. Ba đứa nhìn nhau -phù hiệu đeo đàng hoàng - áo quần giày dép tươm tất. Chẳng lẽ thầy Tổng Giám Thị mét lại những chuyện phá phách hồi xưa? Khuôn mặt thầy HT nghiêm trang, suy tư càng làm ba đứa lo âu hơn. " Ngồi đó đi chờ thầy TGT đến rồi sẽ biết". Chúng tôi khép nép ngồi trong góc phòng. Nhỏ Lưu luôn miệng than thở "điệu này ba tao cạo đầu tao tụi bây ơi!". Một lát sau thầy TGT đến. Cả hai thầy nói chuyện với nhau. Tôi nghe loáng thoáng về lá Quốc Kỳ và cột cờ. Thầy Quân nhìn chúng tôi lắc đầu “Không phải tụi này”. Bấy giờ khuôn mặt thầy HT nhẹ nhàng hơn và chúng tôi cảm thấy trút được gánh nặng. "Về lớp học cho đàng hoàng nghe chưa?". Tôi chưa kịp cười đã bị thầy phất cho một roi, không đau nhưng làm tôi ngạc nhiên, "Con bé này, nhớ không mặc áo kiểu bà Ngô Đình Nhu nữa nhé!". Nhỏ Lưu và Ba phá lên cười và kéo tôi ra khỏi phòng. Lời thầy tôi vẫn nhớ nhưng không làm theo vì tôi thấy các chị lớp lớn mặc kiểu bà Nhu dễ thương quá nên bắt chước mà thôi. Do đó mỗi lần đi ngang qua văn phòng tôi phải đi thật nhanh.
Hơn 40 năm ... Cuộc đời trôi qua như một giấc mộng. Dù có nhiều biến đổi, tôi vẫn còn muôn vàn kỷ niệm để nâng niu. Vẫn còn trường NQ để nhớ, vẫn còn hình ảnh các thầy cô để kính yêu, vẫn còn các bạn để gần gũi, thân thương... để thường xuyên gọi cho nhau nhắc nhở về thời quá khứ...
Một lần nhỏ Ba đã tâm sự: "Hồi xưa sao mình ngu quá, chỉ ham chơi không chịu lo học chứ tụi mình đâu có dở phải không mậy? Nhưng mà thôi, tao cũng chẳng nuối tiếc gì, mình có những ngày vui!". Tôi quên báo cho nhỏ hay anh chàng gây sự ngày nào suýt nữa ấu đả với nó tại lớp học đã vĩnh viễn từ giã cõi đời. Tôi đọc phân ưu trên bản tin Ngô Quyền. Sáu mươi năm cho một kiếp người! Thật ngắn ngủi và buồn quá...
Bây giờ viết những dòng chữ này, tôi nhớ từng khuôn mặt các bạn mà tôi đã gặp lại sau những năm dài xa cách...T. T. Lưu, V. T. Phụng, P. T. Hà, N. T. Chẳn, P. T. Thanh Thu, T. K. Mỹ, M.H. Huệ, T. T. Diệu, Ngô N. Hương, H. B. Tuyết, T. T. Mai, C. T. Huệ, N. T. P. Lan, Đ. T. N. Hoa...
Tất cả đều mang trái tim nồng nàn, chân tình của người nữ sinh trường NGÔ QUYỀN. Rất tiếc là tôi chưa có dịp gặp lại Nguyễn Thị Kim Tiến và Phạm Thị Minh để được nhìn lại “dáng buồn Tân Hạnh” ngày xưa và có dịp cùng cười ha hả với Big Minh như thủa nào.
Ơi! Thầy Cô và bạn bè yêu dấu của tôi...
KỶ NIỆM VẪN CÒN XANH
DÙ MÁI ĐẦU ĐÃ BẠC
THY LỆ TRANG
MASSACHUSETTS
NĂM THÁNG NGÀY XƯA
Sau khi dọn nhà nhà về BIÊN HÒA ,việc đầu tiên là ba xin cho tôi đi học. Từ nhà tôi đến trường tiểu học Tân Thành khoảng hai cây số. Ba dẩn tôi đi bộ để tôi có thể nhớ đường về nhà một mình. Thời đó nhàcửa thưa thớt - xa xa mới có một căn nhà.,vẫn còn một ít nhà lợp mái tranh,vách đất. Hai bên đường là những luống mạ trải dài như tấm thảm màu xanh xinh xắn.Không khí thật bình an, trong lành. Ba rất thích phong thổ nơi này và tuyên bố sẽ ở đây cho tới ngày nhấm mắt. Thày Hiệu trưởng Huỳnh văn Rao tiếp ba và tôi tại lớp hai trong giờ dạy học - vì thày vừa là Hiệu trưởng vừa là thày giáo. Ba xin cho tôi vào lớp hai .Vì công việc làm ăn thất bại ba phải bán nhà ở Sài Gòn và đưa gia đình về Vĩnh Long theo lời mời của một người bạn. Nhưng chỉ được vài tháng cho là không thích hợp ba lại đưa cả nhà về Sài Gòn. Sau đó ba nghe lời bác tôi đi về Biên Hòa. Di chuyển nhiều lần như thế nên sự học của tôi bị gián đoạn. Tôi chưa học hết lớpmột. Tuy nhiên nhờ học ở nhà nên tôi biết đọc và làm toán rất giỏi. Ba trình bày với thày Hiệu trưởng và khoe thêm về tôi " con bé còn thuộc làu thơ bà Huyện Thanh Quan nửa đấy" Thày nhìn tôi cười. Thật lạ -lúc này tôi không cảm thấy nhút nhát mà còn dạn dỉ hơn bình thường. Tôi đã đọc một đoạn văn thật rõ ràng và làm vài bài toán theo yêu cầu của thày. "Khá lắm" Thày nhận tôi vào lớp hai. Ba chờ tôi vào chổ ngồi và yên chí tôi không khóc ba mới ra về. Lúc này tôi mới nhận thấy cả lớp đang nhìn tôi. Chắc lúc đó mặt tôi trông rất ngố. Dảy bàn con trai yên lặng - chỉ nghe tiếng xầm xì phía bên con gái, nhất là lúc thày xoay lưng viết bài trên bảng - tiếng xầm xì càng rỏ hơn :"con nhỏ này Bắc Kỳ tụi bay ơi ""Con nhỏ Bắc Kỳ mỏ chu " " con nhỏ tóc quăn dể ghét "...Trước ngày tôi về BH ,người chị con bác tôi - chủ một tiệm uốn tóc ở đường Gia Long Sài Gòn đã uốn cho tôi một kiểu tóc mà chị cho là mốt mới nhất : tóc quăn xuăn tít vào nhau. Tôi thường hay dang nắng nên da tôi đen sậm hơn. Mệ gọi tôi là "Chà Và con ". Ởđây những đứa con gái trạc tuổi tôi chỉ để tóc dài kẹp lại hoặc cắt bum bê. Đến giờ ra chơi, tôi đứng sớ rớ trước cửa lớp -nhìn các bạn vui đùa vứi nhau mà thèm. Một nhỏ học chung dáng to lớn - giống Tây lai - có đôi mắt rất đẹp lân la làm quen với tôi. Tôi chưa kịp trả lời thì có hai đứa khác đã đẩy nó ra và lớn tiếng trêu chọc :"Ê -bộ mày đi Tây Ninh bỏ dấu nặng hả ?". Từ nhỏ tôi chỉ sống quanh quẩn với mẹ và anh chị em trong nhà -chúng tôi rất hòa thuận ,chưa nặng lời với nhau bao giờ nên tôi không hiểu những câu "móc lò" hay " chửi xỏ". Sau này tôi mới hiểu đi Tây Ninh bỏ dấu nặng là Nịnh. Không phải trong lớp ai cũng xấu với tôi chỉ có một số thôi nhưng vì bọn này "dử như chằn" nên các bạn kháckhông dám trái ý. Mỗi lần đi ngang tôi bọn chúng hay làm dấu "lêu lêu " tôi :" Bắc Kỳ con bỏ trong lon kêu bon bon bỏ trong đít kêu chít chít " và "uốn tóc quăn như con chó xù xách bóp đầm không có đồng xu". Tôi không biết trả lời thế nào nên chỉ lặng im. Không có bạn tôi chăm chú vào việc học hơn. Tôi lắng nghe thày giảng bài và thường hay xung phong trả lời. Thày rất vừa lòng. Tuần lễ đầu ba còn đi đón -sau đó ba cảm thấy yên tâm nên để tôi về nhà một mình. Mấy đứa "dử như chằn" cùng đường về với tôi. Tôi không ngờ chúng đã sắp đặt sẳn kế hoạch "đánh tôi cho bỏ ghét'". Còn một đoạn ngắn nửa là tôi về đến nhà, tụi nó khoảng năm đứa giả vờ xô đẩy nhau để đụng vào người tôi. Một đứa tên út Tám chỉ vào tôi nói to :" Ê tụi bây mấy hôm trước tao nghe con nhỏ này nó "buồn cười" ha...ha...đã buồn sao cười được ...tức cười qúa ha...ha...Tự dưng tôi cũng vọt miệng phản pháo lại :"còn mày thì sao -đã "tức" sao còn "cười" được ?". Con nhỏ tên Lắm dường như chỉ huy bọn này đã chỉ định một đứa khác :"Nhào vô đánh nó đi Phượng ,bộ mày ngán nó hả -có gì tụi tao giúp cho". Con nhỏ tên Phượng cao hơn tôi -tóc dài cột đuôi ngựa -chạy lại định ôm vật tôi xuống. Bất ngờ và nhanh trí - tôi nắm đuôi tóc nó siết mạnh. Tuy ốm yếu nhưng tôi nắm bằng hai tay và quay một vòng làm nó siểng niểng. Mấy đứa ở ngoài quăng cặp định nhào vô. Thật may - một chú nông dân dắt bò ngang qua "Ê mấy đứa tụi bay con cái nhà ai tan trường chưa chiụ về nhà mà còn bày đặt đánh lộn - học lớp nào vậy để tao mét lại thày Rao". Nghe chú la lớn tụi con Lắm chạy mất. Tôi được yên thân về nhà. Tôi không kể lại cho ba mẹ hay vì tôi biết ba thương tôi và nóng tánh -ba sẽ mét thày và ba mẹ chúng. Tôi không muốn bị chúng gọi là "con Bắc Kỳ nhỏng nhẻo". Sáng hôm sau ,tôi vào lớp học như thường lệ. Trong đầu tôi dự định tới giờ ra chơi tôi sẽ trình bày tất cả sự việc cho thày biết. Bọn con Lắm và út Tám nhìn tôi bằng đưôi mắt. Bất ngờ thày gọi tôi lên bảng. Chẳng lẻ thày biết mọi chuyên rồi sao? Nhưng mà không -khuôn mặt thày tươi cười, hân hoan lắm. Chuyện gì đây? Tôi lên bục gỗ mà lòng nghe hồi hộp. Thày đưa một tấm giấy màu đỏ cho tôi -tôi liếc nhìn -tờ bảng khen tên tôi được viết thật to và thật đẹp. Nước mắt viền quanh mi tôi. Thày đặt tay lên đầu tôi vổ nhẹ :-"trò rất xứng đáng được bảng khen này". Nói xong thày đưa những bài tập tôi làm dơ cao cho các bạn xem -bài nào cũng điểm cao cả. Lúc này cả lớp nhìn tôi tỏ vẻ thán phục Từ đó có nhiều bạn đến làm thân với tôi -tụi nó không còn sợ áp lực của bọn con Lắm và út Tám nửa. Vài ngày sau -bọn con Lắm và út Tám rủ tôi tham dự những trò chơi chung với chúng. Thời con nít thật hồn nhiên-vô tư. Những trò chơi con gái làm chúng tôi gần gủi nhau hơn. Đánh đủa, nhảy dây, lò cò, chơi u, chơi hấp...trò chơi nào tôi cũng có mặt. Năm lớp hai của tôi từ từ trôi qua ...thật êm đềm...
Lên lớp Ba-thày hiệu trưởng vẫn là thày giáo phụ trách lớp tôi. Cũng từng đó khuôn mặt quen thuộc của lớp Hai. Cũng hai dãy bàn -một bên con trai - một bên con gái. Có điều bọn chúng tôi già dặn hơn. Tôi có thêm cô bạn mới -Trần thị Châu Châu ở trên xóm tôi-mỗi sáng chúng tôi thường gập nhau trên đường đến trường. Châu trạc cở tôi - hình như tròn trịa hơn một chút. Nhỏ có nụ cười tươi và đôi mắt to. Tôi để ý đến Châu vì nhỏ ôm cặp táp giống tôi. Nói là cặp táp chứ thật sự chỉ là cái vỏ bọc ngoài của cái Radio Nhật Bản -tôi thấy xinh xắn nên dùng đựng sách vở. Những ngày vào Đông không khí se lạnh.Trên đường đến trường, tôi thích nghe mùi rơm và lá khô đốt từ vài nhà bên vệ đường. Mùi khói tỏa lên cao nghe thật ấm ấp ,dể chịu. Con đường dài vừa đủ cho bọn tôi nhâm nhi củ khoai hay trái bắp. Ở trường làng con gái học giỏi và mang tên đẹp hơn con trai. Thường là con gái mang tên các loài hoa hay các loại ngọc đá qúy, trái lại tên con trai được đặt theo thứ tự trong gia đình là nhiều : Hai,Tư ,Năm ,Mười...hoặc qúa bình dân như Soài ,Thôi...Tân Thành là vùng phần đông dân cư sống bằng nghề làm ruộng và đập đá ,có một số ít người Hoa mở các cửa hàng buôn bán. Trong lớp tôi có một số bạn vừa đi học vừa phụ gia đình -nhất là con trai ; Phụ đập đá ,chăn bò,cắt cỏ và những việc lặt vặt nơi đồng áng. Vì vậy các bạn ấy không có nhiều thời giờ học bài. Thày Rao rất nghiêm khắc. Nhiều lần không thuộc bài thày sẽ lấy thước khẻ vào tay thật mạnh. Mắt thày "lé" nên thày hay đeo kính đen .Học trò rất sợ thày - vì không biết thày đang để ý đứa nào. Khi vừa ý, thày cười ha hả -rất vui vẻ. Những khi thày cười gần trong cổ họng thì hảy coi chừng -sẽ có một tên học trò nghịch ngợm bị trừng phạt. Tôi chưa bao giờ thấy thày cô nào có nét chữ đẹp như thày Rao. Lối viết vừa đậm vừa lợt, vừa bay bướm như 'rồng bay phượng múa”. Không những thày nắn nót trên những Bảng Khen, Bảng Danh Dự mà ngay viết trên bảng cũng vậy -lúc nào cũng cầu kỳ ,sắc sảo. Kỷ niệm mà tôi nhớ nhất trong năm học này là những ngày lễ có hát Bội ở chùa Long Ẩn. Trước ngày lễ đã thấy nhộn nhịp, rộn ràng. Loa phóng thanh đã thông báo từ làng trên xóm dưới. Từ lớp học nhìn ra ngoài, tôi có thể nhìn thấy cảnh tấp nập hai bên đường -xe cộ nhiều hơn -người đi qua lại cũng nhiều hơn. Ai ai cũng nôn nao đón chờ ngày vui sắp đến. Chùa Long Ẩn với tôi không xa lạ gì. Tôi thường theo mẹ đến chùa trong những ngày rằm. Trong lúc mẹ và các bác lớn tuổi qùy trên chánh điện, tôi mon men theo các bạn cùng trang lứa xuống nhà bếp. Ở đây có một tấm ván bằng gõ thật to-thường dùng làm bàn ăn khi có lễ lớn. Chung quanh tường có treo những tấm hình Hồi dương chánh qủa. Lối vẽ thật sống động về sự trừng phạt của chín tầng địa ngục làm tôi vừa sợ, vừa thích thú.Tội nói láo sẽ bị cắt lưỡi -tội có chồng còn lấy trai bị cưa hai nấu dầu - tội buôn bán gian lận...tội giết người...tội nào cũng bị hình phạt xứng đáng. Ngoài xem những hình ảnh trên, bọn con nít chúng tôi thích tụ tập ở nhà bếp vì lý do đơn giản: được ăn. Các dì, cô nấu bếp sau khi sắp xếp chè xôi lên bàn Phật, phần còn lại phân phát cho bọn tôi -dù là chè cháy hay xôi cháy lúc nào ăn cũng thơm ngon, đậm đà. Những ngày lễ ở chùa Long Ẩn không phải chỉ dành riêng cho xã Tân Thành mà hầu như cho thành phố Biên Hòa và các vùng lân cận. Hát Bội được hát hai xuất; xuất trưa và xuất tối. Việc này làm ảnh hưởng không ít cho lợ́p học của tôi.một số trốn học-một số đi học trể - một số vào lớp ngủ gà,ngủ gật. Dỉ nhiên thày Hiệu trưởng không vui. Lúc này ba là hương chức ,hương làng gì đó trong xã nên ba thường có mặt ở chùa. Tôi và thằng em út thường theo ba xem hát vào những ngày nghĩ. Những tuồng tích cổ xưa chúng tôi đã nghe ba kể cho mẹ mỗi ngày nên đã thuộc lòng. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên chúng tôi xem các đào ,kép diển trên sân khấu. Tôi đặc biệt thích cô đào chánh-vai nào cô đóng cũng xuất sắc. Khi đóng vai Phàn lê Huê hay Thần Nữ dâng ngũ linh kỳ trông cô thật oai phong -đôi mắt sáng long lanh trông thật có hồn. Nhất là lúc cô đi bằng hai đầu gối mọi người đều vổ tay khen thưởng. Khi đóng vai Hàn tố Mai hay Bàng qúy Phi chao ơi cô đẹp qúa - đẹp từ ánh mắt đến nụ cười. Cô làm nhà vua điêu đứng và làm tôi cũng ngẩn ngơ. Trong khi các bà cụ và các dì đứng tuổi ngồi phía trước tôi nguyền rủa cho cô chết đi -còn tôi -tôi mong cô đừng chết để vở tuồng được kéo dài thêm. Những ngày lễ vui tươi...rồi cũng qua mau...Đời sống dân làng trở lại bình thường-lớp chúng tôi cũng vậy. Nhưng thày Rao không quên những tên học trò ham vui bỏ học. Khoảng năm tên được gọi lên bàng-mặt tên nào cũng xanh xao vì thiếu ngủ-" Đêm qua các trò xem tuồng gì ?". Thày cười gằn trong cổ họng. Câu hỏi lập lại hai lần mới được cả bọn lí nhí trả lời:-"Dạ tuồng Ngũ Long Công chúa '". Đang cười thày đổi sang sắc mặt giận dử :-" Ngũ long Công chúa -Ngũ hổ trùm mền ...ngủ luôn tới sáng..nè ...”. Thàydơ thước lên cao đánh cho mỗi tên vào lòng bàn tay thật mạnh. Đau qúa tên nào cũng rơm rớm nước mắt -xoa tay vào mông cho đở đau. Đám con gái chúng tôi nhìn nhau rụt đầu, le lưỡi...
Lên lớp nhì,chúng tôi có cô giáo mới -cô Võ thị Lành. Cô thật xinh xắn ,dễ thương. Trên khuôn mặt đầy đặn phúc hậu luôn điểm nụ cười dịu dàng. Từ lâu chúng tôi chỉ học với thày Hiệu Trưởng -người nổi tiếng nghiêm nghị, khô khan. Bây giờ cô đến tao một bầu không khí thật mới mẻ,linh động. Có nhiều khác lạ trong việc giãng dạ. Không giống như các thày cô khác mỗi sáng chỉ chọn một vài học trò lên bảng trả bài. Với cô Lành, chúng tôi phải trả bài mỗ ngày. Không phải trả bài với cô mà trả bài cho người bạn ngồi bên cạnh. Tùy theo mức độ thuộc bài, chúng tôi được phép đánh dấu trên bài học a,b hay c. Buổi sáng lớp học thật rộn ràng -tiếng trả bài xôn xao...Cô khoanh tay đi vòng quanh kiểm soát. Bọn con gái lớp tôi vẫn học xuất sắc hơn con trai. Những khuôn mặt học giỏi, siêng năng tiêu biểu như Trần thị Ngọc ,Trần thị Châu, Đặng nhựt Hưng, Mai hữu Huệ...Bọn con trai học dở hơn -nhất là môn luận văn thật dở tệ. Có tên đã copy bài mẩu tả con chó để tả bà ngoại của mình " vì sợ trộm đạo nên nhà em có nuôi một bà ngoại ". Vì vậy cô Lành đặc biệt quan tâm đến các con trai -cô khuyến khích nâng đở các bạn nhiều hơn. Thật tinh tế -cô để ý có một bạn lúc nào cũng mặc chiếc áo sơ mi trắng sờn vai ,cũ kỷ. Cô mua chiếc áo mới tặng cho bạn. Tuy nhiên cũng có bạn thật lì lợm, hổn hào. Một lần, qúa tức giận cô đã dùng thước khẻ vào tay một tên. Đối với thày Rao đó là chuyện bình thường.Nhưng với cô đó là điều đau khổ nhất -cô đã ôm mặt khóc nức nở. Cuối cùng bạn ấy đã biết lỗi và xin lỗi cô. Tôi thích nhất giờ đọc sách ,kể truyện. Cô có những cuốn sách bìa cứng màu sắc và hình ảnh thật đẹp. Giọng cô nhẹ nhàng ...Đưa hồn tôi vào thế giới thần tiên...Ở đó có những nàng công chúa mắt to, tung tăng chạy đuổi theo qủa banh và có những chàng hoàng tử đẹp trai, uy nghi trên con bạch mã. Cô đã cho lớp tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Buổi đi chơi trên núi Bửu Long. Lần đầu tiên tôi và các bạn tung tăng ngoài trời, được ngồi trên Hàm Hổ, Hàm Rồng. Cô đã chỉ cho chúng tôi pha màu những chiếc lá để lưu niệm. Theo lời cô chỉ dẩn, tôi đã lấy lá cây mảng cầu xiêm ngâm vào bùn. Khỏang hơn một tuần sau lấy ra -lá cây chỉ còn những gân lá giống như một mạng lưới mong manh, đem nhúng vào mực xanh, tím hay đỏ trông thật đẹp. Tôi thích màu lá đỏ-dưới ánh nắng mặt trời màu đỏ lóng lánh vô cùng. Năm học lớp Nhì thật thoải mái dể chiụ. Vừa học -vừa chơi-không phải lo nghĩ đến việc thi cử Cuối tuần, tôi dẩn em trai tôi đi xem hát ở rạp Biên Hùng. Tôi có rất nhiều Bảng Danh Dự. Để khuyến khích học sinh giỏi, rạp hạt Biên Hùng đá nhận bảng Danh dự thay vé hát. Khi vào xem, người soát vé chỉ cắt một góc nhỏ và trả lại BDD để học sinh giữ làm lưu niệm. Vào mùa hè, tôi thường đến nhà cô bạn trưởng lớp Trần thị Ngọc chơi. Ngọc lớn hơn tôi khoảng hai tuổi -ốm và cao. Tôi không thua Ngọc về việc học chỉ thua bạn về sự ngăn nắp, cẩn thận. Sách vở của Ngọc lúc nào cũng thẩng tắp, sạch sẻ. Bìa bao và nhản tên đàng hoàng. Ở bên trong lúc nào cũng có sẳn hai tờ giấy chậm. Nhà Ngọc xây theo lối xưa nên nền nhà thật cao -thật kiêng cố. Vườn nhà Ngọc thật rộng có trồng nhiều loại cây ăn trái. Vườn nhà tôi nhỏ chỉ có một vài cây xoài, bưởi, mảng cầu xiêm, mận và cây cóc. Còn vườn nhà Ngọc có thêm các loại trái cây hấp dẩn hơn như chôm chôm, vú sửa, dâu và sa bô chê. Vú sửa nhà Ngọc trái tuy nhỏ nhưng mỏng vỏ và rất ngọt. Ngọc rất lanh lợi, tháo vát. Cây vú sửa cao thật cao -có những trái trái tận trên ngọn - Ngọc có thể khéo léo đưa chiếc lồng lên và hái xuống. Tôi đã cố gắng thử nhiều lần mà vẫn không làm được. Trái cây nhiều, nhà Ngọc lại ít người nên Ngọc thường đem trái cây ra chợ Biên Hòa bán -Ngọc thích rủ tôi theo. Theo Ngọc có hai địa điểm bán tốt nhất: trước cửa tiệm vàng Kim Châu và cửa bán xe đạp Đông Hưng. Tôi vốn ít nói, không lanh lẹ mời mọc khách hàng như Ngọc nên chỉ giúp bạn tính tiền và thu tiền. Bán xong chúng tôi kéo nhau đi ăn hàng. Cả hai đứa có chung một món khoái khẩu -món cá chiên của chú người Tàu có chiếc xe bán ở góc cửa tiệm vàng Kim Châu. Miếng cá nhỏ khoảng bằng hai ngón tay ướp với bột chiên vàng -chấm một chút tương ớt thật ngon -còn có thêm một chén súp nhỏ thật béo. Trước khi đi mẹ đã cho tôi vài đồng nhưng Ngọc không để tôi trả tiền. Nhỏ vổ tay vào túi tiền bên hông :" Đừng lo tao có nhiều tiền ..." Cũng có đôi lần bán chậm, nhưng Ngọc cũng biết khéo léo xoay sở -nhỏ giảm gía và nài ép những người quen mua dùm -ai cũngcho là Ngọc có duyên bán hàng. Lúc đầu được tin cô Lành sẽ tiếp tục dạy lớp tôi năm lớp nhất, nhưng cuối cùng cô được lệnh đổi về trường Nguyễn Du. Ngày chia tay thật buồn. Cô và học trò đều khóc. Tôi chỉ còn một điều an ủi: cô về Nguyễn Du dạy lớp em tôi -tôi sẽ có dịp gặp lại cô. Cô Đổ thị Ba thay thế cô Lành. Cô cũng hiền diụ, nhẹ nhàng. Tóc cô dài chấm vai, thỉnh thoảng cô thắt một bím tóc để qua một bên trông thật duyên dáng. Niên khóa này lớp tôi có một bạn từ Nguyễn Du đổi về: Trần văn Ba. Lần đầu tiên lớp tôi có một bạn trai học giỏi. Có nhiều nhỏ xầm xì " tên này học giỏi vì học lớp nhất hai năm liền ". Tôi chỉ chú ý một điều bạn ấy viết chữ thật đẹp -nét chữ thật lạ, thật hay. Vì tò mò tôi đã quan sát và nhận thấy ngòi viết tre của bạn rất đặc biệt -thì ra bạn đà khéo léo cắt ngang đầu ngòi viết một chút, khi viết chữ có nét đậm -nét lợt như những chấm phá của họa sĩ...Năm lớp nhất là năm học quan trọng. Cô giáo chú tâm hơn và học trò chuyên cần hơn. Tuy nhiên những lễ lớn cô Ba cũng cho lớp tôi được trình diển văn nghệ. Giọng hát nổi tiếng nhất là Nguyễn thị Hòa - giống như tên gọi Hòa rất nhu mì, hiền lành. Hòa hát bài Cánh thiệp đầu Xuân rất hay. Tôi và nhỏ Châu cũng tham gia văn nghệ nhiệt tình. Ở nhà chị Mai tôi hay hát nên tôi cũng bắt chước theo ...Những bài Sương lạnh chiều Đông, Bóng nhỏ đường chiều, Về đâu mái tóc người thương, Ngày em hai mươi tuổi ...tôi đều thuộc nằm lòng. Nhỏ Châu cũng được chị Mai hướng dẩn hát bài Em không buồn nửa chị ơi -bài hát này hạp với nhỏ nên khi trình diển cũng được bạn bè ái mô. Không hiểu tại saotôi lại chọn bài Ngày em hai mươi tuổi. Vừa nghe tên bản nhạc cô Ba đã bật cười ...cả lớp cũng cười theo. Kể từ ngày đó tên tôi gắn liền với tên bản nhạc ( năm2005- trước khi đi dự ĐH trường Ngô Quyền nhỏ Hồng có gọi cho Châu ở SanJose :" kỳ này có Cúc đi nửa -Cúc học chung với mày ở trường Tân Thành mày nhớ không ?" Châu ̣đã ròn rả trả lời :" sao không nhớ Cúc ngày em hai mươi tuổi đó mà …”)
Vì là năm thi nhất là thi tuyển vào đệ Thất nên tôi bỏ nhiều thú vui riêng để gạo bài. Ba mua cho tôi quyển 366 bài toán đố và một luyện thi luận văn. Nhân đọc báo tôi thấy bảng quảng cáo lớp luyện thi đệ Thất ở trường Khiết Tâm, tôi xin ba đi học. Lớp học vào ban đêm. Tôi không dám đi xe đạp nên đi học bằng xe lam. Lớp học thật đông - toàn là dân thành phố. Có hai thày phụ trách. Thày Kỳ dạy môn Toán và thày Chấn{?} dạy môn văn. Tôi ngồi bàn cuối cùng, cô bạn gần bên là Bùi thị Duyên -chính là Duyên của Thà như giọt mưa...về sau này. Không khí lớp học thật sôi nổi hào hứng -chúng tôi thi đua nhau học tập. Một lần bị cúp điện -lớp học phải dùng đèn cầy. Chẳng hiểu hôm đó tôi loay hoay thế nào mà để lửa chảy xém một ít tóc phía trước - may là không bị phỏng. Đôi khi đi học về không có xe lam, tôi phải đi bộ về nha. Sợ nhất là đi ngang nghĩa địa của người Tiều Châu. Vừa ̣đi tôi vừa khấn Phật Bà Quan Âm. Không ngờ lớp luyện thi cũng được tổ chức thật xôm tụ - khi mản khóa có thi đàng hoàng và có lễ phát phần thưởng. Một bạn trai được xếp hạng nhất, tôi hạng nhì và Duyên hạng ba. Ngày phát phần thưởng có chương trình văn nghệ. Một bạn trong đám con trai đã hát bài vọng cổ nổi tiếng của nghệ sĩ Út trà Ôn ..." tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài...ngờ đâu giếng cạn tôi tiếc hoài sợi dây ...". Duyên hát bài Giấc ngủ cô đơn -giọng Duyên thật trầm ấm -truyền cảm. Sau cùng là lễ phát phần thưởng. Duyên và tôi - hai con bé Bắc kỳ nho nhỏ - Duyên nói giọng Bắc còn tôi nói giọng Nam - khệ nệ ôm phần thưởng cao nghều về nhà. Năm học này tôi vui nhất vì được hai phần thưởng ...
Đã bao mùa Xuân trôi qua ...có nhiều biến chuyển trong cuộc đời...Ba và thày Rao đã yên lành nơi cõi vĩnh hằng. Tôi vẫn không quên những lần thày đến nhà tôi Ba và thày đứng cạnh hồ cá trước sân nhà. Cả hai nói về chuyện thời sự và về việc học của tôi. Thày luôn luôn quan tâm ...Nếu tôi chăm chỉ hơn một chút, bớt ham chơi một chút ...như thày luôn nhắc nhở...có lẻ cuộc đời tôi sáng lạng hơn chăng? Đôi khi tôi cảm thấy tiếc nuối ...Khi cô Lành đổi về trường Nguyễn Du, năm đầu tiên tôi vẫn còn đến thăm cô ...Nhưng sau đó tôi mất liên lạc với cô-vì cô chuyển đi hay vì tôi mãi mê ham chơi mà không nhớ đến ??? Bây giờ mỗi lần Thu về...nhìn màu lá đỏ tôi vẫn nghe xôn xao, bùi ngùi. Tôi nhớ chiếc lá đỏ năm xưa và ao ước gặp lại cô dù chỉ một lần. Cô Baở Oregon - cách đây vài tháng cô có gọi cho tôi -giọng cô vẫn dịu dàng, đằm thắm như thủa nào. Nhắc về tôi cô vẫn không quên con bé với chiếc áo trắng cúp tay và cái đầu luôn "bù xù tóc rối"-chắc biểu hiệu của một thi si ̃-cô vừa nói vừa cười. Tôi hình dung nụ cười nửa miệng của cô và chiếc bím tóc để một bên vai của cô -thật dễ thương. Dù bao nhiêu năm chưa gặp tôi vẫn nghỉ cô không già - vì cô sống giản dị -ăn chay và đọc kinh Phật. Một điều mất mát luôn làm tôi băn khoăn ,muộn phiền: Tình bạn cúa tôi và Ngọc đã chấm dứt khi tôi thi đậu vào Ngô Quyền. Ngọc nghỉ học và tránh gặp mặt tôi. Cả hai lúc đó còn nhỏ nên không có những suy nghĩ chính chắn để tìm đến nhau hàn gấn lại những ̣đổ vở. Vài năm gần đây, khi nghe tin Ngọc mất ở quê nhà- lòng tôi rất buồn. Tôi vẫn nhớ những lần theo bạn ra chợ Biên Hòa - nhớ chiếc xe bán cá chiên của chú người Tàu mà cả hai đều ưa thích. Ôi tất cả chỉ còn là kỷ niệm ....Trong giấc ngủ tôi thường mơ về thời tuổi nhỏ...về ngôi trường làng ...Tôi thấy ba dẩn tôi đến trường ...Khung cảnh xung quanh vẫn êm ̣đềm ...hòa bình như thủa nào. Tôi thấy ngôi chùa Long ̉Ẩn với những ngày lễ hội tưng bừng...với nụ cười và ánh mắt của cô Bàng qúy Phi một thời làm tôi ngơ ngẩn. Trong tiềm thức tôi nghe văng vẳng tiếng chuông chùa và giọng ngâm nga của ba -một bài thơ của Hồ Dzếnh mà ba từng yêu thích:
..........................................................
Chỉ nghe thiếu vắng trong hồn
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ
Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về
THY LỆ TRANG
MASSACHUSETTS
NHỚ VỀ CÙ LAO PHỐ
Nếu có người nước ngoài hỏi tôi đến từ đâu, tôi sẽ trả lời là người Việt Nam ở thành phố Saigon. Nhưng nếu người hỏi tôi lại là người Việt Nam thì tôi chẳng ngần ngại mà trả lời rằng: Tôi là người Biên Hòa, ở Cù Lao Phố.
Biên Hòa là quê nội, nơi ba tôi được sinh ra và lớn lên. Tổ tiên tôi cũng được sinh ra ở đây và sống cả một đời cùng với những thăng trầm của mảnh đất cù lao nầy. Vì thời cuộc, sau khi học hết bậc trung học, ba tôi phải về Saigon đi làm và lập gia đình với má tôi là người sinh trưởng ở Tân Qui Đông, Gia Định.
Tôi được sinh ra ở Saigon nhưng cả một thời niên thiếu, từ lúc thôi nôi đến tốt nghiệp trung học, tôi lại sống ở Cù Lao Phố, quê hương bên nội. Và chính nơi đây, tổ tiên, ông bà, cha mẹ tôi đã gửi nắm xương tàn trong lòng đất để mãi mãi là người con của Cù Lao yêu dấu.
Cũng nơi đây đã in đậm những kỷ niệm của thời thơ ấu và tuổi trẻ, từ lúc bập bẹ những tiếng nói đầu đời, lớn lên một chút được bà Nội dẫn tới trường trong những ngày đi học đầu tiên ở trường tiểu học Hiệp Hòa cho đến khi tự mình đi xe đạp, đón xe lam đến trường Ngô Quyền trong suốt bảy năm trung học.
Con đường làng đất đỏ từ nhà ra đến Cầu Cống, tôi đã đi qua lại không biết bao nhiêu lần đến quen thuộc cả những hàng cây bên vệ đường. Từ đó có hai hướng: rẽ bên trái sẽ qua Cầu Gành đi về hướng Chợ Đồn, Tân Vạn còn rẽ phải sẽ qua Cầu Rạch Cát đi về hướng Quốc lộ số 1, Biên Hòa, con đường quen thuộc hàng ngày tôi đi học.
Cù Lao Phố có nhiều ngôi chùa và đình, trong số đó có những di tích lịch sử được nhiều người biết đến: Chùa Đại Giác, Chùa Ông (Quan Thánh Đế), Chùa Chúc Thọ (Thủ Huồng), Tịnh xá Tịnh Lâm, Thánh Thất Cao Đài (Đại Đạo Tam kỳ Phổ Độ), Đình Bình Kính (Đền Thờ Nguyễn Hữu Cảnh), Đình Hưng Phú, Đình Tân Giám, Đình Tân Mỹ, Đình Bình Tự, Đình Bình Quang, Đình Bình Quới, Đình Bình Xương, Đình Thành Hưng...
Trường học thì có trường Hiệp Hòa A, Hiệp Hòa B, Bình Tự, Tam Hòa, Nam Hà … Hai nơi buôn bán lâu đời ở Cù Lao Phố là Chợ Mới (Hiệp Hòa) còn gọi là chợ Trong để phân biệt với chợ Ngoài là chợ Cầu Cống. Đó là những địa danh quen thuộc mà hầu hết người dân Cù Lao Phố nào cũng nhớ.
Khi thi đậu vào trường Sư Phạm Saigon cũng là lúc tôi xa Biên Hòa, về Saigon ở chung với cha mẹ để đi học. Ra trường, tôi về dạy học ở Thủ Đức, sau đó chuyển về Saigon. Bận bịu công việc và gia đình, thỉnh thoảng tôi mới về thăm lại Biên Hòa trong những ngày Tết hay giỗ chạp, nhưng không có dịp đi vòng Cù Lao Phố như những ngày xưa thân ái.
Những hình ảnh của Cù Lao Phố dần dần thay đổi bởi những cảnh quang mới về sau nầy, nhà cửa, trường học, bệnh viện… được xây dựng thêm và bộ mặt mới nầy tôi ít được biết đến. Tuy vậy những kỷ niệm ngày xưa của tôi với khung trời cũ vẫn là những kỷ niệm tuyệt vời, in đậm trong tiềm thức để mỗi lần được nhắc nhớ là nó chợt hiện về như mới hôm qua…
Cho đến ngày rời xa đất nước để định cư ở Mỹ, không biết đến bao giờ mới có dịp về thăm lại cố hương. Dù bận rộn với cuộc sống mới trên quê hương thứ hai nhưng lúc nào cái tình tự quê nhà cũng âm ỉ trong tôi để thỉnh thoảng lại hiện về trong những giấc mơ. May mắn thay, nhờ trang nhà của Trường Ngô Quyền và Hội Ái Hữu Biên Hòa, những người đồng hương đã một thời sống ở Biên Hòa đã cùng nhau ôn lại và chia sẻ những kỷ niệm của ngày xưa yêu dấu.
Nhớ về Cù Lao Phố, tôi tìm hiểu thêm mới biết quê mình là một địa danh nổi tiếng có nhiều đình, chùa ở miền Nam. Có những điều về lịch sử và văn hóa mà tôi chưa hề biết dù đã sống ở đó gần hai mươi năm. Tôi xin được trích dẫn sau đây để những đồng hương Biên Hòa biết thêm về quê hương xứ Bưởi của mình.
Theo Bách Khoa Toàn Thư (Wikipedia) đã nói về Cù Lao Phố như sau:
1.Cù Lao Phố:
Từ thác Trị An chảy ra biển đông, dòng chảy sông Đồng Nai để lại nhiều cù lao lớn nhỏ trong đó ở địa phận Biên Hòa dòng chảy bỗng chia ra làm hai nhánh ôm trọn một dải đất. Đó chính là Cù Lao Phố hay còn gọi là Nông nại Đại Phố- nay là xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa với diện tích 6,93km2.
Sử sách chép : năm 1679, Tổng binh Trần Thượng Xuyên dẫn theo một đoàn người xin cư trú tại việt Nam và được Chúa Nguyễn chấp thuận cho vào đất Đông Phố (nay là Cù Lao Phố) khẩn hoang. Khi đến Cù Lao Phố, Ông đã cùng người dân địa phương xây dựng nơi đây thành thương cảng lớn. Đường xá được mở rộng, phố xá được xây dựng, chợ búa được thành lập, hàng hóa dồi dào, thường xuyên có nhiều tàu ngoại quốc lui tới buôn bán.Trong lịch sử phát triển của mình cù Lao Phố phát triển nhiều ngành nghề như : dệt chiếu, trồng dâu nuôi tằm, nghề gốm, đúc đồng, làm mộc, làm pháo, nấu mía lấy đường.
Thế nhưng cuộc chiến năm 1776 giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh đã tàn phá đi kiến trúc phong quang của Cù Lao phố, nay không còn dấu vết. Thời kỳ hoàng kim của Cù Lao Phố đi vào dĩ vãng, hoàn thành sứ mạng của đô thị cổ, một thương cảng sầm uất nhất phương Nam.
Ngày nay người dân Cù Lao Phố đã biến cải vùng đất này thành vựa lúa lớn của Biên Hòa. Ở Cù Lao Phố hiện nay còn 5 ngôi chùa, 3 tịnh xá, 11 ngôi đình, 3 ngôi miếu. Có thể nói Cù Lao Phố còn tồn tại nhiều dạng hình thức tín ngưỡng, tạo thành một cơ cấu đan xen hòa trộn lẫn nhau.
2. Chùa Đại Giác:
Chùa Đại Giác nằm trên địa phận xã Hiệp Hòa (Cù Lao Phố), là một trong ba ngôi chùa cổ nhất ở Biên Hòa, được công nhận là di tích lịch sử quốc gia. Hai ngôi chùa còn lại là chùa Long Thiền (Nhơn Trạch) và chùa Bửu Phong (Bửu Long). Chùa có kiến trúc hình chữ đinh, diện tích khoảng 1000m2 gồm 3 phần chính: chánh điện, giảng đường và nhà trù.
Chùa Đại Giác được dựng từ khoảng đầu thế kỷ XVII bởi nhà sư Thành Đẳng - một trong số những đệ tử của tổ sư Nguyên Thiều phái Lâm Tế (gốc Quảng Đông -Trung Quốc).
Năm 1779, công chúa thứ ba của vua Gia Long là Nguyễn Thị Ngọc Anh, trên đường chạy loạn quân Tây Sơn đã có thời gian trú ngụ tại chùa. Sau này, khi lên ngôi, Nguyễn Ánh nhớ ơn đã ban chiếu trùng tu và phụng cúng pho tượng A-di-đà lớn bằng gỗ cao 2,56m. Vì vậy nhân dân địa phương còn gọi là chùa Phật Lớn. Đến thời Minh Mạng, chùa tiếp tục được tu sửa. Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh đã cúng một bức hoành phi lớn đề ba chữ "Đại Gíác Tự" treo trước chánh điện.
Năm 1952, do ảnh hưởng lũ lụt, chùa bị xuống cấp nghiêm trọng nên đã được trùng tu lại. Tiếc thay, kết cấu cũ bị sửa đổi ít nhiều, vách ván, cột gỗ đã bị thay thế bằng tường gạch, cột bê tông.
3. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (Đình Bình Kính):
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh thuộc địa phận xã Hiệp Hòa (Cù Lao Phố).
Năm 1768, Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai. Ông đã đặt tên cho đất mới là phủ Gia Định, dựng dinh Trấn Biên, chia phủ ra làm 2 huyện: Phước Long và Gia Định, đặt ra phường, ấp, xã, thôn, lập bộ đinh bộ điền và chiêu mộ lưu dân từ Ngũ Quảng vào Đồng Nai.
Mặt đền nhìn ra sông Đồng Nai theo hướng tây nam, sân đền rộng. Mặt trước đền có gắn đôi rồng chầu pháp làm bằng gốm men xanh, hai bên là cặp lân. Hàng cột mặt tiền đắp rồng cuốn mây có đôi liễn chữ nho khắc chìm vào tuờng.
Người dân Đồng Nai đã xây dựng nhà bia ghi lại lịch sử 300 năm của vùng đất Biên Hòa Đồng Nai trong khuôn viên của đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Ngày 16/05 và ngày 11/01 âm lịch hằng năm, nhân dân địa phương tổ chức tế lễ, cầu cho quốc thái dân an và tưởng nhớ đế công đức to lớn của bậc tiền nhân có công khẩn hoang, xác lập nền hành chính tại vùng đất phương nam.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh là một di tích lịch sử của Cù Lao Phố nói riêng và của miền Nam nói chung.
4. Chùa Ông (Quan Thánh Đế):
Chùa Ông thuộc địa phận xã Hiệp Hòa (Cù Lao Phố), thành phố Biên Hòa, cách đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh chỉ khoảng 100 mét. Trước đây Chùa là Miếu Quan Đế, ngày nay có tên chữ là Thất Phủ Cổ Miếu. Đây là ngôi chùa Hoa sớm nhất ở Nam bộ (khoảng năm 1684).
Chùa Ông được xây dựng theo kiến trúc chữ khẩu. Bên ngoài chùa là cả một công trình độc đáo các tượng gốm men xanh của thợ gốm Cây Mai (Chợ Lớn) về các đề tài như hát bội, hát tuồng, múa hát cung đình, tượng ông Nhật bà Nguyệt...Thêm vào đó, các tạo tác bằng đá ở mặt tiền chùa do thợ đá Bửu Long tạo ra đã tạo nên kiểu thức đặc trưng cho kiến trúc Minh Hương trên vùng đất Biên Hòa.
Là một cơ sở tín ngưỡng, với kiến trúc khá độc đáo, chùa Ông là điểm đến của nhiều du khách gần xa tới tham quan, nghiên cứu, chiêm bái và cầu lộc.
5.Chùa Chúc Thọ (Thủ Huồng):
Nhắc đến các đền, chùa ở Cù Lao Phố, không thể không kể đến một ngôi chùa đặc biệt, nằm cách bên phía tay phải chùa Đại Giác khoảng một trăm thước. Chùa có tên là chùa Chúc Đảo, nay được mang tên là chùa Chúc Thọ; nôm na lại có tên gọi chùa Sau nhưng dân gian vẫn thường gọi là chùa Thủ Huồng. Chùa là một ngôi cổ tự có trên một thế kỷ. Người sáng lập chùa là một nhân vật có thật, tên Võ Thủ Hoàng. Có lẽ vì dân chúng Đàng Trong không dám phạm húy đến tên chúa Nguyễn Hoàng nên tên Thủ Hoàng được gọi trại thành Thủ Huồng? Võ Thủ Hoàng là một thư lại ở đất Đồng Nai vào đầu thời Chúa Nguyễn. Nhờ xử dụng các thủ đoạn xảo trá, Thủ Huồng đã lươn lẹo chiếm đoạt được nhiều tài sản của dân chúng, cho vay nặng lãi v.v...nên đã trở thành bá hộ. Có nhiều huyền thoại được truyền tụng trong dân gian nhưng đại để câu chuyện là Thủ Huồng đã có dịp gặp được một người đi thiếp xuống địa ngục (có chuyện lại kể là chính ông đã được dịp đó) và thấy ở dưới đang có sẳn một gông lớn dành cho Thủ Huồng! Thủ Huồng đã ăn năn hối cải, đem của bố thí cho người nghèo, bán ruộng vườn để cúng dường chùa chiền, giúp đở thôn xóm. Ông đã dùng gia sản dựng lên chùa Chúc Đảo ở Cù Lao Phố, thiết lập một chiếc bè lớn có đầy đủ nồi niêu, gạo, mắm cho ghe thuyền lỡ độ đường ngược nước có chỗ nghỉ ngơi ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Ngã ba có chiếc bè của Thủ Huồng đến nay vẫn còn được gọi là Ngã ba Nhà Bè, một địa danh đã đi vào lịch sử
với câu hò:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Đường về xứ bạn không xa
Qua vùng Đất Đỏ rồi ra Biên Hòa
(Tiếng Hò Miền Nam - Nhạc Phạm Duy)
Dù sống ở đất Mỹ xa xôi, cách quê hương Việt Nam nửa vòng trái đất và dù thời gian cứ dần trôi qua, Cù Lao Phố quê tôi với những kỷ niệm của một thời hoa mộng sẽ ở mãi trong trái tim của ngườixa xứ để thỉnh thoảng lại hiện về với niềm thương nhớ khôn nguôi:
Cố hương yêu dấu nỗi nhớ mong
Mảnh đất Cù Lao với dòng sông
Chỉ cần nhắm mắt trong khoảnh khắc
Kỷ niệm xa xưa chứa ngập lòng...
(hatbinhphuong)
Tôi hãnh diện đã được sống nơi đây cả một thời niên thiếu với nhiều kỷ niệm gắn liền với Cù Lao Phố - một địa danh lịch sử nổi tiếng của miền Nam - và sẽ kể cho các con cháu biết để tự hào về nơi quê cha đất tổ. Mong rằng có dịp nào đó, các thế hệ trẻ nối tiếp của người Biên Hòa tha hương sẽ được về thăm xứ bưởi Biên Hòa, nếm hương vị ngọt ngào thơm tho của bưởi ổi, bưởi thanh, bưởi đường, bưởi da láng…và ngửi mùi hoa bưởi thơm ngan ngát trong nắng sớm mai cũng như ngắm dòng nước của sông Đồng Nai mang những cụm lục bình tím lượn lờ trôi…
Hát Bình Phương