Văn Thơ Pháp Cú kệ.IV
Học Pháp để tự rèn luyện thân tâm.
XXI.- Phẩm Tạp-lục
Chính nhờ từ bỏ dục-lạc nhỏ,
Mà ta tìm thấy phước-lạc to.
Thú vui nhỏ-nhặt, người hiền bỏ,
Phước lớn Niết-Bàn, cố tìm lo.
(Kệ số 290.)
Ai gieo đau-khổ cho người,
Để tìm hạnh-phước vui-tươi cho mình;
Kẻ ấy bị hận-tình ràng-buộc
Biết bao giờ thoát được oán-thù.
(Kệ số 291.)
Chẳng làm điều đáng làm,
Chẳng nên làm, lại làm.
Thiếu tỉnh-giác, kiêu-căng,
Lậu-hoặc ắt gia-tăng.
(Kệ số 292.)
Năng quán thân bất-tịnh,
Siêng làm điều đáng làm,
Tránh điều chẳng nên làm,
Thông-suốt và giác-tỉnh,
Lậu-hoặc ắt tiêu-trừ.
(Kệ số 293.)
Giết cha NGÃ-MẠN, mẹ ÁI-DỤC,
Diệt ĐOẠN-KIẾN,THƯỜNG-KIẾN hai vua,
Tổng-Tài ÁI-LUYẾN vừa thu-phục,
Vương-quốc MƯỜI HAI XỨ đánh thua,
Phạm-Chí ra đi chẳng sầu-muộn.
(Kệ số 294.)
Giết cha, giết mẹ vừa xong,
Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn.
Ngũ hổ-tướng NGHI-NAN diệt hẳn,
Phạm-Chí ra đi chẳng ưu-phiền.
(Kệ số 295.)
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công-đức Phật-đà luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 296.)
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công đức Chánh-pháp luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 297.)
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công-đức Tăng-già luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 298.)
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần tinh-tấn,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Sắc-thân bất-tịnh luôn tưởng-quán.
(Kệ số 299.)
Chuyên-cần tinh-tấn, hằng tỉnh-giác,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Luôn vui với đức vô-hại-tác.
(Kệ số 300.)
Chuyên-cần tinh-tấn, hằng giác-tỉnh,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Luôn vui thoả-thích tu thiền-định.
(Kệ số 301)
Rời khỏi nhà, đi tu là khó,
Vui hạnh tỳ-kheo, khó lắm thay!
Chủ gia-đình hằng ngày chịu khổ;
Gần người chẳng hợp, khổ nào tày?
Luân-hồi trôi lặn đắng cay,
Chớ theo khổ, phải dứt ngay Luân-hồi.
(Kệ số 302.)
Niềm tin đủ, vẹn-toàn giới-hạnh,
Danh-tiếng cao, tài-sản dồi-dào,
Dù cho đi đến nơi nào,
Vị nầy cũng được kính chào, tôn-vinh.
(Kệ số 303.)
Người lành dầu ở thật xa,
Sáng lồ-lộ giống như toà Tuyết-sơn.
Chẳng ai nhìn kẻ ác, gần hơn,
Như mũi tên bay trong đêm tối.
(Kệ số 304.)
Ngồi một mình, nằm cũng một mình,
Đi một mình, lòng không buồn chán.
Tự mình điều-phục chính mình,
Sống vui thoải-mái cảnh rừng xanh.
(Kệ số 305.)
XXII.- Phẩm ĐỊA-NGỤC.
Người nói dối phải sa địa-ngục,
Kẻ làm ác, chối: "chẳng có làm",
Cả hai bị địa-ngục giam,
Ác-nghiệp đã làm, đồng khổ kiếp sau.
(Kệ số 306.)
Nhiều người khoác áo cà-sa,
Tâm chưa nhiếp-phục, ác-tà nhiễm-ô.
Vì nghiệp dữ đẩy xô vào điạ-ngục,
Cảnh khổ nầy do ác-hạnh sanh ra.
(Kệ số 307.)
Thà nuốt hòn-sắt đỏ lửa hồng,
Hơn ăn vật-thực được cúng-dường,
Nếu chưa giữ được tròn giới-hạnh:
Nghĩ, nói, làm, xấu cả ba đường.
(Kệ số 308.)
Bốn điều bất-hạnh đang chờ-chực
Kẻ dể-duôi dâm-dật vợ người:
Mang tai-hoạ, ngủ đâu yên giấc,
Ba: bị trách; bốn: sa điạ-ngục.
(Kệ số 309.)
Mang tai-hoạ, phải đọa vào đường dữ,
Vui phút giây, đôi dâm-đãng phập-phồng;
Vua lại ban-hành cực-hình xét-xử.
Vậy, đừng phạm tiết những ai có chồng.
(Kệ số 310.)
Ai vụng nắm cỏ kusa,
Bàn tay bị cỏ cắt đứt.
Cùng thế ấy, đã xuất-gia
Hạnh Sa-môn mà lơ-là
Ắt phải sa điạ-ngục.
(Kệ số 311.)
Một hành-động làm cho có lệ,
Giữ giới-đức bị ô-nhiễm tệ,
Sống Phạm-hạnh một cách khả-nghi,
Chứng được quả cao, đâu có lẽ!
(Kệ số 312.)
Có điều cần phải làm, làm ngay,
Làm hăng say, làm hết năng-lực.
Sống cuộc đời tu-sĩ phóng-dật,
Chỉ làm tăng cát bụi tung bay.
(Kệ số 313.)
Việc ác, tốt hơn, nên bỏ dứt,
Trót làm sanh ray-rứt trong lòng.
Việc thiện, tốt hơn, làm lập-tức,
Chẳng hề hối-tiếc khi làm xong.
(Kệ số 314.)
Canh-phòng cửa ải ngoài biên-giới,
Phải canh cả trong thành ngoài ải.
Tự phòng-vệ mình, nào có khác.
Gặp dịp tốt học Pháp, chớ bỏ qua,
Lỡ dịp, đau buồn khi sa cõi ác.
(Kệ số 315.)
Chẳng đáng hổ-ngươi mà lại thẹn,
Việc đáng thẹn mà lại trơ-trẻn.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm-ấp
Sẽ đoạ vào cõi thấp, khi tái-sanh.
(Kệ số 316.)
Chẳng đáng sợ mà lại hãi-hùng,
Việc đáng ghê mà lại dửng-dưng.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm-ấp,
Sẽ đoạ vào cõi thấp, khi tái-sanh.
(Kệ số 317.)
Chẳng sái-quấy lại bảo là sai,
Việc lỗi-lầm, lại bảo đúng ngay.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm giữ
Sẽ sa vào cõi dữ, khi tái-sanh.
(Kệ số 318.)
Sai, bảo là sai.
Phải, bảo là phải.
Ai biết giữ chánh-kiến nầy
Vào cõi lành, khi sanh lại.
(Kệ số 319.)
XXIII.- Phẩm VOI.
Như voi chiến xông ngoài trận-mạc,
Hứng lằn tên, mũi đạn tơi-bời,
Như-Lai chịu phỉ-báng mọi lời
Của những người vẫn còn đức bạc.
(Kệ số 320.)
Voi, ngựa thuần mới đem dự hội.
Con nào nhuần-nhã được Vua cởi.
Quí nhứt, người đã luyện tinh-thông
Nhẫn-nhịn chịu mọi lời chửi-bới.
(Kệ số 321.)
Ngựa rặc giống, la con thuần nết,
Đại-tượng ngà dài, đều quí hết.
Nhưng tối-thượng lại chính là người
Trang-nghiêm giới-đức, tự điều-tiết.
(Kệ số 322.)
Chẳng phải cởi voi, ngựa ấy lên đàng,
Mà ta đến được Niết-bàn vô-sanh.
Chỉ có người tự-ngã khắc-phục
Đến được mục-tiêu, nhờ thuần-thục.
(Kệ số 323.)
Voi tên Tài-Hộ rất hung-hăng,
Khi phát-dục tiết mùi hôi-thối,
Bị bắt nhốt, chẳng chịu uống ăn,
Tưởng nhớ rừng voi, hằng mong-mỏi.
(Kệ số 324.)
Người khờ lười-biếng, tham ăn
Vật-vờ, vất-vưởng, nằm lăn cả ngày.
Giống như con lợn mập thây,
Luân-hồi phải chịu, biết ngày nào ra.
(Kệ số 325.)
Ngày trước, tâm lang-thang, lêu-lổng,
Đuổi theo thú-vui cùng dục-vọng.
Ngày nay, bằng chánh-niệm, kềm tâm
Như quản-tượng tay cầm móc dạy voi.
(Kệ số 326.)
Trong chánh-niệm, hãy tìm thích-thú,
Tâm-ý nên hết lòng phòng-thủ.
Như voi sa lầy cố rút chơn ra,
Hãy tự kéo khỏi vũng sình kết-sử.
(Kệ số 327.)
Nếu gặp người hiền-trí hạnh lành,
Thích-hợp nhau làm bạn đồng-hành,
Hãy sống chung vui và giác-tỉnh,
Mọi hiểm-nguy sẽ vượt an-lành.
(Kệ số 328.)
Nếu chẳng gặp người đạo-đức cao,
Trí-huệ nhiều đáng kết thâm-giao,
Thà như Vua bỏ nước vừa chinh-phục,
Như voi giữa rừng, hãy sống lẻ-loi.
(Kệ số 329.)
Chẳng thà phải sống cô-đơn
Còn hơn kết bạn với phường người ngu.
Chẳng lo-âu, khước-từ ác-hạnh,
Sống thong-dong như cảnh voi rừng.
(Kệ số 330.)
Vui thay, gặp bạn khi cần!
Vui thay, biết đủ với ngần nầy đây!
Vui thay, thiện-nghiệp dầy khi chết!
Vui thay đau khổ diệt-trừ xong!
(Kệ số 331.)
Vui thay, phụng-dưỡng mẹ già!
Vui thay, hiếu-kính với cha trên đời!
Vui thay, phục-vụ Sa-môn!
Vui thay, thừa sự Thánh-nhơn ra đời!
(Kệ số 332.)
Vui thay, giữ giới tới già!
Vui thay, tín-niệm rất là bền lâu!
Vui thay thành-đạt trí mầu!
Vui thay ác-hạnh từ lâu khước-từ!
(Kệ số 333.)
XXIV.- Phẩm THAM-ÁI.
Nơi người sống cuộc đời phóng-dật,
Như dây leo, ái-dục tăng nhanh.
Nhảy từ đời nầy sang đến đời khác,
Như khỉ rừng ham trái cứ chuyền cành.
(Kệ số 334.)
Trên đời, người bị ngập tràn,
Lòng tham khát-ái buộc ràng khít-khao.
Ái-dục tăng mau như đám cỏ,
Gặp được mưa rào mọc tràn lan.
(Kệ số 335.)
Trên đời, người khắc-phục xong
Bụng tham khát-ái khó hòng diệt tiêu.
Ưu-sầu, phiền-muộn đều xa lánh
Như nước rơi trên cánh lá sen.
(Kệ số 336.)
Đây, điều lành Như-Lai chỉ-dạy
Cho mọi người họp tại nơi đây.
Hãy đào ái-dục ngay tận rễ
Như ngườì bứng xới rễ cỏ thơm.
Chớ để Ma-vương sớm hôm theo phá
Như giòng nước lũ ngập cả bụi lau.
(Kệ số 337.)
Như cây đốn còn gốc bền, rễ cứng
Sẽ đâm chồi mọc lại vững như xưa,
Gốc ái-dục tuỳ-miên chưa nhổ bứng,
Khổ "sanh-già-chết" cứ mãi dây-dưa.
(Kệ số 338.)
Băm-sáu dòng "ái-dục" cuồn-cuộn chảy,
Đẩy mạnh người mê vào lạc-thú.
Tư-tưởng ái-tham vùng nổi dậy,
Lôi cuốn người tà-kiến như cơn lũ.
(Kệ số 339.)
Dòng "ái-dục" chảy tràn khắp chốn
Khiến dây leo bám chặt, đâm chồi.
Thấy rõ dây leo bò lổn-ngổn,
Với "dao" trí, đoạn hết gốc ngọn.
(Kệ số 340.)
Trong chúng-sanh, niềm vui cuộn chảy
Từ lục-trần, bị ái-dục nhuốm dơ.
Cầu hạnh-phước, nhưng dục-lạc mê-mờ,
Cảnh sanh-già nên mới chịu lấy.
(Kệ số 341.)
Ái-dục bao-vây, người vùng-vẫy
Như thỏ mắc lưới nhảy loanh-quanh.
Hễ còn bị ái-dục hành,
Là còn đau-khổ tử-sanh lâu dài.
(Kệ số 342.)
Ái-dục bao vây, người vùng-vẫy
Như thỏ mắc lưới, nhảy loanh-quanh.
Ly-dục, tỳ-kheo muốn đạt thành
Ái-dục, phải mau nhiếp-phục vậy.
(Kệ số 343.)
Lìa rừng ‘ái’, hướng đến rừng ‘tu’
Bỏ rừng ‘tu’, trở lại nhà nầy.
Xuất-gia hoàn-tục xem đây,
Như người cổi trói lấy dây buộc mình.
(Kệ số 344.)
Xiềng bằng sắt, bằng gỗ, bằng gai,
Người trí bảo, chưa dai, chưa bền.
Luyến-lưu con thảo, vợ hiền,
Ngọc-ngà, trang-sức là xiềng chặt hơn.
(Kệ số 345.)
Ràng-buộc đó thật bền, người trí bảo,
Tuy mềm, nhưng trì nặng, thật khó tháo.
Bực hiền-trí dứt xong bao kiềm-toả,
Dục-lạc khước-từ, thoát khổ thế-gian.
(Kệ số 346.)
Người mê dục-lạc rơi trở vào dòng,
Như nhện chăng tơ lọt vào lưới nó.
Bực hiền-trí, ái-tham đều cắt bỏ,
Thoát mọi ưu-phiền, cất bước thong-dong.
(Kệ số 347.)
Dĩ-vãng bỏ qua,
Tương-lai chẳng ngại,
Hiện-tại chẳng màng.
Bờ bên kia dòng sanh-tử, vượt sang,
Trí thanh-tịnh, cùng với tâm tự-tại,
Cảnh Luân-hồi sanh-lão, chẳng trở lại.
(Kệ số 348.)
Người bị ý chẳng lành kích-thích,
Ái-tham nhiều, thấy sắc mê-tít;
Ái-dục nơi người càng gia-tăng,
Ma-vương trói buộc thêm chằng-chịt.
(Kệ số 349.)
Người dẹp ý chẳng lành an-định,
Tỉnh-giác, thường quán thân bất-tịnh,
Ái-dục nơi người bỏ dứt xong,
Ma-vương muốn trói, đừng có hòng.
(Kệ số 350.)
Mục-tiêu cứu-cánh, người đã chiếm,
Hết sợ, ly-tham, chẳng ô-nhiễm,
Nhổ mũi tên sanh-tử độc-hiểm,
Thân nầy là thân chót Luân-hồi.
(Kệ số 351.)
Lià ái-dục, chẳng hề chấp-thủ,
Biện-tài vô-ngại đủ bốn thứ:
Nghĩa, pháp, từ, thuyết có thứ-tự;
Thân nầy là thân chót Luân-hồi,
Vị ấy là Đại-trí vĩ-nhơn.
(Kệ số 352.)
Ta chinh-phục, làu-thông tất cả,
Dứt trói buộc, ta đã thoát-ly,
Lậu-hoặc, ái-dục, ta còn gì?
Tự ta, ta được thắng-trí cao,
Ta còn gọi ai là Thầy ta sao?
(Kệ số 353.)
Pháp-thí quí hơn mọi bố-thí,
Pháp-vị thắng hơn mọi hương-vị,
Pháp-hỉ vui hơn mọi hoan-hỉ,
Ái-tận vượt khỏi mọi đau-khổ.
(Kệ số 354.)
Tiền-tài làm hỏng người ngu,
Hại chi được đến người tu Niết-bàn,
Kẻ cuồng-dại hám giàu-sang,
Hại mình mà cũng hại lan đến người.
(Kệ số 355.)
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Tham-lam làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-tham, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 356.)
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Hận sân làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-sân, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 357.)
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Si-mê làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-si, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 358.)
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Dục-tham làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người ly-dục, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 359.)
XXV.- Phẩm TỲ-KHEO.
Mắt đây, chế-phục, lành thay!
Lành thay biết chế-ngự hai tai nầy!
Khéo điều-phục mũi, lành thay!
Lành thay, nhiếp-phục lưỡi nầy cho yên!
(Kệ số 360.)
Lành thay, chế-phục thân-hành!
Tiết-chế khẩu-nghiệp đã rành, lành thay!
Lành thay, ý-nghiệp tịnh ngay!
Chế-phục tất cả đủ-đầy, lành thay!
Mọi điều tự-chế khéo, hay,
Tỳ-kheo giải-thoát được ngay khổ-sầu.
(Kệ số 361.)
Người chế-phục tay chơn, lời nói,
Tận đỉnh đầu trên cao vòi-vọi,
Lòng thoả-thích trong cơn thiền-định,
Biết đủ, sống độc-cư, trầm-tĩnh,
Người ấy xứng danh là tỳ-kheo.
(Kệ số 362.)
Tỳ-kheo đã chế-phục miệng lưỡi,
Khiêm-nhường, khéo nói, chẳng thừa lời,
Giải-thích rõ nghĩa Pháp sáng ngời,
Ngọt-ngào thay, lời nói Tỳ-kheo!
(Kệ số 363.)
Tỳ-kheo nào trú trong Chánh-pháp.
Thoả-thích suy-tư theo Chánh-pháp,
Tâm-niệm hằng tưởng nhớ Chánh-pháp,
Ắt chẳng sa-đọa lìa Chánh-pháp.
(Kệ số 364.)
Chẳng khinh-rẻ những gì mình lãnh-thọ,
Chẳng hờn-ganh kẻ khác được người cho.
Tỳ-kheo còn ganh hiền ghét ngỏ,
Hành thiền, chẳng đắc định bao giờ.
(Kệ số 365.)
Tuy nhận ít mà chẳng hề chê,
Sống thanh-tịnh đúng bề Chánh-mạng,
Chẳng lười-nhác nên được lời xưng-tán
Của Chư Thiên gởi đến vị Tỳ-kheo.
(Kệ số 366.)
Đối với thân-tâm là danh-sắc,
‘Ta’ và ‘của Ta’ chẳng thắc-mắc,
Chẳng lo-âu những gì chưa đắc,
Đó mới xứng danh là Tỳ-kheo.
(Kệ số 367.)
Tỳ-kheo, tâm từ-bi an trú,
Tín-thành hành giáo-pháp Phật-đà;
Cảnh tịch-tĩnh Niết-bàn thành-tựu,
Các hành hữu-lậu được an-hoà.
(Kệ số 368.)
Thuyền rỗng-không nầy ví tấm thân,
Tỳ-kheo mau tát cho khô nước,
Hãy dập tắt ngay lửa tham-sân,
Thuyền nhẹ đi nhanh đến Niết-bàn.
(Kệ số 369.)
Cắt đứt NĂM là ngũ độn-sử,
Dứt bỏ NĂM là ngũ lợi-sử,
Trau-dồi NĂM là ngũ-lực,
Vượt khỏi NĂM là ngũ phược,
Đó gọi là bực "Vượt Bộc-lưu" .
(Kệ số 370.)
Tỳ-kheo, hãy hành thiền tinh-tấn,
Chớ thả tâm quanh-quẩn thú vui.
Phóng-dật, nuốt hòn sắt nóng đỏ,
Lửa điạ-ngục thiêu, chớ than khổ!
(Kệ số 371.)
Chẳng có định-tâm nơi người thiếu trí,
Chẳng có trí nơi kẻ thiếu định-tâm.
Vị nào được cả hai: định, huệ,
Vị ấy kề bên bệ Niết-bàn.
(Kệ số 372.)
Tỳ-kheo đến ẩn nơi vắng-vẻ,
Tâm-tư thường lặng-lẽ an-nhiên.
Chứng thông Giáo-pháp hành thiền,
Hưởng nguồn phỉ-lạc siêu-nhiên thoát trần.
(Kệ số 373.)
Mỗi khi quán-tưởng và thấu rõ
Các uẩn khởi-sanh rồi hoại-diệt,
Phỉ và lạc, tỳ-kheo hưởng-thọ,
Chỉ bực Bất-tử mới được biết.
(Kệ số 374.)
Đây là chỗ bắt đầu nỗ-lực,
Tỳ-kheo có trí, biết tri-túc,
Các giác-quan đều được thu-thúc,
Giới-luật căn-bản luôn nghiêm-trì.
(Kệ số 375.)
Bạn hiền gần-gũi khéo kết thân,
Đúng chánh-mạng, cử chỉ đoan-trang,
Do đó, thấm-nhuần trong phỉ-lạc,
Phiền-não sớm dứt, hướng Niết-bàn.
(Kệ số 376.)
Như cây lài rủ bỏ hoa tàn-héo,
Tỳ-kheo, nên khéo trút sạch tham-sân.
(Kệ số 377.)
Thân an-tịnh, lời cùng an-tịnh,
Ý an-tịnh, tâm thường giác-tỉnh.
Mọi thế-sự, tỳ-kheo dẹp qua,
Mới xứng danh là "Bực tịch-tịnh"
(Kệ số 378.)
Tỳ-kheo, hãy tự kiểm-thảo mình,
Tự mình phòng-hộ và dò soát.
Tâm-tư hằng tỉnh-giác,
Cuộc sống được an-lành.
(Kệ số 379.)
Mình là nơi mình đang nương-tựa,
Ta đi tìm ẩn-trú nơi ta.
Thế nên tự-chế, chớ lơ-là,
Như khách thương luyện thuần bầy ngựa.
(Kệ số 380.)
Tỳ-kheo thường hân-hoan dào-dạt,
Vững niềm tin giáo-pháp Phật-đà.
Cảnh-giới tịch-tịnh sớm chứng qua,
Các hành hữu-lậu được tịnh-lạc.
(Kệ số 381.)
Tỳ-kheo dẫu tuổi đời còn trẻ,
Siêng tu theo pháp Phật hằng ngày,
Sáng soi rực-rỡ thế-gian nầy,
Như vầng trăng vừa thoát khỏi mây.
(Kệ số 382.)
XXVI.- Phẩm BÀ-LA-MÔN.
Nầy Bà-la-môn,
Hãy tinh-tấn đoạn dòng áí-dục,
Thú vui vật-chất nên lià bỏ,
Các hành hoại-diệt đà thấu rõ,
Hãy làm người chứng-đắc vô-vi.
(Kệ số 383.)
Khi an-trú hai pháp: Chỉ, Quán,
Bà-la-môn đạt tới bỉ-ngạn.
Đối với "người thông-suốt" nầy,
Mọi kết-sử đều đoạn-tận.
(Kệ số 384.)
Người chẳng chấp bờ nầy, bờ nọ,
Cả hai bờ chẳng chấp có, không.
Thoát-ly phiền-não, hết trói buộc,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 385.)
Người hành Thiền, ẩn-cư, vô-nhiễm,
Thoát-ly lậu-hoặc, nhiệm-vụ xong,
Thành-đạt được mục-đích tối-tôn,
Như -Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 386.)
Ban ngày mặt trời chiếu sáng,
Ban đêm ánh trăng tỏ rạng.
Khí-giới chói loà Sát-đế-lỵ,
Đắc thiền-định sáng nơi Phạm-chí.
Chỉ riêng đức Phật chiếu hào-quang
Rạng-rỡ đêm ngày khắp thế-gian.
(Kệ số 387.)
Lìa ác-nghiệp là Bà-la-môn.
Sống trong an-tịnh là Sa-môn.
Tự mình dứt bỏ mọi ô-nhiễm
Nên được gọi là bực xuất-gia.
(Kệ số 388.)
Chớ nên đánh-đập vị Phạm-chí.
Bị đập, Phạm-chí chớ trả thù.
Xấu-hổ thay, ai đập Phạm-chí!
Xấu-hổ hơn, Phạm-chí trả thù!
(Kệ số 389.)
Đối với người được gọi là Phạm-chí,
Lợi chẳng nhỏ, nếu bỏ ý trả thù.
Đến mức nào, tâm tác-hại bị chận,
Đến chừng ấy, tiêu-trừ xong khổ-hận.
(Kệ số 390)
Với người, ác-nghiệp chẳng tạo nhơn,
Bằng thân, bằng miệng hay bằng ý,
Tự điều-phục trong ba đường ấy,
Như-lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 391.)
Trước nhờ ai chỉ ta vào cửa
Hiểu sâu Chánh-pháp Như-Lai dạy.
Hãy trang-trọng kính-lễ người ấy,
Như Bà-la-môn thờ thần lửa.
(Kệ số 392.)
Đâu vì giai-cấp, họ-hàng, tóc bện,
Mà được trở thành bực Bà-la-môn.
Chỉ ai CHÂN, CHÁNH, TINH đủ trọn-vẹn
Người ấy quả thật là Bà-la-môn.
(Kệ số 393.)
Ngu ơi! Bện tóc có ích gì?
Mặc áo da dê được lợi chi?
Nội-tâm phiền-não còn rối-rắm,
Sao cố điểm tô ở ngoại-vi?
(Kệ số 394.)
Người mặc áo phấn-tảo,
Da lộ gân, thân gầy,
Cô-độc hành-thiền giữa rừng cây,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 395.)
Như-Lai chẳng gọi là Bà-la-môn
Kẻ từ bụng mẹ Phạm-chí sanh ra,
Nếu tâm còn phiền-não
Chỉ đáng gọi "mầy tao".
Người thoát-ly luyến-ái và phiền-não,
Như-Lai mới bảo là Bà-la-môn.
(Kệ số 396.)
Người đã cắt đứt mọi kết-sử,
Chẳng còn sợ-hãi, chẳng đắm-trước,
Thoát khỏi tất cả mọi ràng-buộc,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 397.)
Bỏ đai da"sân", cắt cương "ái-mộ";
Chặt dây "tà-kiến", phụ-tùng "tùy-miên".
Phá chốt "vô-minh", đã giác-ngộ,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 398.)
Chẳng sân-hận, nhận lời trách-móc,
Cam chịu cực-hình và roi-vọt
Lấy nhẫn làm sức mạnh ba quân,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 399.)
Chẳng sân-hận, làm tròn bổn-phận.
Giới-hạnh trang-nghiêm, tham-ái tận,
Căn nhiếp-phục, thân nầy là chót,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 400.)
Như nước đổ trên lá sen,
Như hột cải trên đầu kim,
Người dục-lạc chẳng ố-hoen,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 401.)
Ai ngay tại cõi đời nầy,
Chứng-tri đau-khổ mảy-may chẳng còn,
Siêu-thoát, bên đường buông gánh nặng,
Như-lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 402.)
Người có trí, kiến-thức sâu xa,
Phân-biệt rành đường chánh nẻo tà,
Thành-đạt được mục-tiêu tối-thượng,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 403.)
Chẳng thân-thiết quá với cả hai:
Kẻ tại-gia, như hàng tăng-lữ;
Thiểu-dục, độc-thân, đi đó đây,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 404.)
Kẻ nào đao trượng đã từ-khước,
Đối mọi chúng-sanh cường hay nhược,
Chẳng hề giết, chẳng hề bảo giết,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn
(Kệ số 405.)
Thân-thiện giữa những người thù-nghịch,
Ôn-hoà giữa bọn địch hung-hăng,
Vô-nhiễm giữa những ai hằng đắm-chấp,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 406.)
Người chẳng còn chi bám dính nổi,
Tham, sân, kiêu-mạn, tị, hiềm,
Cũng như hột cải rơi khỏi đầu kim,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 407.)
Người nói lời hoà-nhã, êm tai,
Lời xây-dựng, cùng lời chơn-thật,
Chẳng bao giờ nói mích lòng ai,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 408.)
Người chẳng lấy của chửa được cho,
Dầu đó là vật nhỏ hay to,
Dài hay ngắn, hoặc thô, hoặc đẹp,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 409.)
Bất cứ điều gì, người chẳng tham-cầu,
Trong đời nầy hay vào các đời sau,
Dứt tham-ái, nên được giải-thoát,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 410.)
Người lìa tham-ái, tri-kiến đủ,
Ngộ Chơn-lý, chẳng chút nghi-nan,
Chứng cảnh-giới Bất-tử Niết-Bàn,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 411.)
Đời nầy, kẻ vượt thoát ràng-buộc,
Của cả hai điều thiện và ác,
Chẳng sầu, thanh-tịnh và giải-thoát,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 412.)
Người nào như vầng trăng thanh-tịnh,
Rạng-rỡ, trắng trong và trầm-tĩnh,
Luyến-ái vào hiện-hữu dứt xong,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 413.)
Người thoát khỏi vũng lầy ‘tham-ái’,
Trải qua đường ‘phiền-não’ hiểm-nguy,
Vượt trùng-dương ‘Luân-hồi’ mê tối,
Sang đến bờ ‘thiền-định’, dứt nghi,
Tịch-tĩnh, chẳng bấu-víu điều chi,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 414.)
Ai đời nầy dục-lạc lià bỏ,
Rời gia-đình theo ngõ xuất-gia,
Dục-ái, hữu-ái đà đoạn-tận,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 415.)
Ai đời nầy, khát-ái lià bỏ
Rời gia-đình, theo ngõ xuất-gia,
Dục-ái, hữu-ái đà đoạn-tận
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 416.)
Người tách khỏi ràng-buộc cõi người,
Vượt lên trên câu-thúc cõi Trời,
Thoát-ly mọi hệ-lụy
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 417.)
Người đã bỏ điều thích, điều phiền,
Kiên-trì, chẳng ô-nhiễm, thản-nhiên,
Khắc-phục xong thế-giới ‘năm uẩn’,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 418.)
Người khéo vượt qua, hiểu triệt-để
Lẽ sống chết của mọi chúng-sanh,
Vô-nhiễm, giác-ngộ Tứ-diệu-đế,
Như-lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 419.)
Bực mà người, Trời, Càn-thát-bà,
Chỗ thọ-sanh, chẳng tìm ra được,
Lậu-hoặc-tận, chứng A-la-hán,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 420.)
Người chẳng hề bám-víu vào chi
Trong quá-khứ, vị-lai, hiện-tại,
Chẳng nắm giữ, vì chẳng có gì,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 421.)
Bực ngưu-vương chẳng hề úy-kỵ,
Bực đại-sĩ anh-hùng cao-quí,
Bực chiến-thắng, chẳng hề nhiễm-ô,
Bực tẩy-tịnh, bực đại-giác-ngộ,
Như-lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 422.)
Bực Thánh biết cả quá-khứ mình,
Thấy cảnh Trời, cùng các đoạ-xứ,
Ngay đời nầy, chấm dứt sanh-tử,
Với thắng-trí tự mình cải-tiến,
Hoàn-tất đạo-quả được viên-thành,
Như-Lai gọi là Bà-la-môn.
(Kệ số 423.)
XXI.- Phẩm Tạp-lục
Nếu niềm vui nhỏ buông đi
Đón về hạnh phúc trăm bề lớn hơn,
Người khôn vui nhỏ chẳng vương
Đón niềm vui lớn ngát hương tâm hồn.290
Gieo đau gieo khổ cho người
Để mong cầu được niềm vui cho mình
Sẽ gây oán hận thật tình
Không sao thoát khỏi quẩn quanh hận thù.291
Việc nên làm lại không làm
Đi làm những việc không cần thiết chi
Những người phóng túng kiêu kỳ
Não phiền, tội lỗi ắt thì gia tăng.292
Những người cần mẫn siêng năng
Thường lo quán sát kỹ càng bản thân
Không làm những việc chẳng cần,
Việc cần cố gắng chu toàn cho xong
Suy tư, sáng suốt, tinh khôn
Não phiền, tội lỗi không còn vương mang.293
Trừ mẹ ái dục cho mau,
Trừ cha kiêu ngạo, tự hào, khoe khoang,
Trừ hai Vua nọ kiêu căng
Tham vọng, hiếu chiến, ý càng lầm sai
Chẳng tin nhân quả, luân hồi
Khó mà giải thoát, muôn đời hại dân,
Trừ thêm vương quốc kia luôn
Hạ mười hai xứ: sáu trần, sáu căn
Tự mình làm chủ giác quan
Tạo ra an lạc thân tâm bội phần,
Trừ luôn cả vị đại thần
Bo bo gìn giữ kho tàng quốc vương
Khác gì một kẻ lầm đường
Ham mùi luyến ái, vấn vương cuộc đời
Trừ xong mọi việc trên rồi
Vị A La Hán thảnh thơi cõi lòng
Ra đi, sầu muộn chẳng còn.294
Trừ mẹ ái dục cho mau,
Trừ cha kiêu ngạo, tự hào luôn luôn,
Trừ hai Vua Bà La Môn
Luôn mang tư tưởng sai lầm mãi thôi
Chẳng tin nhân quả luân hồi
Khó mà giải thoát, muôn đời ngu si
Trừ con đường nọ hiểm nguy
Giăng năm chướng ngại ngăn che mắt trần
Giống năm vị tướng dữ dằn
Hoài nghi là tướng đứng hàng thứ năm,
Trừ xong mọi việc khó khăn
Vị A La Hán thênh thang cõi lòng
Ra đi, sầu muộn chẳng còn.295
Những người đệ tử Phật Đà
Đêm ngày tỉnh giác để mà nghĩ suy
Nghĩ về Đức Phật từ bi
Một lòng tưởng niệm sớm khuya chuyên cần.296
Những người đệ tử Phật Đà
Đêm ngày tỉnh giác để mà nghĩ suy
Nghĩ về Chánh Pháp từ bi
Một lòng tưởng niệm sớm khuya chuyên cần.297
Những người đệ tử Phật Đà
Đêm ngày tỉnh giác để mà nghĩ suy
Nghĩ về Giáo Hội từ bi
Chư Tăng hòa hợp sớm khuya tu hành.298
Những người đệ tử Phật Đà
Đêm ngày tỉnh giác để mà nghĩ suy
Sắc thân bất tịnh kể chi
Nên tìm hiểu rõ mọi bề cho mau.299
Những người đệ tử Phật Đà
Đêm ngày tỉnh giác để mà nghĩ suy
Về niềm vui lớn kể chi:
Chớ gây tổn hại chút gì cho ai.300
Những người đệ tử Phật Đà
Đêm ngày tỉnh giác để mà nghĩ suy
Về niềm vui lớn kể chi:
Lo tu thiền định sớm khuya chuyên cần.301
Khó thay diệt ái dục rồi
Để mà vui sống cuộc đời xuất gia,
Khó thay cuộc sống tại nhà
Trần gian sinh hoạt thật là thương đau,
Khổ thay phải sống gần nhau
Khi không ý hợp tâm đầu êm xuôi,
Khổ thay cứ mãi nổi trôi
Trong vòng sinh tử luân hồi quẩn quanh,
Vậy lo vượt thoát cho nhanh
Khổ đau nơi ấy, tử sinh chốn này.302
Tâm ai tràn ngập niềm tin
Lại thêm giới hạnh giữ gìn thanh cao
Có thêm tài đức dồi dào
Đi đâu cũng được đón chào tôn vinh.303
Người lành dầu ở chốn xa
Vẫn luôn tỏ rạng như là núi cao,
Còn như người ác lạ sao
Dù cho kề cận ai nào thấy đâu
Như tên bắn giữa đêm thâu.304
Một mình đi đứng nằm ngồi
Chẳng hề buồn chán sống nơi âm thầm
Tự mình điều phục thân tâm
Dù trong rừng vắng muôn phần sống vui.305
XXII.- Phẩm ĐỊA-NGỤC.
Nói lời xảo trá dối gian,
Làm rồi lại chối không làm, không hay
Ai mà tạo những nghiệp này
Chết vào địa ngục đọa đày tránh đâu
Làm người ty tiện dài lâu.306
Dù cho mặc lắm cà sa
Nhưng mà hạnh ác, gian tà chẳng ngăn
Sau vì nghiệp ác mình làm
Chết vào địa ngục gian nan đọa đày.307
Hay phá giới, chẳng tu hành
Thà nuốt sắt đỏ vào mình nóng ran
Như cho lửa cháy đốt thân
Còn hơn thọ lãnh nhân dân cúng dường.308
Buông lung theo vợ, chồng người
Mắc vào bốn nạn khiến đời bất an:
Bản thân tội lỗi vương mang,
Ngủ đêm trằn trọc, tâm can rối bời
Bà con khinh bỉ chê cười
Chết vào địa ngục là nơi đọa đày.309
Mang về vô phước cho mình,
Đọa làm ác thú. Cuộc tình vui chi
Vì đang lo sợ mọi bề,
Thêm vua phạt tội nặng nề bản thân,
Cho nên phải giữ thân tâm
Vợ, chồng người chớ tà dâm hoang đàng.310
Cỏ kia sắc tựa lưỡi dao
Những người vụng dại nắm vào đứt tay,
Sa Môn tà hạnh còn đầy
Tất nhiên địa ngục đọa ngay tức thì.311
Ai mà phóng đãng buông lung
Không theo giới cấm, vô cùng nhiễm ô
Sống đời đạo hạnh đáng ngờ
Không sao chứng quả, khó mà thành công.312
Việc cần làm, phải nên làm
Làm cho hết sức, tận tâm, nhiệt tình,
Xuất gia mà chẳng giữ mình
Hành vi phóng đãng, tu hành buông lơi
Chỉ gieo cát bụi cho đời.313
Đừng làm ác, chẳng lợi gì!
Gieo đi độc ác, gặt về khổ đau
Làm lành, làm tốt cho mau
Không hề hối tiếc, trước sau đẹp lòng.314
Tựa như thành ở biên cương
Trong ngoài phòng thủ kỹ càng nghiêm minh
Ta nên phòng hộ thân mình
Chớ nên chểnh mảng mặc tình buông lung
Buông lung nguy hiểm vô cùng
Đọa đày địa ngục trong chừng phút giây.315
Việc không đáng hổ thẹn gì
Mà ta hổ thẹn, lạ kỳ làm sao?
Việc kia đáng thẹn biết bao
Mà ta chẳng thẹn chút nào cho cam
Cứ ôm nhận định sai lầm
Đọa đày địa ngục trăm phần tránh đâu!316
Việc không đáng sợ hãi gì
Mà ta sợ hãi, lạ kỳ làm sao?
Việc kia đáng sợ biết bao
Mà ta chẳng sợ chút nào cho cam
Cứ ôm nhận định sai lầm
Đọa đày địa ngục trăm phần tránh đâu!317
Việc không lầm lỗi chút gì
Mà ta tưởng lỗi, lạ kỳ làm sao?
Việc kia lầm lỗi biết bao
Mà không thấy được chút nào cho cam
Cứ ôm nhận định sai lầm
Đọa đày địa ngục trăm phần tránh đâu!318
Khi làm lỗi, nhận lỗi mình
Khi không làm lỗi biết rành rằng không
Nghĩ suy sáng suốt luôn luôn
Đúng sai, phải trái nhận chân đôi đường
Cảnh nhàn chờ đón thơm hương.319
XXIII.- Phẩm VOI.
Như voi ra trước trận tiền
Luôn luôn hứng chịu cung tên bắn mình
Như Lai nhẫn nhục tu hành
Chịu điều phỉ báng cũng đành lòng thôi,
Sống vô tư cách lắm người
Xa điều giới luật, ghét nơi cửa thiền.320
Luyện voi dự hội, tài thay
Luyện voi vua cưỡi cũng hay vô cùng,
Nhưng mà nếu luyện được lòng
Luôn luôn nhẫn nhục, chẳng còn nổi sân
Khi nghe phỉ báng bản thân
Mới là điêu luyện, muôn phần tài hơn.321
Con la được huấn luyện qua
Trở nên thuần tánh, tỏ ra tốt lành,
Ngựa nòi sinh chốn sông xanh
Sau khi huấn luyện, trở thành ngựa hay,
Voi ngà to lớn quý thay
Sau khi huấn luyện voi này tuyệt luân,
Con người nếu chính bản thân
Tự mình thuần hóa được luôn chính mình
Mới là người thật tài tình!322
Nào đâu nhờ những xe này
Mà ngươi lại đến được ngay Niết Bàn
Chỉ người tu luyện đàng hoàng
Tự mình điều phục bản thân tốt lành
Niết Bàn mới đến được nhanh.323
Voi kia khó trị vô vàn
Đến kỳ phát dục lại càng hung hăng
Khi chân bị trói, bị ràng
Ngày không ăn uống, đêm hằng nhớ thương
Nhớ đàn, nhớ mẹ, nhớ rừng.324
Người phàm, ngu muội, tham ăn
Lại thêm ưa ngủ, nằm lăn lóc hoài
Như heo ăn bụng no rồi
Tái sinh chịu mãi, luân hồi tránh đâu.325
Như Lai thuở trước buông lung
Bao nhiêu tham dục cứ thường chạy theo,
Tâm ta nay đã xoay chiều
Nhờ vào chánh niệm ta điều phục tâm
Như voi hung dữ vô ngần
Nhờ tay quản tượng sẽ thuần tính ngay.326
Canh phòng tâm thật kỹ càng
Tươi vui, sáng suốt, siêng năng, nhiệt tình
Mình lo tự cứu lấy mình
Khỏi đường tà ác chúng sinh đọa đày
Như voi kia bị sa lầy
Rút chân gắng sức vượt ngay đầm bùn.327
Nếu mà gặp bạn đồng hành
Hiền lương, trí tuệ cùng mình đi xa
Hãy vui sánh bước hoan ca
Bên người khôn khéo vượt qua hiểm nghèo.328
Nếu không gặp bạn đồng hành
Hiền lương, trí tuệ cùng mình đi xa
Ta nên sống một mình ta
Như vua lánh khỏi nước nhà bại vong,
Như voi kia sống thong dong
Một mình thanh thản ở trong rừng già.329
Thà ta cứ ở một mình
Còn hơn có bạn đồng hành ngu si,
Mình ta rong ruổi bước đi
Tránh làm điều ác có chi phiền lòng,
Như voi kia sống thong dong
Một mình thanh thản ở trong rừng già.330
Vui thay có bạn khi cần!
Vui thay thấy đủ trong tầm đôi tay
Với gì mình có hiện nay!
Vui thay khi chết thân này tạo ra
Nghiệp lành nở đẹp như hoa!
Vui thay thống khổ lìa xa chẳng còn!331
Ở đời còn có nhân duyên
Kính yêu, phụng dưỡng mẹ hiền là vui,
Công cha như núi cao vời
Kính yêu phụng dưỡng được người là vui,
Cũng vui thay nếu ở đời
Có lòng tôn kính tìm nơi cúng dường
Sa Môn cùng với thánh nhân.332
Vui thay từ trẻ đến già
Luôn luôn giữ giới thiết tha chẳng rời,
Vui thay khi sống làm người
Niềm tin chân chánh muôn đời chẳng thay!
Vui thay trí tuệ tràn đầy!
Vui thay điều ác hàng ngày tránh xa!333
XXIV.- Phẩm THAM-ÁI.
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh
Giống như giữa chốn rừng xanh
Giây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,
Đời người tiếp nối miên man
Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng
Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.334
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh
Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.335
Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.336
Điều Như Lai dạy các ngươi:
"Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này
Nhổ cho sạch gốc rễ ngay
Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn
Như là nhổ rễ cỏ hoang
Chớ nên để lũ Ma quân dục tình
Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau".337
Đốn cây mà chẳng chịu đào
Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu
Thì cây lại mọc ra mau,
Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây
Đoạn cho căn gốc sạch ngay
Nếu không khổ não mãi quay trở về.338
Người ham ái dục luôn luôn
Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn
Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.
Những người ái dục dâng tràn trong tâm
Bị dòng ái dục cuốn phăng.339
Dòng sông ái dục dâng tràn
Như dây leo dại mọc lan khắp miền,
Thấy dây leo mới nhô lên
Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau
Diệt trừ tận gốc thật sâu.340
Người đời ái dục thích ham
Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô
Ngụp chìm biển dục vô bờ
Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công
Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.341
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia
Sa vào bẫy, sợ kể chi,
Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau
Khổ đau càng chịu dài lâu.342
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia
Sa vào bẫy, sợ kể chi,
Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau
Niết Bàn giải thoát xa đâu.343
Người lìa ái dục, xuất gia
Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu
Để rồi một sớm quay đầu
Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,
Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.344
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì:
Dây gai, cây, sắt sá chi
Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!
Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!345
Những người có trí nói rằng:
"Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!"
Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.346
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau
Lọt vòng dây trói trước sau
Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng.
Ai mà dứt mọi buộc ràng
Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.347
Mặc cho quá khứ trôi đi
Níu chi hiện tại, chờ gì tương lai
Rời mau bến thảm cuộc đời
Vượt qua bờ nọ là nơi tuyệt vời
Khi tâm đã giải thoát rồi
Đâu còn sinh lão nổi trôi xoay vần.348
Người nào bị khuấy động nhiều
Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương
Thường ham dục lạc vô cùng,
Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều
Tự mình một sớm một chiều
Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.349
Ai vui vì chẳng còn vương
Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,
Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.350
Mục tiêu ai đạt tới nơi
Không còn sợ hãi. Xa rời nhiễm ô
Xa lìa ái dục êm ru
Cắt đi gai chướng nhỏ to trong đời
Mũi tên sinh tử nhổ rồi
Thân này là cuối, luân hồi còn đâu.351
Xa lìa ái dục tầm thường
Không còn luyến tiếc vấn vương bận lòng
Bao nhiêu giáo pháp tinh thông
Lời văn, ý nghĩa vô cùng hiểu sâu
Là người trí tuệ hàng đầu
Vĩ nhân đáng kính, còn đâu luân hồi,
Thân này là cuối cùng rồi.352
Như Lai vượt tất cả rồi
Lại còn thông suốt, sáng soi mọi bề
Bao nhiêu trói buộc dứt lìa
Thoát ly tất cả còn gì vấn vương
Chú tâm trọn vẹn một đường
Diệt đi ái dục tầm thường thế gian
Tự mình chứng ngộ đạo vàng
Ta còn xưng tụng ai làm thầy đây!353
Coi như bố thí hàng đầu
Là đem Chân Lý nhiệm mầu tặng nhau,
Coi như hương vị tối cao
Hương vị Chân Lý ngọt ngào dài lâu
Coi như hoan hỷ hàng đầu
Niềm vui Chân Lý thấm sâu tuyệt vời,
Người nào ái dục diệt rồi
Vượt qua phiền não, xa rời khổ đau.354
Giàu sang, tài sản dồi dào
Chỉ làm hại được kẻ nào ngu thôi,
Dễ gì hại được những người
Đang cầu giác ngộ hướng nơi Niết Bàn,
Chỉ vì ham muốn giàu sang
Kẻ ngu tự hại bản thân đã đành
Hại thêm cả kẻ xung quanh.355
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Tham lam gây hại nhiều hơn cho người,
Tham lam ai đã lìa rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.356
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Lòng sân gây hại nhiều hơn cho người,
Ai lìa sân hận được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.357
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Si mê gây hại nhiều hơn cho người,
Si mê ai đã lìa rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.358
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,
Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.359
XXV.- Phẩm TỲ-KHEO.
Người nào chế ngự được ngay
Mắt, tai, mũi, lưỡi: lành thay vô ngần!
Lại thêm chế ngự được thân
Cũng như lời nói và tâm ý mình
Nói chung quả thật tài tình!
Tỳ Kheo nào bản thân mình thật hay
Chế ngự xong mọi điểm này
Khổ đau giải thoát, đọa đày tiêu tan.360-361
Người nào chế ngự tay chân
Giữ gìn lời nói và tâm ý mình
Thích ưa thiền định nhiệt thành
Độc thân, tự tại, tu hành cô liêu
Biết đầy đủ, chẳng ham nhiều
Xứng danh là bậc Tỳ Kheo vô cùng.362
Tỳ Kheo ngôn ngữ thuần rồi
Nói câu khôn khéo, tránh lời tự cao
Thì khi giảng Pháp ngọt ngào
Muôn phần êm dịu, xiết bao rõ ràng.363
Tỳ Kheo chánh pháp tuân theo
Một lòng suy tưởng, mến yêu đạo mầu
Tư duy chánh pháp thâm sâu
Sẽ không sa đọa. Chẳng bao giờ rời
Mãi theo chánh pháp tuyệt vời.364
Điều mình thọ lĩnh được rồi
Chớ nên coi rẻ, buông lời khinh khi,
Người ta thọ lĩnh được chi
Chớ thèm, chớ muốn thứ gì của ai,
Tỳ Kheo ganh tỵ người ngoài
Khó mà an trú cho nơi tâm mình
Bao điều thiền định tốt lành.365
Tỳ Kheo thọ lĩnh cúng dường
Ít nhiều cũng chẳng coi thường khinh chê
Cứ luôn sinh hoạt mọi bề
Siêng năng, thanh tịnh không hề buông lơi
Chư thiên khen ngợi hết lời.366
Thân tâm, danh sắc biết ra
Cái "ta" không chấp, "của ta" chẳng màng,
Ưu tư, sầu não sẽ tan
Khi "ta" không chấp, chẳng màng "của ta"
Người như vậy thật cao xa
Xứng danh đáng được gọi là Tỳ Kheo.367
Tỳ Kheo chất chứa trong tâm
Từ bi hoa nở hương thầm bay xa
Vui trong giáo pháp Phật Đà
Sẽ mau đạt cảnh thăng hoa Niết Bàn
Nhanh siêu thoát, sớm bình an
Chẳng còn phiền não, vô vàn sướng vui.368
Tỳ Kheo tát nước thuyền này
Thuyền không nhẹ nhõm xuôi ngay theo dòng,
Tham và sân trừ diệt xong
Thân này cũng nhẹ thoát vòng nhiễm ô
Niết Bàn mau chóng qua bờ.369
Tỳ Kheo nào cắt đứt xong
Năm điều phiền não chẳng còn vấn vương,
Năm điều ô trược dứt luôn,
Năm căn lành tốt tìm phương trau dồi,
Năm điều trói buộc vượt rồi
Xứng danh được gọi là người thành công
"Vượt dòng nước lũ" mênh mông.370
Tỳ Kheo hãy cố tu thiền
Chớ nên buông thả, chớ nên lơ là
Tâm mình ái dục tránh xa
Đừng chờ nuốt sắt nóng mà kêu than:
"Thân thiêu đốt khổ vô vàn!"371
Khi mà trí tuệ thiếu rồi
Thời bao thiền định trôi xuôi theo dòng,
Khi mà thiền định chẳng còn
Thời bao trí tuệ theo dòng trôi xuôi,
Ai mà định, tuệ đủ đôi
Sóng vàng đưa lối kề nơi Niết Bàn.372
Tỳ Kheo ẩn dật sống nhàn
Luôn luôn yên tịnh vô vàn trong tâm
Bao điều chánh pháp nhận chân
Sẽ vui hưởng thú siêu nhân hơn người.373
Ai mà suy nghĩ, nhận chân
Lẽ sinh diệt của thân tâm này rồi
Thân tâm ngũ uẩn con người,
Hưởng ngay hạnh phúc, niềm vui tốt lành
Của người thoát khỏi tử sinh.374
Tỳ Kheo có trí hiểu rằng
Phải lo chế ngự lục căn cho lành,
Tự mình biết đủ phần mình,
Đạo mầu giới luật nghiêm minh giữ gìn
Kết thân với các bạn hiền
Có tài, có đức lại thêm chuyên cần.
Chân thành giao thiệp xa gần
Tác phong đoan chính muôn phần thanh cao,
Được như vậy tốt là bao
Xua đi phiền não, đón vào sướng vui.375-376
Như hoa lài lúc héo tàn
Buông rơi cánh úa theo làn gió kia,
Tỳ Kheo theo đó khác chi
Tham và sân xả hết đi mọi đường.377
Tỳ Kheo thanh tịnh bản thân
Ôn hòa ngôn ngữ, bình an tâm hồn
Ung dung tự tại luôn luôn
Không màng dục lạc thế nhân thường tình
Con người an tịnh xứng danh!378
Tự mình hãy kiểm soát mình
Tự mình dò xét chân thành bản thân
Tự mình giác tỉnh canh phòng
Tỳ Kheo sẽ sống vô cùng an vui.379
Tự mình bảo vệ bản thân
Tự mình nương tựa chẳng cần nhờ ai,
Vậy nên kiềm chế thân người
Như là chàng lái buôn ngồi ngựa hay
Lo kiềm chế ngựa luôn tay.380
Tỳ Kheo hoan hỷ bản thân
Tin theo Phật pháp với tâm chân thành
Sẽ mau đạt cảnh an lành
Thân tâm phiền não sớm thanh tịnh liền.381
Tỳ Kheo tuy trẻ tuổi thôi
Nhưng mà Phật pháp tu thời siêng năng
Sẽ là ánh sáng huy hoàng
Rạng soi toàn cõi thế gian mịt mờ
Như trăng ra khỏi mây mù.382
XXVI.- Phẩm BÀ-LA-MÔN.
Bà La Môn dũng cảm lên
Đoạn trừ ái dục lụy phiền cho nhanh
Một khi thấu hiểu thân mình
Là do ngũ uẩn tạo thành mà thôi
Thân mau tận diệt rã rời
Các người liền thấy được nơi Niết Bàn.383
Chính nhờ hai pháp tu thiền
Ngưng lại, quan sát, xét xem mọi bề
Bà La Môn đến bờ kia
Bao nhiêu ràng buộc dứt lìa tiêu tan
Do nơi trí tuệ rỡ ràng.384
Không bờ này với lục căn,
Cũng không ôm giữ lục trần bờ kia
Hai bờ mau chóng thoát ly
Buông cho phiền não trôi đi nhạt nhòa
Buộc ràng dục vọng lìa xa
Như Lai gọi họ là Bà La Môn.385
Siêng năng ẩn dật tu thiền
Nhiễm ô dứt bỏ, não phiền buông trôi
Tu tâm nhiệm vụ xong xuôi
Mục tiêu tối thượng tuyệt vời đạt nhanh
Bà La Môn thật xứng danh!386
Mặt trời chiếu sáng ban ngày
Mặt trăng đêm xuống tỏa đầy ánh quang
Gươm đao, nhung giáp huy hoàng
Trận tiền chiếu sáng rỡ ràng cho Vua
Bà La Môn vốn từ xưa
Hào quang chiếu sáng khi tu hành thiền,
Nhưng hào quang Phật vô biên
Ngày đêm chiếu sáng khắp miền nhân gian.387
Người mà nghiệp ác dứt xa
Xứng danh tên gọi là Bà La Môn
Người mà an tịnh luôn luôn
Xứng danh tên gọi Sa Môn tu hành,
Người mà ô nhiễm diệt nhanh
Mới là một bậc thuần thành xuất gia.388
Chớ nên đánh Bà La Môn!
Bà La Môn chớ nổi sân cùng người!
Đánh người xấu hổ một hai,
Nếu người bị đánh giận hoài không nguôi
Nổi cơn sân hận mãi thôi
Mới là hổ thẹn gấp mười lần hơn.389
Bà La Môn chẳng hận thù
Lợi này không nhỏ từ xưa vậy rồi
Khi mà luyến ái đã rời
Khi mà tâm muốn hại người đã yên
Mới mong diệt hết não phiền
Và khi đó mới xa miền khổ đau.390
Người không tạo nghiệp ác chi
Hành vi, lời nói, nghĩ suy đúng đường,
Khi thân, khẩu, ý đàng hoàng
Tự mình chế ngự, sẽ mang tốt lành
Bà La Môn thật xứng danh!391
Ai mà hướng dẫn cho ta
Hiểu thông giáo lý Phật Đà cao xa
Ta nên kính lễ thiết tha
Như người thờ lửa dòng Bà La Môn
Thành tâm kính lễ lửa thần.392
Mệnh danh là Bà La Môn
Nào vì bện tóc ở luôn trên đầu
Nào vì chủng tộc mình đâu
Cũng không vì đã dựa vào nơi sinh,
Riêng ai hiểu biết thật tình
"Bốn Điều Chân Lý" tâm thành nhận ra
Tinh thông "Chánh Pháp" Phật Đà
Và luôn thanh tịnh, là Bà La Môn393
Kẻ ngu bện tóc trên đầu
Da dê may áo mặc đâu ích gì,
Lòng đầy tham dục chưa lìa
Điểm trang ngoài mặt làm chi cho thừa.394
Ai tuy áo vá tầm thường
Ốm gầy đến lộ gân xương thân hình
Tu thiền rừng vắng một mình
Bà La Môn gọi xứng danh vô cùng.395
Không vì do mẹ sinh ra
Một người được gọi là Bà La Môn
Nếu còn phiền não trong tâm
Thì người chỉ được gọi bằng tên suông,
Ai mà chướng ngại dứt luôn
Chẳng còn luyến ái vấn vương tâm mình
Bà La Môn mới xứng danh.396
Ai mà dứt hết não phiền
Từng phen lèo lái, xích xiềng thân ta
Bao cơn sợ hãi vượt qua
Chẳng còn dính mắc, lìa xa buộc ràng
Bà La Môn xứng tên vàng.397
Bỏ đai da sân hận đi
Bỏ cương luyến ái chớ hề vấn vương
Bỏ dây tà kiến lầm đường
Bỏ đồ phụ thuộc buộc ràng quẩn quanh
Bỏ đi cây trục vô minh
"Bốn Điều Chân Lý" thật tình hiểu ra
Con người giác ngộ tiến xa
Xứng danh tên gọi là Bà La Môn.398
Ai không tức giận với người
Chịu lời khiển trách, đòn roi, phạt hình
Lấy điều nhẫn nhục lặng thinh
Làm quân lực bảo vệ mình một bên
Bà La Môn thật xứng tên.399
Ai không nóng giận với người
Chu toàn bổn phận, sống đời trang nghiêm
Không tham ái, biết tự kiềm
Xác thân hiện tại trở nên cuối cùng
Luân hồi sinh tử chẳng còn
Bà La Môn gọi tên không sai gì.400
Người mà ái dục thoát ly
Không còn đắm nhiễm chút gì dài lâu
Tựa như giọt nước trôi mau
Chẳng còn dính lại trên tàu lá sen
Hay hột cải đặt đầu kim
Không còn dính lại ở trên được nào,
Bà La Môn xứng danh sao!401
Ai tu ở thế gian này
Tự mình giác ngộ được ngay đạo mầu
Diệt trừ hết mọi khổ đau
Thân tâm nặng gánh bỏ mau bên đường
Để rồi siêu thoát nhẹ nhàng
Bà La Môn thật vô vàn xứng danh.402
Người nào trí tuệ sâu xa
Nhận chân đường chánh, nẻo tà phân minh
Mục tiêu tối thượng đạt thành
Bà La Môn thật xứng danh vô cùng.403
Ai mà không thích kết thân
Với người thế tục hay hàng xuất gia
Lang thang đơn độc, không nhà
Không còn ham muốn thiết tha dục tình
Bà La Môn thật xứng danh.404
Ai không dao gậy bạo hành
Trong khi tiếp xúc chúng sinh ở đời
Dù người mạnh, yếu vậy thôi
Không gây thương tổn hay đòi sát sinh
Bà La Môn thật xứng danh.405
Tỏ ra thân thiết chân tình
Giữa người thù nghịch quanh mình gần xa,
Tỏ ra thiện chí ôn hòa
Với người tính khí thật là hung hăng,
Không còn luyến ái vương mang
Bên người cố chấp buộc ràng vây quanh,
Bà La Môn thật xứng danh.406
Người mà phủi sạch tham lam
Và bao sân hận, kiêu căng, tỵ hiềm
Không còn bám lại gây phiền,
Tựa như hột cải đặt trên kim này
Mũi kim giữ cải khó thay,
Bà La Môn thật xứng ngay tên người.407
Nói lời êm dịu, ôn hòa
Lại thêm lợi ích, thật thà mãi thôi
Không hề xúc phạm đến ai
Bà La Môn gọi tên người xứng sao!408
Thế gian hễ cứ một ai
Không hề lấy vật mà người không cho
Dài hay ngắn, nhỏ hay to
Dù tốt hay xấu, dù hư hay lành
Bà La Môn thật xứng danh.409
Dù đời này hay đời sau
Người không dục vọng khát khao chút gì
Dễ dàng siêu thoát mọi bề
Bà La Môn gọi tên thì xứng sao.410
Người nào tham ái dứt luôn
Do nhờ có trí không còn nghi nan
Đã mau chứng ngộ đạo vàng
Niềm vui bất tử Niết Bàn tiến nhanh
Bà La Môn thật xứng danh.411
Những người sống ở đời này
Hai điều thiện, ác vượt ngay qua rồi
Chẳng còn ràng buộc tâm người
Chẳng còn phiền muộn rối bời vây quanh
Không ô nhiễm, rất tịnh thanh
Bà La Môn thật xứng danh gọi người.412
Người nhơ bẩn phủi sạch rồi
Như trăng vằng vặc sáng ngời trong đêm
Rất thanh tịnh, rất lặng yên
Diệt trừ ái dục quẩn bên hại mình
Bà Là Môn thật xứng danh.413
Vũng lầy tham ái tránh xa
Con đường dục vọng vượt qua được rồi,
Si mê u tối đã rời
Thoát ra khỏi biển luân hồi cuồng quay,
Bờ kia thiền định sang ngay,
Rũ mau nghi hoặc vương đầy trước kia
Người không bám víu điều chi
Dặm trường hoàn tất nẻo đi Niết Bàn
Bà La Môn xứng tên vàng.414
Ở trên cõi thế gian này
Người nào dục lạc bỏ ngay chẳng màng
Khước từ đời sống trần gian
Lìa nơi nhà cửa, nhập hàng xuất gia
Ngăn dục lạc tái sinh ra
Như Lai gọi họ là Bà La Môn.415
Ở trên cõi thế gian này
Người nào ái dục bỏ ngay chẳng màng
Khước từ đời sống trần gian
Lìa nơi nhà cửa, nhập hàng xuất gia
Ngăn ái dục tái sinh ra
Như Lai gọi họ là Bà La Môn.416
Xa lìa trói buộc nhân gian,
Vượt qua trói buộc trên hàng trời cao,
Buộc ràng giải thoát hết mau
Bà La Môn thật tên đâu xứng bằng.417
Bỏ điều ưa ghét một bên
Nhiễm ô chẳng vướng, thản nhiên nhìn đời
Thế gian ngũ uẩn thắng rồi
Kiên trì, cố gắng, con người đáng khen
Bà La Môn thật xứng tên.418
Người nào hiểu rõ chúng sinh
Sinh ra, hoại diệt quẩn quanh thế nào
Để rồi khéo vượt qua mau
Một khi giác ngộ, xa đâu Niết Bàn
Bà La Môn xứng tên vàng.419
Ai mà sau lúc qua đời
Dù chư thiên hoặc loài người khắp nơi
Hay chúng sinh ở cõi trời
Không hay biết họ về nơi chốn nào,
Họ là bậc đáng tự hào
Nhiễm ô, dục vọng diệt bao lâu rồi
Chẳng còn sinh tử luân hồi
Bà La Môn xứng tên người biết bao!420
Người không bám víu vật chi
Dù trong quá khứ hay về tương lai
Hoặc trong hiện tại lúc này
Chẳng ham nắm giữ trong tay chút gì
Bà La Môn xứng tên chi.421
Như trâu dũng mãnh đầu đàn
Chẳng hề sợ hãi trong tâm điều gì
Anh hùng, cao thượng kể chi
Bao nhiêu dục vọng xấu kia đã rời
Rửa đi ô nhiễm sạch rồi
Sáng bừng giác ngộ hướng nơi Niết Bàn
Bà La Môn xứng tên vàng.422
Thánh hiền không chỉ thấy rành
Cuộc đời quá khứ của mình mà thôi,
Thấy thêm nhàn nhã cảnh trời
Thấy luôn cõi khổ nơi nơi đọa đầy,
Tử sinh chấm dứt đời này,
Tự mình cải tiến được ngay cho mình
Nhờ vào trí tuệ tinh anh
Trọn đời đạo hạnh tốt lành thiêng liêng
Bao nhiêu dục vọng dứt liền
Bà La Môn thật xứng tên vô cùng.423
-ooOoo-
XXI.- Phẩm Tạp-lục
Nếu bỏ niềm vui nhỏ
Ðể đạt hạnh phúc lớn
Bậc trí bỏ vui nhỏ
Vì phúc lạc to hơn.290
Mong cầu vui cho mình
Lại gây khổ cho người
Chỉ nuôi thù chuốc oán
Oan trái mãi không nguôi.291
Việc không nên lại làm
Việc đáng làm lại không
Kẻ tự phụ buông lung
Khiến lậu hoặc tăng trưởng
Người tu tập cần mẫn
Thường tu tập thân quán
Không làm việc không đáng
Năng làm việc nên làm
Người chánh niệm tỉnh giác
Khiến lậu hoặc tiêu tan.292-293
Giết Mẹ Ái, Cha Mạn
Hai Vua Thường, Ðoạn kiến
Diệt Vương quốc Căn, Trần
Phạm chí sống vô ưu
Giết Mẹ Ái, Cha Mạn
Hai Vua Thường, Ðoạn kiến
Diệt hổ tướng Hoài nghi
Phạm chí sống vô phiền.294-295
Ðệ Tử Gotama
Thường tỉnh giác chánh niệm
Không luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng Phật Ðà
Ðệ Tử Gotama
Năng tỉnh giác chánh niệm
Chẳng luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng Chánh Pháp
Ðệ Tử Gotama
Thường tỉnh giác chánh niệm
Không luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng Tăng già
Ðệ Tử Gotama
Thường tỉnh giác chánh niệm
Không luận ngày hay đêm
Thường tu tập thân quán
Ðệ Tử Gotama
Thường tỉnh giác chánh niệm
Không luận ngày hay đêm
Tâm vui niềm bất hại
Ðệ Tử Gotama
Thường tỉnh giác chánh niệm
Không luận ngày hay đêm
An vui trong thiền tịnh.296-301
Ði xuất gia không dễ
Vui đời tu cũng khó
Sống tại gia cũng khổ
Bạn không hợp cũng phiền
Dòng trôi lăn sanh tử
Bao hệ lụy thương đau
Chớ làm khách trầm luân
Ðừng tầm cầu khổ não.302
Tín tâm, sống giới hạnh
Ðủ danh xưng tài sản,
Chỗ nào người ấy đến,
Chỗ ấy được cung kính.303
Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết,
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen.304
Ai ngồi nằm một mình,
Ðộc hành không buồn chán.
Tự điều phục một mình,
Sống thoải mái rừng sâu.305
XXII.- Phẩm ĐỊA-NGỤC.
Người mồm miệng láo khoét,
Kẻ làm rồi nói không.
Cả hai chết tương đồng,
Ðê tiện, đọa địa ngục.306
Nhiều người khoác cà sa,
Ác hạnh không nhiếp phục.
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi Ðịa ngục.307
Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như than hồng,
Hơn ác giới, buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ.308
Bốn nạn chờ đợi người,
Phóng dật theo vợ người ;
Mắc họa, ngủ không yên,
Bị chê là thứ ba,
Ðọa địa ngục, thứ bốn.
Mắc họa, đọa ác thú,
Bị hoảng sợ, ít vui.
Quốc vương phạt trọng hình.
Vậy chớ theo vợ người.309-310
Như cỏ sa vụng nắm,
Tất bị họa đứt tay.
Hạnh sa môn tà vạy,
Tất bị đọa địa ngục.
Sống phóng đãng buông lung,
Theo giới cấm ô nhiễm,
Sống phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn.
Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia sống phóng đãng,
Chỉ tăng loạn bụi đời.311-313
Điều ác chớ nên làm
Làm rồi sinh sầu hận
Việc thiện hẳn nên làm
Đã làm khỏi ăn năn.314
Như ở chốn biên thành
Luôn canh phòng cẩn mật
Hãy giữ ý gìn lòng
Tinh chuyên từng thời khắc
Ai hoang phí đời nầy
Phải sầu trong đọa lạc.315
Hổ thẹn điều không đáng
Điều đáng thẹn lại không
Chấp cái nhìn mù quáng
Chúng sanh rơi khổ cảnh
Sợ hãi điều không đáng
Điều đáng sợ lại không
Chấp cái nhìn mù quáng
Chúng sanh rơi khổ cảnh.316-317
Không lỗi thấy sai quấy
Có lỗi thấy là không
Do chấp kiến tà vạy
Hữu tình sanh khổ cảnh
Có lỗi biết là lỗi
Không lỗi biết là không
Do phải quấy suốt thông
Hữu tình sanh lạc cảnh.318-319
XXIII.- Phẩm VOI.
Như voi chiến lâm trận
Hứng chịu bao lằn tên
Ta gánh chịu phỉ báng
Giữa đời lắm đảo điên
Voi thuần, đưa dự hội
Ngựa thuần, được vua cưỡi
Bậc tự hoá, tối thượng
Trước phỉ báng, nhẫn nại
Tốt thay giống la thuần
Quí thay loài ngựa Sindh
Khôi vĩ thay khổng tượng
Bậc tự chế tối thượng.320-322
Chẳng phải phương tiện ấy
Ðưa đến cảnh siêu nhiên
Chỉ có tự điều phục
Bậc khéo tu đạt đến.323
Xưa đại tượng Tài Hộ
Phát dục, không uống ăn
Khó điều phục, bị cột,
Nhớ rừng voi vô vàn.324
Người ham ăn mê ngủ
Nằm lăn lóc qua lại
Giống như heo mới ăn
Kẻ ngu mãi đầu thai.325
Tâm nầy trước phóng dật
Ham, thích theo dục lạc
Nay sáng suốt tự rèn
Như dạy voi bằng móc.326
Vui thích trong tinh cần
Khéo phòng hộ nội tâm
Kéo mình khỏi đường ác
Vũng lầy voi thoát thân.327
Nếu có bạn trí hiền
Hạnh lành, niệm tỉnh thức
Hãy sống chung an lạc
Vượt thắng mọi hiểm nguy
Không có bạn hiền trí
Hạnh lành, đáng sống chung
Hãy sống riêng một mình
Như vua bỏ nước bại
Như voi chốn rừng sâu
Tốt hơn sống độc hành
Hơn chung bước bạn xấu
Một mình không ác hạnh
Sống tự tại thong dong
Như voi giữa rừng già.328-330
Vui thay, bạn lúc cần
Vui thay, sống tri túc
Vui thay, chết có đức
Vui thay, dứt mọi khổ
Vui thay, hiếu với mẹ
Vui thay, hiếu với cha
Vui thay, kính sa môn
Vui thay, kính Hiền Thánh
Vui thay, già có giới
Vui thay, tín vững chắc
Vui thay, có trí tuệ
Vui thay, không làm ác.331-333
XXIV.- Phẩm THAM-ÁI.
Người sống đời phóng dật,
Ái tăng như dây leo.
Nhảy đời này đời khác,
Như vượn tham quả rừng.
Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa
Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen
Ðây điều lành Ta dạy,
Các người tụ họp đây,
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi.
Chớ để ma phá hoại,
Như giòng nước cỏ lau.334-337
Như cây dù bị đốn
Nhưng gốc rễ vẫn còn
Ái tuỳ miên chưa đoạn
Khổ nầy vẫn mãi sanh
Ba mươi sáu dòng ái
Cuốn người vào dục lạc
Rồi chính những khao khát
Cuốn người vào tà kiến
Dòng ái chảy cùng khắp
Nhưng giây leo lan tràn
Nên giây leo vừa sanh
Với tuệ diệt tận gốc
Chúng sanh với ái dục
Ưa thích điều hỷ lạc
Tuy tầm cầu hạnh phúc
Chúng phải chịu sanh già
Người bị ái vương mang
Vùng vẫy và hoảng hốt
Như thỏ bị sa lưới
Chúng sanh bị ái cột
Chịu đau khổ triền miên
Người bị ái vương mang
Vùng vẫy và hoảng hốt
Như thỏ bị sa lưới
Bởi thế nầy Tỳ khưu
Hãy mong cầu ly tham
Nhiếp phục mọi ái dục.338-343
Vào rừng để lìa rừng
Thoát rừng mà vào rừng
Hãy xem người mở trói
Lại chạy theo buộc ràng.344
Sắt, cây, gai giây buộc
Người trí thấy chưa bền
Tham châu báu, trang sức
Tham luyến vợ và con
Bậc thông tuệ thấy đó
Là trói buộc bền chắc
Kéo xuống và nhận chìm
Quả thật khó thoát khỏi
Người trí đoạn trừ chúng
Màng chi những dục lạc.345-346
Lụy ái lao xuống dòng
Như nhện sa màng nhện
Người trí đoạn ái tham
Mọi khổ không màng đến.347
Buông quá, hiện, tương lai
Sanh hữu cũng vượt ngoài
Ý giải thoát tất cả
Sanh già chớ đáo lai.348
Người tà ý nhiếp phục,
Tham sắc bén nhìn tịnh,
Người ấy ái tăng trưởng,
Làm giây trói mình chặt.
Ai vui, an tịnh ý,
Quán bất tịnh, thường niệm,
Người ấy sẽ diệt ái,
Cắt đứt Ma trói buộc.349-350
Ai cứu cánh thành tựu
Không ái, nhiễm, sợ hãi
Nhổ cây gai sanh hữu
Ðây chính thân cuối cùng
Không ái cũng không thủ
Khéo diễn đạt pháp cú
Với từ vô ngại giải
Trước sau thông trình tự
Vị ấy bậc đại trí,
Ðại nhân với kiếp chót.351-352
Vượt qua, biết tất cả
Vô nhiễm, bỏ tất cả
Diệt ái, tự giải thoát
Thắng trí. Ai thầy ta?353
Pháp thí: cho lớn nhất
Pháp vị: ngon nào hơn
Pháp hỷ: vui chi sánh
Ái diệt: khổ không còn.354
Tài sản hại người ngu
Chẳng người cầu giác ngạn
Kẻ thiếu trí tham giàu
Hại mình, hại tha nhân.355
Cỏ dại phá ruộng vườn
Tham làm hỏng thế nhân
Cúng dường bậc ly tham
Mang lại công đức lớn
Cỏ dại phá ruộng vườn
Sân làm hỏng thế nhân
Cúng dường bậc ly sân
Mang lại công đức lớn
Cỏ dại phá ruộng vườn
Si làm hỏng thế nhân
Cúng dường bậc ly si
Mang lại công đức lớn
Cỏ dại phá ruộng vườn
Dục làm hỏng thế nhân
Cúng dường bậc ly dục
Mang lại công đức lớn.356-359
XXV.- Phẩm TỲ-KHEO.
Thiện thay, phòng hộ nhãn căn!
Thiện thay, phòng hộ nhĩ căn!
Thiện thay, phòng hộ tỷ căn!
Thiện thay, phòng hộ thiệt căn!
Thiện thay, phòng hộ thân căn!
Thiện thay, phòng hộ ý căn!
Thiện thay thu thúc tất cả
Tỳ khưu chế ngự tất cả
Giải thoát tất cả khổ đau.360-361
Người kiểm soát tay, chân
Gìn lời nói, tư tưởng
Vui thiền tư nội tại
Độc cư, sống tri túc
Mới xứng gọi tỳ khưu.362
Tỳ khưu gìn khẩu nghiệp
Lời hay, chẳng tự cao
Dùng ngôn từ thanh tao
Khi diễn bày pháp nghĩa.363
Tỳ khưu trú trong pháp
Vui pháp, tư duy pháp
Tâm thường niệm tưởng pháp
Sẽ không rời chánh pháp.364
Không khinh thứ mình có
Không ganh điều người được
Tỳ khưu còn tật đố
Không sao chứng thiền định
Tỳ khưu dù được ít
Không khinh thứ mình được
Sống chánh mạng, nỗ lực
Chư thiên mến vị ấy.365-366
Tất cả thuộc danh sắc
Không chấp ngã, ngã sở
Không chấp thủ không khổ
Ấy chính là tỳ khưu.367
Tỳ Kheo trú lòng từ
Vui trong giáo pháp Phật
Cảnh tịch tịnh chứng đạt
Các pháp hành an ổn
Hỡi tỷ khưu tát thuyền
Thuyền không, nhẹ đi nhanh
Ðoạn tham lam, sân hận
Ắt chứng quả Niết Bàn
Ðoạn năm, dứt bỏ năm
Tu năm pháp tối ưu
Tỳ khưu vượt năm ái
Xứng gọi: vượt bộc lưu.368-370
Tỳ khưu, hãy tu thiền
Ðừng đắm dục, giãi đãi
Phóng dật: nuốt sắt nóng
Bị đốt đừng than khổ
Không thiền không có tuệ
Không có tuệ không thiền
Bậc có thiền có tuệ
Chắc chắn gần niết bàn
Tỳ khưu vào nhà trống
Với an tịnh nội tâm
Hoan hỷ pháp siêu nhân
Hiểu tường tận chánh pháp.371-373
Người thường xuyên quán niệm
Sự sanh diệt các uẩn
Ðạt hỷ lạc, hân hoan
Ðạo bất tử nan nghì
Ðây là bước tiên khởi
Vị tỳ khưu sáng suốt
Gìn các căn, tri túc
Năng hộ trì giới bổn
Thường thân cận bạn lành
bậc chuyên cần, thanh tịnh
Bậc tư cách trang nghiêm
Thân thiện trong giao tiếp
Do vậy sống an lạc
Sẽ chấm dứt khổ đau.374-376
Tựa hoa Vassikà
Lìa bỏ cánh úa tàn
Hãy đoạn tận tham sân
Như vậy hỡi tỳ khưu.377
Thân an, khẩu cũng an
Tâm thiền tư vắng lặng
Bậc từ bỏ tục niệm
Chính thật thanh tịnh tăng.378
Tự khiển trách chính mình
Tự thẩm định chính mình
Tỳ khưu tự phòng hộ
Chánh niệm, lòng rộng thênh
Tự nương tựa nơi mình
Từ bảo vệ cho mình
Tự nhiếp hoá bản thân
Như người dạy ngựa thuần.379-380
Tỳ khưu luôn hoan hỷ,
Tịnh tín trong giáo pháp
Đạt cảnh giới tịnh lạc
Các hành được an ổn.381
Tỳ Khưu tuy tuổi nhỏ
Nhưng siêng hành lời Phật
Giữa trần gian sáng tỏ
Như trăng thoát mây mờ.382
XXVI.- Phẩm BÀ-LA-MÔN.
Tinh cần đoạn dòng ái
Phạm chí, hãy ly dục
Biết hữu vi hữu hoại
Hãy liễu ngộ vô vi.383
Thường trụ trong hai pháp
Phạm chí đáo bĩ ngạn
Bậc chánh trí đoạn tận
Tất cả dây kiết sử.384
Không bờ gần bờ xa
Hoặc cả hai cũng không
Vô ưu, không ách phược
Ta gọi bà la môn.385
Người thiền định ly trần
Việc nên làm đã làm
Vô lậu, đạt cứu cánh
Ta gọi bậc phạm chí.386
Ánh dương chiếu ban ngày
Ánh trăng rạng ban đêm
Giáp trụ ngời Sát lỵ
Thiền định sáng phạm chí
Duy hào quang của Phật
Phổ chiếu cả ngày đêm.387
Lìa ác là phạm chí
Tịnh cư ấy sa môn
Tu thân bỏ cấu uế
Nên gọi bậc xuất gia.388
Chớ hành hung phạm chí
Phạm chí chớ đánh lại
Xấu thay đánh phạm chí
Nhưng trả đũa quấy hơn
Đối với bậc Phạm chí
(Xung đột) chẳng lợi gì
Không vui trong hiềm hận
Mọi phiền khổ chấm dứt.389-390
Với ai thân, khẩu, ý
Không làm bất thiện hạnh
Ba nghiệp luôn hộ trì
Ta gọi là Phạm chí.391
Từ ai biết Diệu pháp
Do bậc Chánh Giác dạy
Hãy kính lễ vị ấy
Như Phạm chí thờ lửa.392
Không gọi là Phạm chí
Vì bện tóc, gia thế
Bậc chân, thiện, thanh tịnh
Mới gọi bà la môn.393
Tóc bện, áo da dê
Kẻ ngu được những gì
Nội tâm đầy sầu mị
Dù bề ngoài đánh bóng.394
Người mặc y phấn tảo
Thân gầy lộ cả gân
Thiền một mình sơn lâm
Ta gọi là Phạm chí.395
Ta không gọi Phạm chí
Vì thai bào, mẫu hệ
Nếu nặng lòng sở hữu
Có gọi chỉ gọi suông
Vô sở đắc, vô cầu
Ta gọi Bà la môn.396
Cắt tất cả trói buộc
Lo sợ cũng chẳng còn
Vượt ái chấp, tự tại
Ta gọi Bà la môn.397
Bỏ đai da hiềm hận
Cắt dây cương ái chấp
Đoạn sở thuộc tà kiến
Phá chốt nêm vô minh
Bậc tỉnh thức giác ngộ
Ta gọi là Phạm chí.398
Bậc không giận nhẫn nại
Trước hủy báng, bạo hành
Lấy nhẫn làm sức mạnh
Ta gọi là Phạm chí.399
Không giận, không tắc trách
Bậc giới đức, vô cầu
Tự hoá, không sanh hữu
Ta gọi là Phạm chí.400
Như lá sen với nước
Như đầu kim hạt cải
Người không còn nhiễm ái
Ta gọi Bà la môn.401
Hiểu khổ, pháp diệt khổ
Tự ngay chính đời nầy
Bỏ gánh nặng, tự tại
Ta gọi là Phạm chí.402
Bậc chánh trí thông tuệ
Khéo phân đạo, phi đạo
Đạt mục đích rốt ráo
Ta gọi là Phạm chí.403
Không hệ luỵ cả hai
xuất gia hoặc thế tục
Sống viễn ly, thiểu dục
Ta gọi bậc Phạm chí.404
Đã từ bỏ đao trượng
Với chúng sanh mạnh, yếu
Không giết, không sai biểu
Ta gọi Bà la môn.405
Thân thiện giữa hận thù
Từ hoà giữa hung hăng
Vô nhiễm giữa ái thủ
Ta gọi là Phạm chí.406
Người rũ bỏ tham, sân
Không tị hiềm, kiêu mạn
Như đầu kim hạt cải
Ta gọi bà la môn.407
Bậc nói lời từ hoà
Chân thật là ích lợi
Không tổn thương một ai
Ta gọi là Phạm chí.408
Ở đời vật dài, ngắn
Đẹp xấu hay lớn nhỏ
Không lấy của không cho
Ta gọi là Phạm chí.409
Bậc không còn ước vọng
Đời nầy hay đời sau
Giải thoát, không hy cầu
Ta gọi là Phạm chí.410
Người không còn hy cầu
Với tuệ giác đoạn nghi
Thể nhập cảnh bất tử
Ta gọi là Phạm chí.411
Bậc giải thoát ở đời
Vượt ngoài cả hai ác thiện
Tịnh, vô nhiễm, vô phiền
Ta gọi là Phạm chí.412
Như vầng trăng vô cấu
Bậc thanh tịnh, vắng lặng
Hữu ái đã đoạn tận
Ta gọi là Phạm chí.413
Vượt hiểm đạo, mê si
Qua biển trần trầm nịch
Thiền giả đến bờ kia
Không ái, không nghi hoặc
Không chấp trước, tịch tịnh
Ta gọi là Phạm chí.414
Ai trong đời ly dục
Xuất gia sống không nhà
Dục hữu đã đoạn xả
Ta gọi là Phạm chí.415
Bậc cát ái ly gia
Sống cuộc sống không nhà
Ái và hữu đã tận
Ta gọi Brahmana.416
Vượt trói buộc thiên giới
Bỏ trói buộc nhân gian
Giải thoát mọi buộc ràng
Ta gọi là Phạm chí.417
Lìa điều ưa điều ghét
Không nhiệt não, sanh y
Hùng tâm nhiếp ba cõi
Ta gọi là Phạm chí.418
Liễu sanh tử chúng sanh
Khéo vượt qua bất thối
Bậc thanh tịnh, giác minh
Ta gọi là Phạm chí
Dù trời, người, thát bà
Không biết chỗ thọ sanh
Bậc la hán lậu tận
Ta gọi là Phạm chí.419-420
Dù quá, hiện, vị lai
Không thủ đắc vật gì
Không sở hữu, không thủ
Ta gọi là Phạm chí.421
Ngưu vương, quí, uy dũng
Bậc vô nhiễm, đại sĩ
Bậc chiến thắng, tịnh, giác
Ta gọi là Phạm chí.422
Bậc biết được đời trước
Thấy thiện thú, ác thú
Chứng cảnh giới vô sanh
Bậc hoàn thiện thắng trí
Bậc mâu ni viên mãn
Ta gọi là Phạm chí.423