Phật Học Phổ Thông.V.52.3.4 Thiền Tông

A- MỞ ĐỀ:

Sự Truyền Thừa Thiền Tông Ở Trung Hoa

1.- Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, sơ Tổ của Thiền Tôn ở Trung Hoa

Sau khi Ngài Bát Nhã Ða La, vị Tổ 27 của Thiền Tôn ở Ấn Ðộ, ấn chứng cho làm tổ thứ 28, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ở lại Ấn Ðộ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo.

Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Ðế (528 dl.) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa.

Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức bề ngoài, nên tổ Ðạt Ma từ giả vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xây mặt vào tường, tham thiền nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo ( xem quyển tổ Ðạt Ma, do Hương Ðạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là Ðạt Ma tổ sư thiền . trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài , đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Ðó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không.

Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Ðó là Ngài Thần Quang mà sau này được tổ Ðạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền Tôn ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu Huệ Khả.

Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, Tổ Ðạt Ma còn truyền lại bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị.

———————————————————————————————————————————-

2. Ngài Huệ Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền Tôn thứ hai ở Trung Hoa

Ngài Thần Quang, nghe danh tổ Ðạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi mãi ở ngoài hiên chùa; nhưng tổ cũng không đoái hoài đến. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình "Chặc tay cầu đạo". Lúc bấy giờ tổ Ðạt Ma mới xoay lại hỏi:

Ông đến đây cầu gì?

Ngài đáp: Con cầu pháp an tâm.

Tổ bảo: Ông đem tâm đến đây để ta an cho.

Ngài thưa: Con tìm tâm không được.

Tổ dạy: Ta đã an tâm cho ông rồi đó !

Ngài liền ngộ đạo. Tổ Ðạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài Huệ Khả:

Nguyên văn: Ngô bổn lai tư độ; Truyền pháp độ mê tình; Nhất hoa khai ngũ diệp; Kết quả tự nhiên thành.

3. Ngài Tăng Xán, vị tổ thứ ba của Thiền ở Trung Hoa

Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng xán làm vị Tổ thú ba của thiền tông ở Trung Hoa.

4. Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư của Thiền tổ ở Trung Hoa

Tổ Tăng Xán truyền pháp cho Ngài Ðạo Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp lại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu.

Ngài Hoằng Nhẫn ở núi Ðông Sơn, huyện Hùynh Mai.

Ngài Pháp Dung ở núi Ngưu Ðầu, cũng gọi là "Ngưu Ðâu Thiền".

5. Ngài Hoằng Nhẫn,vị tổ thứ năm của Thiền tôn ở Trung Hoa

Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây:

Một hôm Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư Thiền tông, thấy một ông già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi, có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy:

Ta đã già, ông đã già! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho! Ông già thưa:

Ðức Tứ tổ dạy: Ta sẽ ở nán lại cỏi đời để chờ ông. Vâng lời tổ dạy, ông già đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái ngồi giặt đồ bên bờ. Ông già hỏi:

Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không?

Cô gái thưa: Ông hãy hỏi cha mẹ cháu.

Ông già nói tiếp: Nếu cô bằng lòng thì tôi hỏi sau.

Cô gái trả lời: Dạ bằng lòng

Ðược lời, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác.

Còn cô gái kia, không có chồng mà từ đó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vã, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Ðứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mở miệng cười. Tổ nói: -Ta đang trông đợi ngươi đây!

Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé.

Tổ Ðạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn rồi truyền pháp cho Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền Tông. sau khi truyền đạo xong, Tổ Ðạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa).

(Độc giả đọc tới đây chắc cũng nghĩ, và có phần ái nái cho mẹ của tổ Hoằng Nhẫn? - Không chồng mà lại có con. Ngày nay, theo khoa học thì không thể có. Nhưng chúng ta chỉ biết là một Phật sử thôi, đừng tìm hiểu tại sao, nguyên nhân, mẹ của ông thế nào.v.v. Thì ta mới không bị trần cảnh vấy động.)

—————————————————————————————————————

6. Ngài Huệ Năng vị tổ thứ sáu của Thiền Tôn ở Trung Hoa

Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chữ, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một nhà phú ông. Trong khi chờ đợi Ngài lắng nge chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Ðến câu ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm , Ngài liền ngộ đạo.

Ðợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trồ khen ngợi và hỏi rằng? Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy? Tôi cũng muốn thọ trì tụng đọc như ông. Phú ông mách cho Ngài. Tại núi Ðông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngủ tổ, thường truyền Phật độ người, ông nên đến đó mà mà cầu đạo.

Ngài trả lời, tôi cũng muốn như thế lắm, ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao ! Phú ông bảo. Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi thật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.

Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.

Ngũ tổ thấy Ngài hỏi, Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì? Ngài đáp, con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật. Ngũ tổ thấy hình thù Ngài kì dị, nhưng căn tánh lại thông minh phi thường, có thể nối truyền Tổ sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả dờ quở to rằng. Ông là người mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì?

- Ngài Huệ Năng trả lời. Bạch tổ sư! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc. Ngũ tổ sợ trong công chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo. Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:

Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ sáu. Tin này được truyền ra rất mau chóng. Trong chúng mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán.

Trong chúng chỉ có Thượng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa củng được truyền tổ vị.

Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngủ Tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn hồi hợp đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm: " Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai biết".

Nguyên văn: Thân thị Bồ-Ðề thọ; Tâm như minh cảnh đài; Thời thời thường phất thức; Dật sử nhá trần ai.

Sáng nay, tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiện trên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục:

Ðây rồi! Kế tổ vị đây rồi! Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa! Nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, Ngài Huệ Năng cũng từ nhà trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ, Ngài Huệ Năng nói: - Còn đứng ngoài cửa rào. Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ. Ðã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào! Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo. Tôi cũng có một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ. Một người liền hoan hỷ viết hộ. Huệ Năng đọc bài kệ sau đây:

Nghe xong bài kệ, mọi người dều kinh ngạc. Không ngờ một người dốt nát như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế?

Ngủ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luận co thể nguy hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng. Một buổi chiều, Ngủ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng: - Gạo đã trắng chưa? (mật ý hỏi: Ðạo đã ngộ chưa? )

Ngài Huệ Năng đáp: - Bạch Tổ, gạo con giã đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng ( mật ý Ngài muốn nói: Ðạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền ).

Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên đầu chày ba cái rồi đi lên ( Ngũ tổ bảo Huệ Năng canh ba vào phòng ). Ngài Huệ Năng vào phòng Ngũ tổ. Ngài được Ngũ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tổ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo pháp ( Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).

Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu, nên gọi là "Nam đốn, Bắc tiệm" hay" Nam Năng Bắc Tú". Xem tiếp: Phật Học Phổ Thông.V.52.3.5 Thiền Tông (Phật giáo Trung Hoa)