Phật Học Phổ Thông.V.52.3.5 Thiền Tông (Phật giáo Trung Hoa)
A- MỞ ĐỀ:
Sơ tổ : Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ; Nhị tổ : Ngài Huệ Khả (Thần Quang); Tam tổ: Ngài Tăng Xán'.
Tứ tổ: Ngài Ðạo Tín; Ngũ tổ: Ngài Hoằng Nhẫn; Ngài Ngưu Ðầu thiền Sư; Lục tổ: Ngài Huệ Năng, Ngài[[Thần Tú]
Từ Ngài lục tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền thiền Tông không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây:
[Sửa] Hai Phái Và Năm Dòng Thiền
Ngài Huệ Năng từ khi lên làm lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nỗi tiếng hơn hết là Ngài Hoài NHượng ở nam nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Ðàn Kinh). Hai Ngài là mở đầu cho hai phái Thiền Tông là: phái Nam nhạc và phái Thanh Nguyên.
[Sửa] Phái Nam nhạc vè sau lại chia làm hai dòng là
Lâm tế và Quy ngưởng.
[Sửa] =Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là
Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa.
[Sửa] I.-Ngài Hoài Nhượng ( Ở Nam nhạc )
1.-Lâm tế
2.-Quy Ngưởng
[Sửa] II.-Ngài Hành Tú (Ở Thanh Nguyên)
3.-Tào Ðộng 4.-Vân Môn 5.-Pháp Môn
[Sửa] 1.Dòng Lâm Tế
a) Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau:
-Hoài Nhượng Thiền Sư; -Ðạo Nhứt Thiền Sư (họ Mã, tục gọi là Mã Tổ); - Bách Trượng Thiền Sư(Hoài Hải); - Huỳnh Nghiệt Thiền Sư (Hỳ Vân)- Lâm Tế Nghĩa Huyền.
b.-Sự truyền pháp (thiền cơ) của tông Lâm Tế:
Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền Tông khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hết to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo.
Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền sư:
Để cầu giác ngộ, một hôm Ngài Lâm tế hỏi Huỳnh Nghiệt: - Sao gọi là đại ý Phật pháp?
Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng( gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một cái. Ba lần Ngài Lâm tế hỏi, thì ba lần được đánh như thế. Ngài Lâm tế lấy làm bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Ðại Ngưu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm tế mới ngộ được tôn chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt. Từ đó về sau, dòng Lâm tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy.
Ngài Lâm tế nói: "Có khi hét một tiếng như bữu kiếm kim cương vương, có khi hét một tiếng như sư tử giậm chân , có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét ". bởi thế nên người đời gọi là" Lâm tế tứ yết " (bốn tiếng hét của Lâm tế).
Dòng Lâm tế sau lại chia làm hai nhánh: Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tông trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm tế.
[Sửa] 2. Dòng Quy Ngưỡng
Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn đất Ðàm châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch.
Ngài Quy Ngưỡng là một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài, không ai có thể lường được . ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tôn. sự truyền đạo của Ngài củng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đạo, Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng người, tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.
[Sửa] 3. Dòng Tào Ðộng
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: Ngài Thanh Nguyên Thiền Sư; Ngài Hy Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa Thượng; Ngài Dược Sơn Thiền Sư; Ngài Vân Nham Thiền Sư; Ngài Lương Giới Thiền Sư ở núi Ðông Sơn; Ngài Bổn Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn;
Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Ðông Sơn); Ngài lương giới cũng dùng pháp này để truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).
[Sửa] 4.Dòng Vân-Môn
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: a).Ngài Thạch-Ðầu Thiền sư; b).Ngài Thiên-Hoàng. c).Ngài Long-Ðàm. d).Ngài Ðức-sơn. đ).Ngài Tuyết-phong. e).Ngài Vân-Uyển Thiền-sư ở đất Thiền-châu, Vân-môn.
Cách truyền pháp của Ngài Vân-Uyển (Vân-môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ Dám. Nếu người cầu đạo ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ Di. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là Nhứt tự quán ( Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di .
[Sửa] 5. Dòng Pháp-nhãn
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: a). Ngài Tuyết-phong Thiền-sư. b). Ngài Huyền-sang Thiền-sư. c). Ngài Xa-hán Thiền-sư. d). Ngài Vân-ích Thiền-sư.
Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân-ích Thiền-sư là đúng sáu tướng trong kinh Hoa-Nghiêm sau đây:
- Tổng tướng: Tức là muốn nói đến chơn-như nhứt tâm.
- Biệt tướng: Tức là các duyên sanh khởi từ chơn-như nhứt tâm.
- Ðồng tướng: Các pháp đều đồng như nhau.
- Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng.
- Thành tướng: Dựng lập ra cảnh-giới.
- Hoại tướng: Vị trí không đồng tức là hoại tướng.
Xem tiếp: Phật Học Phổ Thông.V.52.3.6 Thiền Tông (Phật giáo Trung Hoa)