Chơn ngã thập tiểu luận! Cư sĩ tại gia.
(Bài làm số 07) http://chonnga.blogspot.com/
I. Mở đề:
Mười tiểu luận cho hàng cư sĩ tại gia là sự học hỏi, hiểu biết từ giáo lý chơn ngã trong kinh Pháp Cú.
Áp dụng vào đời sống hiện tại, vì nhân đó đã luận bàn ra 10 tiểu luận.
Luận bàn ở bài này không phải là Kinh Luật Luận bàn, hay giống như các vị giảng sư, Tri thức, Trí thức từng đã làm. Mà chính là học lại, ôn lại, thực hành, và thanh lọc các lý tánh bất thiện trong quá khứ, hiện tại thực hành theo lý tánh thiện, và ngăn ngừa hành vi bất thiện.
Thực dụng cho học tập đã chia ra từ 10 tiểu luận, thành lập ra 2 phần là.
Trắc nghiệm thân tâm và Thực thi thân tâm. Chính là.
a)- Ta đối với người,
b)- Người đối với ta,
c)- Nhơn ngã nhân sinh,
d)- Tự ngã nhân sinh.
II. Nhập đề:
Chơn ngã: Chơn: Thật, chánh, Ngã: Tâm, ý. Là tâm chơn thật, không phiền não, không ngã mạn, không thủ đoạn lừa đảo.
Người có tâm chơn ngã lòng luôn luôn biết đủ, như người đói ăn, khát uống. Là người không màng danh vọng. (Tiền, Tài, Danh, Sắc, Dục. Và không còn Tham, Sân, Si).
Luôn luôn giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh, có tâm từ bi.
Hành động điều có sự suy nghĩ đem lại sự lợi ích an vui cho đời.
Thập tiểu luận: là 10 quán xét phân biệt nhỏ.
Cư sĩ tại gia: Người tu tại nhà.. Sống đời có đạo (Biết thiện ác). Hay đời đạo song song (Làm đều hữu ít cho đời, mong cầu chánh Pháp tu thân).
Xem Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Chang 12. Có 20 điều khó. Thấy Phật, Nghe Kinh là khó. Thật vậy, chỉ cần mở Internet trang Phật-giáo thấy ngay. dể quá, nhưng người không tiếp thu được cho nên gọi là khó.
Nhưng chúng ta rất mai mắn, đã đọc được kinh này. Và thực hành theo các giáo Pháp. Nên không thể học suông một lần là đủ, hoặc lấy giáo Pháp đem ra luận bàn. Thì sự lợi ít không rốt ráo.
Vì kinh này thực thể là tâm kinh, mà tất cả các nhà tâm lý học, triết học, khoa học.v.v. Cũng đều vựa vào Chơn ngã tâm kinh này.
Phật kệ:
Các người hãy tự mình nỗ-lực,
Như-Lai chỉ là bực dẫn đường.
Thực-hành thiền-định cho thường,
Thoát vòng kiềm-toả Ma-vương buộc-ràng.
(Kệ số 276.)
Nhưng ngoài thời gian ấy ra ta phải làm gì? - Phải luôn luôn Tỉnh giác, Tỉnh giác phải học từ nơi kinh. Kinh dạy cho tất cã mọi người, mà mọi người thì có trình độ khác nhau, khác nhau tất có luận bàn, Chính là hồi quang phản chiếu. Cái học hỏi mới đạt thành.
Người tỉnh-giác, các căn điều-phục,
Đúng theo Chánh-pháp, cuộc mưu-sanh.
Việc làm cẩn-trọng, nhiệt-thành,
Ý, lời, hành-động cũng thanh-tịnh rồi.
Chẳng hề phóng-dật trong lối sống,
Danh-tiếng người nầy tăng-trưởng thật cao.
(Kệ số 024).
III. Chánh đề:
Tỉnh giác, hay bình tỉnh với tất cã loài hữu tình, với tất cã thuận/nghịch duyên trong sự sống hàng ngày. Trong sự sống chúng ta đâu hiểu hết về nhơn ngã nhân sinh từng cá nhân. Và tâm chơn ngã nhân sinh cũng không ứng dụng cho mỗi trường hợp.
Vì vậy muốn biết nhiều chúng ta cần phải áp dụng theo mỗi bài kệ trong kinh. Trước trắc nghiệm, sau là thực thi.
Trắc Nghiệm Thân Tâm: Có tất cã là 423 kệ học ôn lại trong 5 tiểu luận.
1.Kinh Pháp Cú.
2. Văn vần, thơ thuận, thi kệ.
3. Văn Tư Tu Tự Ngã Luận.
4. Nhơn Thiện/ác, Quả Thiện/ác.
5. Nhơn Quả Pháp Cú Luận.
Thực Thi Thân Tâm:
06. Tri Nhơn Pháp Cú luận = Xét người hành pháp luận giải kệ vấn đáp, (thí dụ: Tri nhơn tri diện bất tri tâm.)- Chú thích này rất khó luận giải, nếu không khéo, thành chỉ trích chê bai, phải mang tai họa vào thân. Chú thích bằng Văn,Tư,Tu huệ mà nhiếp phục. 1- Nhìn Y-Báo thế nào, quán Chánh-Báo thế ấy về phiến diện bề ngoài, 2- Thấy hành động tạo tác thiện ác của người để quán lại hành động tạo tác thiện ác của mình, 3- Ngừa bệnh hơn trị bệnh, gần mực thì đen gần đèn thì sáng v.v.
07.Tri Ngã Pháp Cú luận = Xét Danh Sắc Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp, tương tự như Hồi quang phản chiếu. Chú thích những việc đã qua, việc hiện nay và việc ngày mai v.v.
08. Đạo Đời Pháp Cú chuyện luận = Chuyện đạo đời Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp. Chú thích lại chuyện của mình, của người, chuyện đạo có nội dung trong bài luận v.v.
09. Dụ Ý Pháp Cú luận = Thí dụ ý Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp. Chú thích, thí dụ về người vật, Hữu vi vô vi, đất nước gió lửa. 2- Dụ ý sao cho dể nhớ, dể hiểu v.v.
10. Chân Thiện Mỹ, Ý Pháp Cú luận = Chân thật nhứt, hoàn thiện nhứt, đẹp trong lẫn ngoài nhứt, ý nghĩa đầy lời hay ý đẹp nhứt (hoàn thiện hảo ý), Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp. Chú thích lại câu ca dao, tuc ngữ, Nho, Kệ sao cho dể nhớ, dể hiểu. (Vì Pháp Vị chỉ một vị, mà người đang thọ hưởng Pháp Vị lại khác nhau.)
Luận bàn chỉ được tốt nơi học giả, riêng hành giả luận đây là tìm rõ nguyên nhân để biết chắc chắn mà thực hành. Chính là trắc nghiệm và thực thi thân tâm trong đời sống hàng ngày.
------------------------------
Quyết Nghi: Luận Bàn.
Luận bàn kiến học bằng trí thức, bên hàng cư sĩ Tịnh độ thì không được tốt. Vì muốn minh tâm, phải thực hành theo Tín Hạnh Nguyện.
Bên hàng cư sĩ Thiền tông luận bàn phá chấp lại là dao hai lưỡi. Vì ta còn tâm nhơn ngã, kiến thức so sánh, cao thấp của thế gian. (là người mới nhập môn, Nội ngoại pháp hữu vi chưa thông suốt, Thiền định còn thấp chưa phát sanh tuệ giác) Nhẹ thì bịnh trầm cảm, bỏ đạo, nặng thì sa vào địa ngục vì sự phá chấp sai lầm, vì không có thiện căn.
Luận bàn: Là ý kiến cá nhân của một người, hay của một nhóm người. Khi chưa thành lập làm một, hay thống nhất. Còn gọi là hợp, hội, phát biểu ý kiến hay giã thuyết.v.v. Cũng gần cùng nghĩa tương tự như: Thuyết Pháp, Vấn đáp.
Luận Bàn giống như con dao hai lưỡi, là chiến tranh lạnh hay đấu võ miệng. Kết quả: Chiến thắng mang thù hận, thấp bại chịu khổ đau. Vì
Cái đúng, tốt thì sẽ đúng, tốt hơn (trở thành hiệp, hội, đạo.v.v.).
Còn sai, xấu thì sẽ xấu hơn. (Xã hội sẽ mục nát vì thiếu văn hóa, đạo đức, người sẽ khổ sở hơn vì cái cố chấp, bảo thủ, cuồng loạn đó).
Sách sử đã ghi chép lại nhiều trung thần chỉ vì khuyên vua mà bỏ mạng.
Những văn sĩ cải cách đất nước mà thành thân bại, danh liệt. Chính vì không cân bằng được Khế lý, Khế cơ. Cùng Chánh Báo, Y Báo.
Luận bàn có lợi ích!
Thứ nhứt cho người mới học.
Thứ hai vì muốn ôn lại bài,
Thứ ba học hỏi thêm kiến thức,
Thứ tư là học lại kinh nghiệm.
Thứ năm áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Luận bàn không lợi ích!
Thuận luận khác ý. Nghịch luận khác ý. Thuận luận cùng ý. Nghịch luận cùng ý.
1. Thuận luận khác ý! – Thí dụ trong một hiệp hội cứu trợ nhân đạo, Nhân viên, ban đều hành. Thảo luận, ban hành ra nhiều cách hợp tình, hợp lý. Nhưng người không đủ thiện căn, đạo đức. Khi thấy lợi thì làm nghịch lại với ban đều hành (là khác ý).
2. Nghịch luận khác ý!- Chúng ta hãy xem phim, hay trong báo thử những hạn người này là ai? -Và thông thường nhất trong viễn đàn. Hay khác tông phái, hoặc khác đạo.v.v.
3. Thuận luận cùng ý! – Thí dụ: Cha mẹ dạy con, thầy dạy trò, chồng dạy vợ, anh dạy em. Vì người dạy cũng như người nghe biết theo chánh Pháp theo Khế Lý, khế Cơ. Có Chánh Báo, Y Báo. Và thông thường người theo Tịnh độ tông.
4. Nghịch luận cùng ý! – Thí dụ: Cùng một dân tộc, cùng một gia đình thì binh vực lẩn nhau về tình người, nhưng ý kiến thì không giống nhau. Hoặc cùng một đạo Phật mà chia ra Nam Tông, Bắc Tông; Đại thừa, tiểu thừa. Nhưng cùng chung tạo đoàn kết, cùng ý đoạn khổ, lìa ái. Nhưng hành động có nghịch duyên khác nhau.
Xem những thí dụ dưới đây.
Bài văn 1:
Kinh Pháp Cú này không đem ra bàn luận rất đúng. Cho người đã học và đang thực hiện pháp. Hiểu và áp dụng vào đời sống hàng ngày. Cũng chưa đủ, cần phải kiên trì thiền định (Huân Tu). Tự đoạn trừ đau khổ. Là bài văn 1.
Tóm lại:
Chúng ta là người mới học đạo thì phải càng nên tránh tranh chấp luận bàn thì ta mới mau chóng tiến tới hữu vi niết bàn (tìm vui, đoạn khổ).
Khi chúng ta phải bắc buộc luận bàn, khuyên nhủ, thuyết tháp hay vấn đáp ai. Hãy nên..
1. Xem lại truyện đạo: Người mù rờ voi.
2. Phật học Phổ Thông: Khóa hai bài thứ 8. Tinh thần Tứ Nhiếp Pháp. Là Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự nhiếp.
3. Phật học Phổ thông: Khóa hai bài thứ 9. Tinh thần Lục hòa. Là Thân hòa đồng trú (ở), Lời nói hòa đồng (không cao thấp, sĩ nhục, to tiếng, ngã kiến), Ý hòa cùng vui, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân.
4. Khế lý, Khế cơ.
5. Chánh Báo, Y Báo.
6. Nghĩa Pháp Từ Thuyết cần thông suốt, có thứ tự.