Phật Học Phổ Thông.V.47: Lịch Sử Phật Giáo Ấn Ðộ

A- MỞ ĐỀ:

Khao khát cái tuyệt đối, khinh thường cái cái trương đối; mong cầu cái vĩnh viễn trường tồn, ruồng bỏ cái biến chuyển vô thường, người Viêt Nam nói riêng và người Á Châu nói chung đã được huân tập mấy ngàn năm trong một thái độ tư tưởng như trên, nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biên chuyển vô thường của sự thế, mà mục đích là mong ghi chép một cách trung thành những gì đã mất hút trong bóng tối của thời gian.

Quan niệm khinh thường lịch sử ấy đã đem lại cho chúng ta nhiều điều tai hại không nhỏ. Chúng ta đã bỏ mất bao nhiêu bài học quý giá mà ông cha chúng ta mua với một giá rất đắt; chúng ta đã mất rất nhiều liên lạc với quá khứ, tắt mất đường thông cảm với người xưa, và đang lạc loài trong hiện tại vì không biết nên bỏ con đường nào và nên theo con đường nào. Người ta thường nói rất đúng: một dân tộc không quá khứ, thì cũng khó mà có tương lai.

Riêng trong phạm vi Phật Giáo chúng ta, tìm về cho đúng nguồn gốc, thử vạch lại con đường đi truyền giáo của ông cha, xây dựng lại mô hình của một thời đại huy hoàng của Phật Giáo, đó là những công việc vô cùng khó khăn, nhọc mệt.

Nhưng mặc dù mệt nhọc, khó khăn, không lẽ thấy vết xe đổ của người xưa mà nay chúng ta không tránh, cứ nhắm mắt đi càn? Người xưa đã xem thường lịch sử, ngày nay trái lại, chúng ta phải dành cho nó một địa vị quan trọng. Có thấy rõ được nguồn gốc, sự phát triển, những thời đại thịnh suy của môt tôn giáo, chúng ta mới hiểu rỏ được giá trị chân thật của tôn giáo ấy. Nhất là nếu chúng ta là những người có nhiệm vụ truyền bá giáo lý của Phật Ðà, thì hơn ai cả, chúng ta phải học lịch sử Ðạo Phật để tìm hiểu lẽ thịnh suy, nguyên nhân những thành bại của công cuộc hoằng dương chánh pháp trên khắp năm châu, hầu bắt chước những điều hay có lợi cho Ðạo, bỏ những điều dở, có hại cho Ðạo, để Phật Pháp được hoằng truyền mãi mãi với thời gian.

Vậy trước tiên, chúng ta hãy trở về nguồn, tuần tự đi theo bước chân trên đường truyền giáo, từ khi Ðức Giáo chủ Thích Ca mới xuất thế ở Ấn Ðộ, dần dần qua Trung Hoa, rồi đến Việt Nam, để cuối cùng có một ý niệm tổng quát về hiện tình Phật Giáo ở nước nhà và trên Thế Giới phức tạp ngày nay.

—————————————————————————————————————————————————

 

B. Chánh Ðề

Phật Giáo Ở Ấn Ðộ

I.- Sự Khai Nguồn Của đức Giáo Chủ Thích Ca

1.- Tình trạng xã hội đen tối và tư tưởng phức tạp ở Ấn Ðộ khi đức Phật xuất thế

Xét về sự bất công trong xã hội trên 2500 năm trước đây, thì xã hội Ấn Ðộ có lẽ là một trong những xã hội có một chế độ xã hội và chính trị bất công nhất. Dân chúng Ấn Ðộ thời bấy giờ bị phân chia rất nhiều giai cấp khác nhau, tựu trung có thể liệt vào những giai cấp chính sau đây:

a) Bà la môn (Brhmanes) gồm những Giáo sĩ, những người giữ quyền thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái. Họ tự nhận mình là hạng cao thượng, sinh từ lỗ miệng Phạm Thiên (Brahma) hay Phạm Thiên cầm cương lãnh đạo tinh thần dân tộc, nên có quyền ưu tiên được tôn kính, và an hưởng cuộc đời sung sướng nhất.

b) Sát đế ly (Kastryas) là hàng vua chúa quý phái, tự cho mình sinh từ cánh tay Phạm Thiên, thay mặt cho Phạm Thiên nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng.

c) Vệ Xa (Vaisyas) là nhữnh hàng thương gia chủ điền, tin mình sinh ra từ bắp vế Phạm Thiên, có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế trong nước (mua bán, trồng trọt, thu huê lợi cho quốc gia ).

d) Thu Ðà La ( Souđras) là hàng Hạ tiện, nô lệ tin mình sinh từ gót chân Phạm Thiên, nên thủ phận làm khổ sai suốt đời cho các giai cấp trên.

Ngoài bốn giai cấp trên, còn có một hạng người hạ tiện nhất là giống Ba ri a (Pariahs) giống dân tộc mọi rợ, bị coi như sống ngoài lề xã hội loài người, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, vô cùng khổ nhục, tối tăm.

Năm giai cấp này mặc y phục màu sắc khác nhau. Mỗi giai cấp sống theo luật lệ hệ thống cha truyền con nối, không được thay đổi nghề nghiệp hay cưới hỏi lẫn nhau, và không được di chuyển chổ ở khác. Theo luật Bà la môn, chỉ ba giai cấp trên có quyền đọc kinh, học đạo, còn hai giai cấp dưới thì đời đời chỉ làm nô lệ cho ba giai cấp trên mà thôi.

Hạng Bà-la-môn hưởng sung sướng nhàn hạ bao nhiêu, thì đám người hạ tiện ở dưới lại khổ sở, nhục nhã bấy nhiêu. Sự bất công xã hội thật không thể nào diễn tả nổi. Giữa người với người, thật không có một nhịp cầu thông cảm nào, nguồn yêu thương tắc nghẹn, giai cấp này đối với giai cấp khác là địch thủ mà càng bóc lột được bao nhiêu là càng tốt bấy nhiêu.

Về phương diện tôn giáo, Triết học, tư tưởng thì xã hội Ấn Ðộ thời bấy giờ cũng diễn ra một cảnh tượng vô cùng hỗn tạp.

Tóm lại, xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ là một xã hội về vật chất thì đang rên siết dưới ách bất công, áp bức, về tinh thần thì đang quay cuồng, điên đảo trong những luồng tư tưởng lý thuyết rối reng, tà đạo. Xã hội ấy đang khao khát tình thương bình đẳng, đang mong chờ được chói rạng dưới ánh sáng của trí huệ.

Trong hoàn cảnh ấy, Ðức Phật Thích Ca đã xuất hiện đúng lúc để cứu vớt cõi đời sầu khổ này.

—————————————————————————————————————-

2. Ðức Phật Thích Ca, là vị giáo chủ của Ðạo Từ bi Trí huệ

a) Niên lịch Giáng Sinh

Như chúng ta đã nói ở phần mở đề, người Phật Tử chúng ta không cho vấn đề lịch sử là quan trọng; lại thêm trải qua một thời gian lâu dài từ khi Ðức Phật xuất hiện đến nay, tài liệu bị thất lạc nhiều, nên có nhiều thuyết khác nhau về niên lịch Giáng Sinh của Ðức Phật.

Tuy thế, ngày nay để được thống nhất toàn vẹn về niên lịch Phật Giáo thế giới họp tại Ðông Kinh năm 1952, đã thỏa thuận rằng ngày trăng tròn tháng hai của xứ Ấn Ðộ (tức ngày rằm tháng tư âm lịch) năm 624 trước Jésus Christ ra đời là ngày Ðản sanh của Ðức Phật Thích Ca. Như vậy, tính đến năm nay (1964) thì Ðức Phật Giáng sinh đã được 2588 năm (1964+624). Nhưng nếu chúng ta thấy ghi Phật lịch 2508 (tính đến năm Tây lịch là 1964) là vì Tổng hội Phật Giáo Quốc Tế lấy năm nhập Niết bàn của Ðức Phật làm năm đầu kỷ nguyên, chứ không phải lấy năm sinh (2588-80 năm đời Ðức Phật =2508).

=======================

b) Quốc độ và dòng họ

Thời bấy giờ xứ Ấn Ðộ gồm nhiều tiểu quốc, khi hòa khi chiến với nhau như đời Chiến quốc bên Tàu. Tuy thế, đại cuộc vẫn thu về nước Ma-kiêt-đà (Magatha) như nhà Chu ở Trung Quốc đối với các nước chư hầu vậy. Nước này lớn nhất ở phía nam sông Hằng Hà (Gange) làm trung tâm cho toàn xứ Ấn Ðộ. Ở phía Bắc xứ Ấn Ðộ, gần dưới chân dãy núi Hy-mã-lạp-sơn (Bây giờ là nước Népal) có một Quốc độ tên là Ca tỳ la vệ (Kapilavastu). Vua trị vì nước này là Tịnh Phạm Vương (Sudhodana) thuộc giai cấp Sát đế lỵ (Kastrya) dòng Kiều Tất La (Gotama) là một đại quý tộc ở Ấn Ðộ. Bà Hoàng Hậu, vợ của vua Tịnh Phạn Ma Gia (Maha-maya) đến 45 tuổi mới có thai.

Theo tục lệ Ấn Ðộ, gần ngày sinh, Hoàng Hậu trở về nhà cha mẹ là vua A Nậu Thích Ca (Anucakya) ở nước Câu Ly (Koli). Một buổi bình minh, Hoàng Hậu ra dạo chơi trong vườn hoa Lâm Tỳ Ny (Lumbini) và sinh hạ Thái tử ở đấy. Thái tử được đặt tên là Tất Ðạt Ða (Siddharta) và theo tục lệ Ấn Ðộ lấy họ mẹ là Thích Ca (Shakiya). Sau khi đã sanh Thái tử Tất Ðạt Ða được 7 ngày, Hoàng hậu Ma Gia tạ thế. Em gái của hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề (Maha-Prajapati) thay chị nuôi Thái Tử Tất Ðạt Ða cho đến lớn.

Thái tử Tất Ðạt Ða, sau này tức là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị Giáo chủ từ bi trí huệ của Ðạo Phật.

=======================

c)Hình tướng và tư chất

Hình tướng của Thái Tử có những nét đặc biệt hơn người thường: Ngài có ba mươi hai tướng quý tám mươi vẽ đẹp. Cho nên khi xem tướng Ngài, Ðạo sĩ A-Tư-Ðà (Asita) đã tiên đoán sau này Ngài sẽ thành Phật, làm chủ cả tam thế, dắt đường chỉ nẻo cho chúng sinh thoát khỏi bể khổ luân hồi.

Thuở thơ ấu, tư chất thông minh và tánh tình đức độ của Ngài đã biểu lộ một cách rỏ rệt. Những Ðạo sĩ thông thái, những Võ sĩ tài danh điều được Tịnh Phạn vương mời đến dạy cho Thái Tử; và chẳnh bao lâu Thái Tử đã trở thành một vị văn vỏ toàn tài, không ai sánh kịp.

Cùng một nhịp với tài năng, đức độ của Ngài cũng được phát triển một cách vô cùng nhanh chóng và sâu rộng. Tình thương của Ngài lan tràn, bao phủ tất cả mọi vật mọi người.

cũng do tư chất thông minh nhìn thấy rỏ được tánh cách giả dối, vô thường của sự thế, và lòng thương vô hạn, không thể ngồi yên để nhìn thấy sự rên siết, khổ đau của cõi đời, nên tâm hồn của Ngài không bao giờ được yên ổn. Ngày đêm, Ngài luôn luôn nghĩ đến phương pháp cứu khổ cho chúng sinh.

Vua Tịnh Phạn muốn làm khuây khỏa lòng con, truyền dựng lên một cung điện nguy nga, bày đủ trò đàn ca múa hát bao vây lấy Thái Tử, và còn cưới cho Ngài một người vợ tuyệt thế giai nhân là nàng Da Du Ðà La (Yasodhara) nhưng Thái Tử vẫn không khuây nổi buồn mênh mông của cõi thế.

==============

d) Xuất-gia

Năm ngài mười chín tuổi (có chổ nói 29 tuổi) sau khi đã để lại cho Tịnh Phạn vương một người cháu nội là La Hầu La(Lahula). Thái Tử quyết định rời bỏ Hoàng gia, từ bỏ cuôc đời vinh hoa phú quý, trốn ra khỏi hoàng thành, cắt tóc vào rừng sâu mong được yên tĩnh để tìm nghĩ phương pháp cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng khổ ải và đưa họ lên bờ giác ngộ vĩnh viễn yên vui.

Ban đầu Ngài phải đi tìm học hỏi với những đạo sĩ danh tiếng nhất Ấn Ðộ thời bấy giờ, nhưng rồi Ngài nhận thấy chân lý và lối tu hành của họ cũng không có gì là siêu thoát.

Từ đó, Ngài đi vào ẩn trong dãy núi Tuyết Sơn, phải tự mình tu luyện để tìm ra cái đạo giải thoát như ý Ngài mong muốn.

Trong sáu năm trời tu khổ hạnh, Ngài cũng chưa thu thập được kết quả gì khả quan. Bấy giờ, Ngài mới đi đến núi Tượng Ðầu (Gajasirsa) bên bờ sông Ni Liên Tuyền. Sau khi tắm xong Ngài thọ bát cháo sữa (đề-hồ) của mấy nàng mục nữ cúng dường. Rồi Ngài đi đến dưới gốc cây Tất bát la (Pippale, sau này người đời gọi là cây Bồ đề nghĩa là cây giác ngộ, để kỷ niệm sự giác ngộ của Ðức Phật dưới gốc cây ấy). Ngài ngồi thiền định ở đó và thề rằng:

"Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy".

==================================

d)Thành đạo và thuyết pháp độ sinh

Ngài ngồi thiền định dưới gốc cây Tất bát la, cho đến ngày thứ bốn mươi chín, lúc sao mai vừa mọc, thì Ngài hốt nhiên đại ngộ, thấy được chân lý của vũ trụ và nguồn gốc sinh tử của chúng sinh. Ngài đã thành Phật với danh hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakiya  Muni Buddha).

Sau khi thành đạo trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm (Có chổ chép là bốn mươi lăm năm) đức Phật chu du khắp cả các lưu vực sông Hằng, đem đạo vô thượng của ngài giáo hóa chúng sinh, không phân biệt già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, màu da, chủng tộc, trí thức hay ngu si.

Nhờ lòng từ bi không bờ mé, đức hy sinh rộng lớn vô biên, Ngài đã giảng nói pháp trên năm trăm hội, hóa độ vô số quần sinh, thoát vòng mê mờ khổ não. Và do đó, đạo Phật được thành lập trên cõi đời.

====================

e)Phật nhập Niết bàn

Vào năm 554 Trước tây lịch (tính đến năm 1964 tức là: 1964+554=2508 năm) Ðức Phật bây giờ đã 80 tuổi. Nhận thấy chiếu nguyện của mình đã thực hiện, nhiệm vụ độ sinh của mình đã đầy đủ, một hôm, đức Phật cho hội đệ tử của Ngài lại, ban những lời di chúc cặn kẽ, rồi từ giã cõi đời một cách bình thản, giản dị. Giõng Ngài móc ở giữa hai cây bông vải (Cala) ngoài châu thành Câu thi-la (Kusivagarâ),

Như thế ấy, một cuộc đời vô cùng vĩ đại đã xuất hiện và biến ẩn như một luồng ánh sáng mầu nhiệm khi đã đánh dấu ba giai đoạn lớn một cách vô cùng giản dị và đầy ý nghĩa:

-Ra đời bên cạnh một gốc cây

-Thành đạo bên một gốc cây

-Và lìa đời ở giữa hai cành cây !

—————————————————————————————————————————-

II.-Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo Tại Ân Ðộ

1.-Bốn thời kỳ kiết tập kinh điển

Bốn tháng sau khi Ðức Phật nhập niết bàn, Ngài Ma Ha Ca Diếp (MaHa Kasypa) thay Phật thống suất tăng chúng đã triệu tập một hội nghị gồm khoảng 500 đại đệ tử của Phật, ở thành Vương Xá ( Rajagrika) để giảng tụng lại những giáo lý Ðức Phật đã dạy.

Trong hội nghị đầu tiên này, Ngài Ma Ha Ca Diếp được suy tôn ngồi ghế chủ tọa; Ngài A-Nan, là Vị đệ tử thường theo Phật nghe nhiều và nhớ lâu, được cử ra tụng lại những lời dạy của Phật; còn Ngài Ưu Ba y (Upali) là vị đệ tử thông suốt và nghiêm trì giới luật nhất, được cử ra tụng giới luật. Hội nghị này đã kết thúc sau bảy tháng làm việc và 500 vị đại đệ tử đều công nhận đó là những lời chân thật của Phật.

Ðại hội này được mệnh danh là "Kỳ kết tập thứ nhất ".

====================

Kỳ kết-tập thứ hai

Khoảng một trăm năm sau khi Phật nhập diệt , vì có sự bất đồng về giới điều, nên tăng chúng chia làm hai nhóm, họp riêng ở hai thành Vaisaly và Vàjji.

Nhóm tăng sĩ họp ở thành Vaixaly do sự triệu tập của Ngài trưởng lão Yasa thọ 165 tuổi, gồm có 12.000 Tăng sĩ, nhưng trong số ấy chỉ có 700 vị lão thành mới có quyền biểu quyết. Hội nghị này họp dưới quyền chủ tọa của Ngài Revala và đồng thanh biểu quyết:

"Không nên sửa đổi chổ sai những điều luật của Phật đã truyền đạo mặc dù Ðức Thế Tôn đã có di huấn rằng nếu chư Tăng đồng ý chung với nhau là thấy điều luật nào của Như Lai đã chế định là ít quan trọng và không thể thụ trì được nữa, thì được phép sửa chửa".

Trong khi ấy thì nhóm Tăng sĩ ở thành Vajji họp dưới quyền chủ tọa của đại đức Vajjiputra lại chấp thuận.

Trong kỳ kết tập thứ hai này chỉ đặt trọng tâm trong việc giải quyết về giới luật mà thôi. Tuy thế, Tăng đồ cũng chia thành hai phái rõ rệt. Phái do Ngài Yasa triệu tập và giữ đúng giới luật của Phật, thì gọi là phái nguyên thủy (Théravadins) hay Thượng tọa bộ.

Phái do Ngài Vajjiputra sữa đổi mười điều luật của Phật thì gọi là phái Tiến thủ, hay là Ðại chúng bộ (Mahasanghikas).

Từ đấy, Phật Giáo chia ra hai phái rỏ rệt và là cội rể cho hai mươi tôn phái sau này.

=====================

c). Kỳ kết tập thứ ba

Hơn hai thế kỷ sau ngày Phật nhập diệt ( 274 năm trước tây lịch), Hoàng Ðế A Dục lại triệu tập 1000 vị Ðhoại trưởng lão Uyên thâm để kết tập kinh điển tại thành Pataliputra ( tức là Bihar và Patra ngày nay ) . Sau chín tháng làm việc, hội nghị đã hòan thành công tác kết tập kinh điển, ngòai ra lại còn chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những hạng Tu sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ luật.

=====================

d)Kỳ kết tập thứ tư

Vào khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt, nghĩa là vào thế kỷ thứ nhất Tây Lịch, Vua Ca-Ni-Sắc-Ca (Kaniska) một vị Ðại Ðế Ấn Ðộ, có tâm hộ pháp chẳng thua gì Vua A Dục, đã triệu tập 500 vị Bồ Tát, 500 vị Tỳ kheo cùng 500 người cư sĩ tại gia, tại thành Ca-Thập-DiLa để kết tập kinh điển dưới quyền chủ tọa của hai Ngài Hiếp Tôn Giả Thế Hữu.

Kỳ kết tập này gọi là kỳ kết tập lần thứ tư.

Trong bốn kỳ kết tập này thì hai kỳ đầu chưa cần đến sự biên chép, nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là của Phật đã nói ra, hay xét những ý nghĩa nào là đúng với chánh pháp.

Ðến thời kỳ thứ bathứ tư mới dùng đến văn tự để biên chép thành sách vở. Trong sự biên chép này, chư Tăng chia làm hai phái: Phái Nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái Bắc thì ghi bằng văn phạn.

—————————————————————————————————————————-

2.Nam phương và Bắc-phương Phật Giáo

Như trên đã nói, vì kinh điển được ghi chép bằng hai thứ văn: Pali Phạn, nên những xứ nói tiếng Pali thì kinh điển bằng Pali được truyền bá, còn những xứ dân chúng nói tiếng Phạn thì kinh điển bằng tiếng Phạn truyền bá. Nếu lấy Trung Ấn Ðộ là cứ điểm, thì những xứ phía Nam Ấn Ðộ và lan ra đến những xứ Tích lan, Miến điện, Thái lan, Lào, Cao miên ...đều theo kinh điển Pali, nên cũng gọi là Nam phương Phật Giáo.

Còn những xứ thuộc Trung Ấn Ðộ, Bắc Ấn Ðộ Nêpal, Tây tạng, Trung hoa, Việt nam, Cao ly, Nhật bổn...thì lại căn cứ theo kinh điển chữ Phạn, và được gọi là Bắc phương Phật Giáo.

Nam phương hay Bắc phương Phật Giáo đều thờ chung một đấng giáo chủ là Ðức Phật Thích ca và đều tuân theo những yếu điểm mà Phật đã dạy. Tuy thế, tùy theo căn cơ, tâm lý và ảnh hưởng văn hóa cùng đời sống của dân chúng có khác nhau giữa Nam và Bắc phương mà phương pháp tu hành và sự phát huy giáo lý có điểm dị và đồng.

—————————————————————————————————————————

3.Sự phát triển của Bắc Tông Nam Tông

Ở đây vì chúng ta còn đang ở trong phần lịch sử truyền bá Phật Giáo, nên chưa vội đề cập đến sự sai khác giữa giáo lý Bắc Tông, Nam Tông. Chúng ta hãy phân biệt vấn đề và nói đến sự phát triển của hai phái ấy ở Ấn Ðộ như thế nào mà thôi.

Sự phát triển của các bộ phái Nam Tông.- Như chúng ta đã biết, nguyên nhân chia ra làm hai bộ phái, vì trong kỳ kết tập lần thứ hai, về vấn đề giới luật có chổ bất đồng, Tăng chúng mới chia ra làm hai phái:

Trong khoảng thời gian 100 năm sau kỳ kết tập lần thứ hai ấy, Ðại chúng bộ lần lượt chia ra tám bộ phái như sau:

-Nhất-thuyết-bộ Lần thứ nhất chia làm ba bộ -Thuyết-xuất-thế-bộ -Kê-dẫn-bộ

Lần thứ hai chia ra một bộ nữa là -Ða-văn-bộ

Lần thứ ba chia ra một bộ nữa là -Thuyết-giả-bộ -Chế-đa-bộ

Lần thứ tư chia ra một bộ nữa là Tây-sơ-bộ Bộ nữa là: Bắc-sơn-bộ

Như thế là từ một bộ phái chính là Ðại chúng bộ mà lần lượt chia làm tám chi bộ (cộng là 9 bộ).

Trong lúc ấy thì bên Thượng tọa bộ ban đầu sống một cách yên ổn trong núi Ca-Tháp-di-la, nhưng theo với thời gian, cũng phân phái dần, và cuối cùng gồm những bộ như sau:

1. Thuyết-nhứt-thế-hữu bộ 2. Ðộc-tử bộ 3. Pháp-thượng bộ, Thượng-Tọa-Bộ 4. Hiền-vị bộ

5. Chánh-thượng bộ 6. Mật-lâm-sơn bộ 7. Hóa-địa bộ 8. Pháp-tạng bộ 9. Âm-quang bộ 10.Kinh-lượng bộ

Tóm lại, bên phía Thượng Tọa bộ, từ căn bản (Thượng Tọa bộ) đến chi nhánh, gồm cả thảy 11 bộ.

———————————————————————————————————————————

b) Sự phát triển của Bắc Tông

Mặc dù trong giáo lý của Ðức Phật có gồm cả ý nghĩa Nam Tông lẫn Bắc Tông, nhưng trong bốn, năm thế kỷ đầu của Phật lịch, vì căn cơ của Tăng sĩ và tín đồ Ấn Ðộ thích hợp với Nam Tông hơn, nên giáo phái Nam Tông được phát triển mạnh. Nhưng từ thế kỷ thứ nhất Tây lịch, hay thứ sáu Phật lịch, giáo lý Bắc Tông bắt đầu phát triển mạnh ở phía Bắc Ấn Ðộ và dần dần lan rộng ở Bắc phương.

Công đầu tiên, nhờ đó Ðại thừa Phật Giáo được phát triển mạnh là của Ngài Mã Minh.

Ngài Mã Minh, người ở Bắc Ấn Ðộ, sanh vào thế kỷ thứ nhất Tây lịch, lúc đầu theo ngoại đạo, có tài biện bác, sau vì biện luận thua Ngài Hiếp Tôn Giả, nên mới quy y theo Phật Giáo. Chính Ngài là tác giả bộ luận Ðại thừa Khởi tín, Ðại thừa Trang nghiêm kinh luận, và nhờ sự hộ pháp đắc lực của Vua Ca-Ni-Sắc-Ca, Ngài đã phục hưng và truyền bá môt cách mạnh mẽ giáo lý Bắc Tông.

Một trăm năm sau, nối tiếp sự nghiệp của Ngài Mã Minh, có Ngài Long Thọ ở nước Tỳ-Dạt-La (Nam Ấn Ðộ) có Thiên Tư rất tốt, lúc còn nhỏ đã thông hiểu những kinh giáo của Bà-La-Môn, Phệ-Ðà..., tinh thông cả Thiên văn, địa lý, y học, số học. Ban đầu Ngài tu theo Nam Tông, sau Ngài nghiên cứu giáo lý Bắc Tông và làm ra những bộ luận Trung quán, Thập-nhị-môn, Trí-độ...để phá-trừ tà-chấp, chỉ rỏ chánh lý Bắc Tông, và đi chu du các nước để hàng phục ngoại đạo. Bắc Tông nhờ đó ngày một thêm tỏ rạng.

Nối tiếp Ngài Long Thọ có hai vị đệ tử là Ngài Long Trí và Ðề-bà là những người có công lớn trong việc hoằng pháp PG Bắc Tông.

Sau khi Phật nhập Niết bàn hơn 900 năm, nghĩa là khoảng thế kỷ thứ tư Tây lịch, có hai anh em Ngài Vô trước Thế thân, sanh ở Bắc Ấn Ðộ, trước theo Bà-la-môn giáo, sau quy y theo Phật.

Ngài Vô-trước là anh, giác ngộ giáo lý Bắc Tông trước, còn Ngài Thế-Thân ban đầu tu học giáo-lý Nam Tông, sau nhờ anh là Ngài Vô-trước hướng-dẫn sang Bắc Tông. Từ đó hai anh em tích-cực phát-dương giáo nghĩa Ðại thừa Duy thức và làm ra các bộ: Hiển-Dương Thánh-giáo luận, Nhiếp-Ðại-thừa luận...cả hai Ngài đều chủ trương về Duy-thức, biên rỏ cái lý:"Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức". Do đó, học thuyết của hai Ngài gọi là Pháp-tướng Duy-thức-học, và hai Ngài được xem như là khai tổ của Pháp tướng Duy thức học.

Ảnh hưởng của hai Ngài nối tiếp lan rộng sang đến thế kỷ thứ 10 Tây-lịch và làm cho Bắc Tông Phật Giáo ở Ấn Ðộ được phát triển một cách rực rỡ, và lu mờ giáo lý Nam Tông.

————————————————————————————————————————————

4- Sự suy-tàn của Phật Giáo tại Ấn Ðộ

Vào khoảng 2000 năn sau khi Phật nhập diệt, đạo Phật ở Ấn Ðộ lu mờ dần và hầu như không còn vang bóng gì nữa. Nguyên nhân của sự suy tàn ấy có thể quy vào ba lý do sau đây:

a. Ðạo Bà-La-Môn, trước thời kỳ Ðức Phật xuất hiện là một Tôn giáo độc tôn ở Ấn Ðộ. Nhưng từ khi đạo Phật ra đời và càng ngày càng được phát triển mạnh vì tinh thần từ bi bình đẳng và ánh sáng rực rỡ của trí huệ. Ðạo Bà-La-Môn mất dần thân thế và lui mãi vào trong bóng tối. Nhưng những vị lãnh đạo tôn giáo ấy không ngã lòng, một mặt họ lo tu chỉnh giáo lý của họ, một mặt họ thanh lọc hàng ngũ và dựa vào thế lực của chính quyền, dần dần họ chiếm lại địa vị cũ và hết sức bài xích Phật Giáo.

b. Hồi giáo là một tôn giáo nguyên ở Thổ nhĩ Kì (Turquie) khi đã xâm nhập Ấn Ðộ bằng quân sự, đã dùng những thủ đoạn khốc liệt để hủy diệt chánh pháp, tàn hại Phật Giáo bằng cách đập tháp, phá chùa, đốt kinh điển, giết hại Phật tử. Do đó, đạo Phật hầu như không còn chổ đứng ở Ấn Ðộ nữa.

c. Lý do thứ ba là lý do nội lai. Nếu chỉ vì hai lý do ngoại lai nói trên, thì đạo Phật ở Ấn Ðộ không dễ gì bị tiêu diệt một cách nhanh chóng như thế. Sự suy sụp Phật Giáo ở Ấn Ðộ còn là sự suy đồi của Tăng giới, Phật tử thiếu tu thiếu học, thiếu tinh thần tiến thủ của giới lãnh đạo Phật Giáo Ấn Ðộ lúc bấy giờ nữa

Nếu sự phá phách ở bên ngoài không có sự gián tiếp, tiếp tay phá hoại ở bên trong, thì Phật Giáo ở Ấn Ðộ không diễn ra cái cảnh suy tàn hoang vắng như chúng ta đã thấy trong năm thế kỷ trước đây.

————————————————————————————————————————————————

Ðức Phật đã dạy: sanh thì có diệt, có thành thì có hoại. Vậy sau mười lăm thế kỷ hưng thịnh, Phật Giáo ở Ấn Ðộ dần dần suy đồi cũng là một sự thường. Luật Vô thường chi phối tất cả những sự việc của đời này.

Và cũng do cái luật biến dịch, chổ này khuyết thì chổ kia bồi, làn sóng lặn ở chổ này để hưng ở chổ khác. Ðạo Phật đã chuyển đi từ trung tâm điểm là Ấn Ðộ để lan ra, hưng thịnh ở nước khác trước tiên là chung quanh Ấn Ðộ, rồi sang Trung Hoa và dần dần lan ra khắp thế giới đến ngày hôm nay Phật Giáo vẫn còn là một Tâm giáo đi vào lòng. (Tác giả cố HT Thích Thiện Hoa)