Cha Đoàn Cung Nhượng trước cổng xứ Bắc Dũng, 1958, nhân Lễ rước kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức.
Cha Đoàn Cung Nhượng trước cổng xứ Bắc Dũng, 1958, nhân Lễ rước kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức.
Sau khoảng 1 tháng sống tại Xóm Mới, dân Làng Bỉ được tin Cha Đoàn Cung Nhượng hiện đang có mặt tại Sàigon, đại diện dân làng đã liên lạc và tổ chức một phái đoàn đi đón Cha về.
Khi Cha Nhượng trở lại với dân làng Bỉ, cũng là thời điểm bắt đầu thành lập giáo xứ. Căn nhà nguyện ở đầu dãy số 3 được tân trang lại để dùng làm nhà thờ tạm, Cha Nhượng ở căn bên cạnh, và 3 cậu Giúp lễ đầu tiên của Bắc Dũng là: Hiền (con cụ Trùm Lung), Quân (con cụ Chánh Ứng), Đăng (con cụ Kết)
Ngoài 3 dãy nhà tôn, toàn bộ vùng đất phía sau là đất hoang, có chủ là người địa phương, nhưng chưa có người ở. Khu đất này dùng làm nghĩa trang, bãi đổ rác và 1 dãy cầu tiêu công cộng (phía sau đầu nhà thờ hiện nay). Sau này dân làng thương lượng mua lại để làm nhà thờ [1], đồng thời nới dân rộng ra xung quanh nhà thờ. Một kế hoạch xây dựng nhà thờ và nhà xứ được khởi công. Nhà thờ mới dài khoảng 30m, cột gỗ, vách làm bằng ván, và mái lợp tôn. Nhà thờ được hoàn thành vào năm 1955.
Cũng trong thời gian này, Cha Đoàn Cung Nhượng đã đăng báo tìm gia đình 2 người cháu là gia đình bà Thức (chồng là ông Cảnh) và ông Quản Miện. Khi đọc được tin, ông Miện đã từ Vũng Tầu về thăm chú (Cha Nhượng), và Cha đã nói với ông Miện dọn về Bắc Dũng ở, để chú cháu quây quần bên nhau, và hứa sẽ cho 1 căn nhà ở ngoài cổng [2]. Khi gia đình ông Miện dọn tới ở, thì gia đình ông Ký Nghi vẫn còn ở đó. Một thời gian sau, gia đình ông Ký Nghi dọn lên Saigon thì gia đình bà Thức dọn vào [3].
Về tên xứ Bắc Dũng:
Trong khi hầu hết các xứ đạo tại Xóm Mới đều lấy tên từ các giáo xứ ở ngoài bắc để đặt tên cho giáo xứ mới của mình, như: Tử Đình, Hoàng Mai, Hà Nội, Hà Đông, Lạng Sơn... vậy tại sao không có Xứ Bỉ Nội ở Xóm Mới? Nghe các cụ kể lại rằng, vì trong xứ lúc bấy giờ, ngoài người làng Bỉ ra, còn có những người không thuộc về làng Bỉ, nên một số cụ đề nghị đặt tên mới, cũng có một vài ý kiến muốn đặt tên là Bắc Tiến, nhưng cha Nhượng phản đối vì cho rằng, mới chạy hết hơi từ ngoài đó vào đây, còn bắc tiến gì nữa. Sau khi bàn thảo thì quyết định lấy tên là Bắc Dũng. (có chữ Dũng ở trong, vì Cha Nhượng quê ở Yên Tập, huyện Yên Dũng)
Về trường học Đa Minh:
Vào năm 1955, một linh mục dòng Đa Minh (Cha Hân), cùng với một số Sơ về Bắc Dũng lập trường tiểu học tên Đa Minh (Phía sau nhà thờ Bắc Dũng hiện nay). Ngoài việc các Sơ phụ trách dậy học, còn có một cô giáo ở bên ngoài đến dậy, tên là Hiền. Phía trước trường Đa Minh là bãi đất trống, phía sau là nhà nghỉ của các Sơ, và sau đó lại là một bãi đất trống. Cha Hân chỉ là người đến xây dựng trường học, chứ không phải đến để coi xứ. Sau khi hoàn thành thì Cha Hân rời xứ đi nơi khác. Một thời gian sau, Cha Thân Toàn Vũ về Bắc Dũng làm cha phó. Cha Vũ là Linh Mục phó xứ đầu tiên của Bắc Dũng.
Những giáo dân khác:
Cũng trong thời gian này, một số gia đình ở Thư Xá (Vĩnh Phúc, thuộc giáo phận Bắc Ninh) đến định cư tại Bắc Dũng. Cho tới thời gian này, đối diện trường Đa Minh, chỉ có 1 dãy nhà, sau dãy nhà đó là nghĩa địa, ruộng muống và ruộng lúa. Sau này có thêm nhiều giáo dân Tràng Lan, Nam Pháp cũng đổ về Bắc Dũng định cư.
Những năm đầu, xứ Bắc Dũng chưa có điện, nên trong nhà thờ phải sử dụng đèn Măng Xông (machon), mãi cho tới năm 1956 thì xứ Bắc Dũng có máy phát điện riêng (máy nhỏ, đặt tại Huấn Trường) sau này đổi máy lớn hơn (đặt tại khu vực nhà mồ hiện nay)
Năm 1957, một biến cố lớn đã xảy ra đó là trận cháy nhà kinh hoàng, bắt nguồn từ Thư Xá, do một người nấu rượu bất cẩn, đã cháy lan về phía làng Bỉ, sau đó theo ngọn gió, cháy bạt qua một góc của xứ Thái Bình, rồi lan qua Hợp An, và tới tận bờ sông. (Tư Đình không bị ảnh hưởng).
Đại gia đình cụ Chánh Diễn (Ô. Thuyết) , cụ Chánh Ứng (Ô. Binh) và cụ Lý Điển (Cô Toàn), chụp hình trước cửa nhà thờ Bắc Dũng năm 1957
Lễ rước kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức (1858-1958). Hình chụp 14.12.1958
Ghi chú:
[1] Về việc thương lượng mua lại đất để làm nhà thờ: Theo ý của các cụ cao niên muốn mua lại miếng đất (hoang) phía sau để làm nhà thờ, vì phải có "an cư" thì mới "lạc nghiệp" được, và công việc này được giao cho ông Nguyễn Ngọc Thuyết phụ trách. Khi bố tôi liên lạc với chủ đất để hỏi mua, nhưng họ không bán, mà chỉ cho thuê. Hàng tháng, chủ đất vẫn lại nhà tôi thu tiền thuế đất (sau một thời gian thì không thấy đến thu)
[2] & [3]: Theo lời kể của Công, con trai cả của ông Quản Miện.
Vắp là một loài cây trong họ Cồng (Calophyllaceae), thường được trồng làm cây cảnh. Đây là loài bản địa những vùng ẩm ướt của Sri Lanka, Ấn Độ, nam Nepal, Myanmar, Thái Lan, Đông Dương, Philippines, Malaysia và Sumatra.
Theo sử liệu, Năm 1698, khi thừa lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu đi kinh lý miền Nam, nhằm xác lập chủ quyền cương thổ của Việt Nam, đặc biệt là những vùng đất mới, Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thấy đất Gò Vấp đã có tên trong sổ bộ, thôn, xã thuộc huyện Tân Bình, Phủ Gia Định. Đây là vùng đất có nhiều gò cao, được bao phủ bởi cả một rừng cây vắp. Có lẽ vì vậy mà cư dân ở đây đặt tên là Gò Vắp. Sau này đọc trại đi thành Gò Vấp. Riêng cây vắp, ngày nay cũng đã bị nhiều người đọc trại đi thành cây VẤP như tên gọi của quận Gò Vấp.
Cũng theo sử liệu, Gò Vấp được lưu dân khai phá từ cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Đây là vùng đất "gò" cao hơn 11m so với mặt biển, có nước ngọt của sông Bến Cát – phụ lưu của sông Sài Gòn, rất thuận lợi cho canh tác và sinh hoạt. Gò Vấp cách trung tâm Bến Nghé xưa (quận 1 bây giờ) khoảng 1 km về phía Tây Bắc.
Cây vắp (Ngày nay nhiều người gọi là cây vấp)
Theo “Gia Định Thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức thì vào triều Gia Long, năm 1818, vùng đất mang tên Gò Vấp rộng lớn nằm trong địa phận các tổng Bình Trị và Dương Hòa thuộc huyện Bình Dương. Năm 1836, khi Nhà Nguyễn đạc điền và lập bạ cho toàn bộ lục tỉnh Nam Kỳ thì Gò Vấp thuộc tổng Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định.
Sau khi chiếm Nam Kỳ, người Pháp đẩy mạnh quá trình đô thị hóa vùng Bến Nghé – Sài Gòn, năm 1894, mở rộng thành phố lên phía Bắc lấy rạch Thị Nghè và đường Thuận Kiều làm giới. Huyện Bình Dương của tỉnh Gia Định ở phía Bắc và tỉnh Chợ Lớn ở phía Nam trở thành các khu ngoại ô của thành phố Sài Gòn.
Tỉnh Gia Định vào đầu thế kỷ 20 gồm 4 quận (Hóc Môn, Thủ Đức, Gò Vấp và Nhà Bè). Vào năm 1917, Gò Vấp chia làm 3 tổng: Dương Hòa Thượng, Bình Trị Hạ, Bình Trị Thượng, gồm 37 xã. Từ năm 1940 đến năm 1953 nhiều xã được sáp nhập, còn lại 24 xã, bao gồm cả vùng đất của quận Bình Thạnh, quận Phú Nhuận, quận Tân Bình, quận 12 và một phần của huyện Bình Chánh và huyện Củ Chi ngày nay. Vào thời gian này xã Tân Sơn Nhất không còn sau khi người Pháp lấy đất để xây dựng sân bay Tân Sơn Nhất.
Ngày 11-5-1944, chính quyền thành lập tỉnh Tân Bình bằng các tách một phần của tỉnh Gia Định. Gò Vấp thuộc tỉnh Tân Bình. Sau 1945, tỉnh Tân Bình bị xóa bỏ. Ngày 29-4-1957, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ban hành nghị định 138-NV ấn định địa giới tỉnh Gia Định gồm 6 quận (10 tổng, 61 xã) tăng thêm 2 quận là Bình Chánh và Tân Bình. Tân Bình là phần đất tách từ quận Gò Vấp. Quận Gò Vấp vào năm 1960 có 8 xã.
Chợ Gò Vấp, ảnh chụp năm 1902. Chợ được hình thành từ năm 1897, là một trong bốn chợ cổ nhất Sài Gòn - Gia Định xưa (các chợ kia là Bến Thành, Chợ Quán và Long Kiểng.
Chợ Gò Vấp khoảng năm 1930. Thuở sơ khai, nơi này là một rừng cây vắp nằm trên triền gò cao (nên gọi là gò Vắp, tên gọi sơ khai của địa danh Gò Vấp). Dân còn thưa thớt, chủ yếu họp chợ để bán mua các hàng thổ sản rau củ…
Vòi nước sạch công cộng tại chợ Gò Vấp, khoảng năm 1930.
Một gánh hàng rong, có lẽ là hủ tiếu, chợ Gò Vấp khoảng năm 1930. Mặt tiền chợ hướng Tây - hậu chợ hướng Đông, xây thô sơ gồm 3 lều, mỗi lều cách nhau chục thước, chia thành các khu vực hàng hóa khác nhau...
Một góc chợ với những người phụ nữ bán chuối và cau, khoảng năm 1930. Theo thời gian, chợ càng sầm uất, là một trong những nơi cung cấp các loại rau tươi chính cho cả thành phố vì Gò Vấp cũng là vùng rau chuyên canh lớn.
Khu vực bán đồ gốm và sành sứ ở chợ Gò Vấp, khoảng năm 1930. Trước thời kỳ mở cửa, chợ Gò Vấp luôn là trung tâm thương mại lớn nhất của quận Gò Vấp.
Một phần đất xã Tân Sơn Nhứt xưa cách đây hơn 100 năm trước, tại khu vực những người đang đứng ngày nay chính là phi trường Tân Sơn Nhứt mà người Pháp lấy đất để xây dựng.
Đập lúa trên một phần đất xã Tân Sơn Nhứt xưa cách đây hơn 100 năm trước
Những người Pháp và người Việt đang cấy lúa trên một phần đất xã Tân Sơn Nhứt xưa cách đây hơn 100 năm trước, tại khu vực những người đang đứng ngày nay chính là phi trường Tân Sơn Nhứt mà người Pháp lấy đất để xây dựng.