(Tổng hợp từ các nguồn: vi.wikipedia.org * bacgiang.gov.vn * dpi.bacgiang.gov.vn * wiki.youvivu.com * dulichvietnam.com.vn * vanhoabacgiang.vn *VnExpress.net * langvietonline.vn * vanhien.vn)
Tân Yên là một tiểu vùng chuyển tiếp của vùng núi Việt Bắc và Đông bắc với vùng châu thổ Sông Hồng. Đặc điểm trên làm cho huyện Tân Yên có địa hình đồi núi thấp, thoai thoải hướng Tây bắc - Đông nam, với độ cao trung bình là 10-15m so với mặt biển. Điểm cao nhất là núi Đót 221,8m thuộc xã Phúc Sơn nằm ở cực Tây bắc, điểm thấp nhất là cánh đồng Chủ 1m ở xã Quế Nham. Cứ 1 km địa hình trung bình hạ bớt độ cao thêm 1m.
Nguồn nước của huyện có sông Thương, hệ thống nông giang sông Cầu và một hệ thống suối, ngòi nhỏ chảy qua. Sông Thương được phát nguyên từ phía đông nam tỉnh Lạng Sơn, dài 175km chảy qua huyện ở đoạn trung lưu dài 16km, lòng sông mở rộng từ 70m đến 100m, qua địa phận 3 xã là Hợp Đức, Liên Chung và Quế Nham. Hệ thống nông giang sông Cầu được đưa vào sử dụng từ năm 1929 gồm có kênh chính đoạn chảy qua Tân Yên từ kè Lữ Vân đến Điếm Thôn dài 25,8 km, và với 9 kênh cấp 2; 50 kênh cấp 3 dài 744km cung cấp nước cho 5574 ha, chiếm 56,6% diện tích đất trồng của huyện trong một vụ. Toàn huyện có 77 hồ lớn nhỏ, lớn nhất là hồ Đá Ong dung tích 7 triệu m3 nước, diện tích mặt nước có khoảng 400 ha. Lượng nước phân bổ trong năm không đều, về mùa mưa chiếm khoảng 80% tổng lượng mưa cả năm. Sông ngòi, hệ thống nông giang của Tân Yên là một yếu tố rất cơ bản và thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và vận tải thủy, tuy nhiên việc sử dụng vào các lĩnh vực vận tải chưa được khai thác hết tiềm năng.
Thổ nhưỡng của huyện trên diện tích 20.332 ha, có 2 loại đất chính hình thành từ 2 nguồn gốc: Loại đất hình thành tại chỗ do phong hóa đá mẹ và loại đất hình thành do phù sa sông bồi tụ. Căn cứ vào nguồn gốc, trên đất Tân Yên nổi rõ 3 nhóm đất: Nhóm đất đồi và ruộng bậc thang nằm chủ yếu ở phía đông bắc của huyện, chiếm 20% diện tích đất tự nhiên, nhóm đất phù sa cũ bạc màu nằm ở phía tây nam cũ của huyện, chiếm tới 70% tổng diện tích tự nhiên, nhóm đất phù sa có địa hình thấp trũng nằm ở phía đông nam, chiếm 10% tổng diện tích đất tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên Tân Yên có nhiều thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp như: Trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng rau và phát triển chăn nuôi để tạo ra nguồn lương thực, thực phẩm làm hàng hóa và phục vụ đời sống.
Theo nguồn sử cũ, Tân Yên là một bộ phận của bộ Vũ Ninh (Vũ Ninh là một trong 15 bộ của nước Văn Lang thời các vua Hùng), là địa bàn cư trú, làm ăn của người Việt cổ. Cùng với những cổ vật trên sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh, lễ hội dân gian ở Tân Yên cũng phản ánh lịch sử lâu đời của con người trên miền đất này: Các đình thờ thần Cao Sơn – Quý Minh, những vị tướng có công đánh giặc thời kỳ các Vua Hùng; đình Bậu (thôn Bùi xã Cao Thượng), đình làng Chuông (xã Liên Chung), đình Dương Lâm (xã An Dương) và nhiều phong tục, trò chơi như cướp cầu, cấm đồng, gọi gạo, múa rối nước… được nhân dân lưu giữ và truyền lại nhiều đời. Qua hoạt động khảo cổ và qua huyền thoại cho ta thấy đất Tân Yên thời cổ, con người Tân Yên thời cổ đã góp phần xây dựng, bảo vệ, khai thác vùng đất này, góp phần tạo dựng truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc hết sức cao đẹp.
Ở thời nhà Lý các tù trưởng họ Giáp, họ Thân có thế lực lớn, có uy tín nối đời làm phò mã. Với lòng yêu nước và tinh thần quả cảm, các ông đã cùng nhân dân các dân tộc thiểu số vùng đông bắc tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, nhiều thế hệ con cháu tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông thời nhà Trần.
Thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII vùng đất này xuất hiện nhiều nhân kiệt đó là các quan văn, xuất thân từ khoa bảng (đỗ tiến sĩ) đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước như các ông: Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Vĩnh Trinh, Dương Thận Huy, Phùng Trạm, đó là các quan võ như hai anh em quận công Dương Quốc Minh và Dương Hùng Lượng ở Vân Cầu, Song Vân, Văn thần Nguyễn Vĩnh Trinh, Võ tướng Giáp Trinh Tường (Nguyễn Giáp Thái) giữ tới chức Thái bảo thuộc hàng nhất phẩm, có địa vị ngang với tể tướng.
Từ một vùng đất hoang vu, nhờ có chính sách khai phá mạnh thời hậu Lê, Tân Yên từng bước phát triển tạo thành vùng “đất lành chim đậu”. Riêng trong lãnh vực lịch sử-văn hóa, Tân Yên là nơi có tới 355 di tích các loại. Trong đó có gần 90 di tích đã được xếp hạng và có 12 di tích cấp quốc gia đặc biệt.
Những công trình tín ngưỡng, tôn giáo (như các đình chùa) đều có cấu trúc đẹp, quy mô lớn, chạm khắc, đắp vẽ tài nghệ. Ở Tân Yên còn lưu giữ nhiều bia đá, sắc phong, thần tích, Hoành phi câu đối và các tục lệ thờ cúng, lễ hội, các trò chơi dân gian nói lên vùng đất mà từ ngàn xưa, con người đã giàu lòng yêu nước, yêu quê hương cùng với những ước vọng khao khát xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Bước vào thế kỷ XIX, thời nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp ở miền Yên Thế hạ này đã có đến 8 cuộc khởi nghĩa. Rực sáng nhất là cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Lương Văn Nắm sau đó là Hoàng Hoa Thám làm thủ lĩnh. Ngót 30 năm chiến đấu quật cường (1884- 1913), Lương Văn Nắm, Hoàng Hoa Thám và cuộc khởi nghĩa Yên Thế là những trang sử chống ngoại xâm oai hùng của dân tộc Việt Nam.
Phía Bắc giáp huyện Yên Thế. Nam giáp huyện Việt Yên và thành phố Bắc Giang. Tây giáp tỉnh Thái Nguyên và huyện Hiệp Hòa. Đông giáp huyện Lạng Giang. Huyện Tân Yên có 2 thị trấn: Cao Thượng (huyện lị), Nhã Nam, và 22 xã: An Dương, Cao Thượng, Cao Xá, Đại Hóa, Hợp Đức, Lam Cốt, Lan Giới, Liên Chung, Liên Sơn, Ngọc Châu, Ngọc Lý, Ngọc Thiện, Ngọc Vân, Nhã Nam, Phúc Hòa, Phúc Sơn, Quang Tiến, Quế Nham, Song Vân, Tân Trung, Việt Lập, Việt Ngọc. Huyện lị thời gian đầu đặt tại Nhã Nam, sau dời về Cao Thượng. Trong huyện có các dân tộc anh em đang chung sống chủ yếu là: Việt, Tày, Nùng, Hoa… Người Việt đông nhất chiếm 99,4% dân số, các dân tộc ít người chiếm 0,6%, chủ yếu ở các xã: An Dương, Quang Tiến, Lan Giới, Liên Sơn sống xen kẽ với các dân tộc anh em khác trên địa bàn.
Xưa kia Tân Yên nổi tiếng với đất Cầu Vồng Yên Thế. Dân gian có câu: “Trai Cầu Vồng Yên Thế, Gái Nội Duệ Cầu Lim”. Người dân Tân Yên có truyền thống hiếu học, thượng võ. Hiện nay Tân Yên là một huyện đang trên đà phát triển trở thành trung tâm trung chuyển và trung tâm mua bán hoa quả. (Dự kiến trong tương lai, khu vực Làng Bỉ -Xã Ngọc Thiện cũng sẽ được nâng lên thành thị trấn)
Miền quê nhiều di tích văn hóa lịch sử nhất của Tân Yên phải kể tới Việt Lập – một trong những nơi phát tích của dòng họ Giáp họ Thân. Đó là ngôi chùa Thú gắn liền với giai thoại về vị quan thanh liêm Giáp Văn Thú, là Đình Ngò với tấm bia đá hình trụ – loại hình thuộc diện hiếm trong cả nước. Đó là lăng Phục Chân Đường của Quận công Giáp Đăng Luân người giúp dân khai đất lập làng, xây dựng cây cầu quận và trước khi về cõi hạc đã để lại triết lý sống vô thường: Tiêu dao để tự tại. Di tích tiêu biểu nhất của miền qua này còn phải kể tới chùa Kim Tràng tục truyền do một vị thiên sư phải Trúc Lâm Yên tử dựng nên. Chùa Kim Tràng kiến trúc theo lối chữ quốc gồm có nhà khách, tiền đường, tam bảo, nhà tổ, nhà tăng ni, vườn ao hồ , tháp và dãy hành lang. Trong chùa có hệ thống những pho tượng từ Tam thế, Adi đà, Quan âm tống tử, Thiên thủ thiên nhãn. Cấu trúc và bài trí trong chùa giống như chùa tổ Vĩnh Nghiêm. Đây là ngôi chùa đẹp và giá trị, nhất là khi trải qua thời gian và binh lửa xâm lược của nhà Thanh nó vẫn tồn tại.
Tân Yên – Vùng quê Yên Thế Hạ còn khá nhiều những di tích đình chùa đền miếu cổ kính, có thể kể tới chùa Phúc Lễ Phúc Hòa, tục truyền nó liên quan tới các vị công chúa Nhà Lý, Đình Hả Tân Trung quê hương đề Hả và là nơi khởi nguồn của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Quán Chúc Đại Hóa được người làng Chúc dựng lên ở đầu làng, dành cho khách bộ hành dừng chân, cho nông phu sau buổi cấy cầy nghỉ ngơi và là điểm vui chơi của trẻ nhỏ. Ngôi quán này tuy rất đơn sơ với 5 gian nhà gỗ, bào trơn đóng bén nhưng sâu xa lại ẩn chứa văn hóa ứng xử tài tình và đạo lý truyền thống của người Việt ta đó là: Thương người như thể thương thân...
Theo số liệu điền giã, Tân Yên có trên 300 di tích, gồm đình, chùa, đền miếu, nghè, quán. Bên cạnh di sản văn hóa vật thể, Tân Yên cũng là vùng đất của rất nhiều hội và lễ hội, là quê hương của nhiều nét sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc, riêng có trong tỉnh. như: Hội đình Vồng, tục gọi gạo đêm 30 Phúc Hòa, phiên chợ mùng 2 Cao Thượng, du xuân Núi Dành, hội thả diều Việt Lập. Với trên 300 lễ hội lớn nhỏ tổ chức trong những ngày đầu xuân, đã thể hiện được cái hồn của những nét sinh hoạt dân gian xưa cũng như nay.
(Tổng hợp từ các nguồn: vi.wikipedia.org * bacgiang.gov.vn * dpi.bacgiang.gov.vn * wiki.youvivu.com * dulichvietnam.com.vn * vanhoabacgiang.vn * VnExpress.net * langvietonline.vn * vanhien.vn * balodi.vn)
Chùa Thanh Cao (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Đại Hóa), Đình Ngò (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Lập), Đình Lý Cốt (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Phúc Sơn), Chùa Lý Cốt (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Phúc Sơn), Nghè và phần mộ nàng Giã đại thần (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Phúc Sơn), Chùa Phán Thú (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Lập), Đình Yên Lý (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Phúc Sơn), Đình Lãn Tranh (Di tích kiến trúc nghệ thuật, Xã Liên Chung), Chùa Lãn Tranh (Di tích kiến trúc nghệ thuật, Xã Liên Chung), Đình Dĩnh (Di tích kiến trúc nghệ thuật, Xã Việt Ngọc), Đình Thễ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Ngọc), Chùa Thễ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Lan Giới), Đình Sậy (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Tân Trung), Đình Lục Liễu (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Hợp Đức), Chùa Lục Liễu (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Hợp Đức), Chùa Ngọc Nham (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Thiện), Chùa Hương Thịnh (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Ngọc), Đình Phúc Khê (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Quế Nham), Đền Phú Khê (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Quế Nham), Chùa Phúc Khê (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Quế Nham), Chùa Đồng Điều (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Tân Trung), Đền Dành (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Liên Chung), Chùa Chuế Dương (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Quế Nham), Chùa Bạch Vân (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Phúc Hòa), Chùa Am Vân (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Phúc Sơn), Đình Bằng Cục Di tích Kiến trúc-Nghệ thuật, Xã Ngọc Châu), Đình Tam Hà (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Thiện), Chùa Tam Hà (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Thiện), Đình Tế (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Lam Cốt), Chùa Cống Phường (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Liên Chung), Chùa Khánh Quang (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Lam Cốt), Đình Giã (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Thị trấn Cao Thượng), Chùa Kim Sơn (Chùa Giã) (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Thị trấn Cao Thượng), Đình Tiến Sơn (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Hợp Đức), Chùa Non Tiên (Chùa Hạ) (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Cao Thượng), Chùa Nhân Tông (Chùa Phúc Đình) (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Phúc Hòa), Đình Tỉnh Đạo (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Quang Tiến), Chùa Tỉnh Đạo (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Quang Tiến), Đình Mỗ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Thiện), Chùa Phúc Sơn (Chùa Mỗ) (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Thiện), Đình Ngô Xá (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Cao Xá), Chùa Phúc Sơn (Chùa Ngô Xá) (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Cao Xá), Đình làng Bùi (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Cao Thượng), Chùa Cổ Am (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Cao Thượng), Đình Liên Bộ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Liên Chung), Đình Nội (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Vân), Đền thờ Quận công Dương Hùng Lượng (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Cao Xá), Đình Nẻo (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Liên Sơn), Chùa Dương Sơn (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Liên Sơn), Chùa Gia (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Ngọc), Đình Trung (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Lam Cốt, Chùa Trung (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Lam Cốt), Quán Chúc (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Đại Hóa), Đình Lợ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Song Vân), Chùa Lợ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Song Vân), Chùa Đất Đở (An Bài tự) (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Hợp Đức), Đình Cầu Thượng (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Nhã Nam), Lăng quan Thái Bảo Giáp Trinh Tường (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Lập), Chùa Kép Vàng (Kim Quang tự) (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Lam Cốt), Đình làng Sai (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Vân), Chùa làng Sai (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Vân), Đền thờ Quận Công Dương Quốc Nghĩa (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Song Vân), Đình Thúy Cầu Hạ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Vân), Chùa Thúy Cầu Hạ (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Vân), Đền thờ Nguyễn Văn Liễu (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Ngọc Thiện), Đền Đề Truật (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Nhã Nam), Đình Hoãn (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Lập), Đình Lữ Vân (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xa Phúc Sơn), Đình Kim Tràng (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Việt Lập), Đình Vũng (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Hợp Đức), Đình Chậu (Di tích Lịch sử-Văn hóa, Xã Song Vân)
Chùa Không Bụt hay còn gọi là Chùa Cống Phường, là công trình văn hóa tôn giáo cổ được xây dựng vào trước năm 1713. Chùa nằm trên địa phận thôn Hậu, xã Liên Chung, Tân Yên. Chùa có nhiều nét cổ kính, đường họa tiết, hoa văn trang trí kế thừa phong cách nghệ thuật tạo dựng từ thời Lê Trung Hưng. Chùa có quy mô lớn, vững chãi. Người dân thôn Hậu cho biết: Chùa rất thanh tịnh và linh thiêng. Sở dĩ chùa không có tượng phật, là vì chùa không thờ được tượng Phật. Bên trong Chùa chỉ có bệ, và chỉ đặt lư hương, không đặt tượng Phật.
Tương truyền do chùa tọa lạc trên thế đất “nghịch”ngay giữa gáy của “long xà”, nên việc thờ tượng thường sinh chuyện không tốt cho dân làng. Đã rất nhiều đời các cụ bô lão trong làng đưa tượng Phật vào thờ nhưng cứ mỗi lần rước tượng vào là dân làng xảy ra nhiều chuyện chẳng lành, như cả làng làm ăn lụn bại, trong làng tự dưng phát sinh nhiều bệnh tật, tai nạn… Vì thế sau nhiều lần, nhiều đời chiêm nghiệm vào khoảng thế kỷ XIX, dân chúng địa phương đã thống nhất bỏ hết tượng Phật trong chùa.
Sau khi làm lễ, dân làng đem tất cả tượng Phật được làm bằng đất ra bến Cống Chuông để thả xuống sông Thương, những pho tượng bằng gỗ được “hóa” tại hố Nẻo Bụt, hiện nay là khu dân cư Rừng Thừa, thuộc thôn Hậu. Kể từ đó dân làng dần từng bước hồi sinh, làm ăn phát đạt, dân khang, vật thịnh, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Cũng từ đó dân gian lưu truyền và gọi chùa Cống Phường là Chùa Không Bụt.
Ngày nay, người dân vẫn tới đây thắp hương vào ngày rằm, mùng một, nhưng các hoạt động vui chơi, giải trí, họp chợ thì không diễn ra tại khu vực này.
Hiện tại Chùa vẫn lưu giữ nhiều giá trị nghiên cứu về lịch sử – văn hóa được thể hiện qua phong cách kiến trúc và niên đại của các hiện vật, cổ vật như: Cây hương đá tạo dựng vào năm 1713, triều vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9; bát hương sành Phù Lãng; bát hương gốm, men da lươn và nhiều tự khí, đồ thờ cổ v.v…
Theo một số nhà sử học thì hiện nay, tại Việt Nam, chỉ mới xác nhận có 2 ngôi chùa không thờ tượng Phật là Chùa Cống Phường và Chùa Cầu – tên gọi chung cho tổ hợp kiến trúc gồm ngôi chùa nhỏ gắn kết vào sườn phía Bắc cây cầu cổ trong khu đô thị cổ Hội An (nay là thành phố Hội An), thuộc tỉnh Quảng Nam. (nguồn: tanyen.bacgiang.gov.vn)
Đền Dành toạ lạc trên đỉnh núi Dành (còn gọi là núi Chung Sơn) thuộc xã Liên Chung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Đền Dành có từ thời Lê, tại đây thờ đức thánh Cao Sơn – Quý Minh, những người có công giúp vua Hùng Vương thứ 18 đánh giặc giữ nước.
Lễ hội núi Dành Ảnh: Châu Giang
Đền Dành- Ành triphunter-vn
Đường lên núi Dành- Ành triphunter-vn
Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” có đoạn ghi rằng: “Núi Chung Sơn ở xã Bảo Lộc, thuộc địa giới Yên Thế sản xuất ra sâm nam và cỏ thi…” Núi Chung Sơn có nghĩa là ngọn núi tựa như một quả chuông lớn đặt ở phía nam của huyện. Cận kề ngọn núi ấy có hai dòng sông lớn là sông Thương và sông Nhâm Ngao. Thế núi uốn lượn, uyển chuyển quanh năm soi bóng xuống sông Thương xanh trong tạo nên một khung cảnh sơn thủy hữu tình. Trên núi có nhiều thông xanh, cảnh sắc thâm u, tĩnh mịch, mát mẻ, gió reo vi vút quanh năm. Núi Chung Sơn (núi Dành) là ngọn núi quý của vùng, chung đúc được nhiều khí thiêng của trời đất, sản sinh ra hai loài thảo mộc: sâm núi Dành và hành Liên Bộ. Từ lâu, dân gian vẫn có câu ca rằng:
Sâm Nam nổi tiếng núi Dành
Chợ đầy nhan nhản những hành Chung Sơn
Sông Thương uốn khúc lượn quanh
Cá nhiều tôm sẵn Lãn Tranh giỏi chài.
Nằm trên đỉnh núi có độ cao 117 m, xung quanh đều là thông, bạch đàn xanh tốt, ngay dưới chân núi là giếng nhỏ có tên mũi voi. Tương truyền: Giếng không bao giờ cạn, xung quanh ngọn núi tồn tại nhiều câu chuyện dân gian. Đền Dành xưa là ngôi đền nhỏ cột làm bằng đá vôi tròn, được xây dựng từ thời Lê, thế kỷ XVIII.
Lễ hội đền Dành được tổ chức vào ngày 19, 20 tháng giêng hàng năm, là một trong những lễ hội tiêu biểu thể hiện những nét đặc trưng văn hóa truyền thống của Liên Chung. So với nhiều đình, đền khác, đền Dành không có gì đặc biệt ở kiến trúc hay quy mô đồ sộ, song hàng năm lượng khách thập phương đến thăm quan vẫn rất đông, nhất là thanh niên nam nữ đến cầu tình duyên, có lẽ chính bởi phong cảnh núi non kỳ vĩ nên thơ và những câu chuyện về sự linh thiêng của đền Dành đã thu hút được lượng người đến thăm đáng kể.
Mở đầu lễ hội là lễ tế thần cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, người người khởe mạnh, gia đình hạnh phúc, thôn xóm thuận hòa bình yên. Đặc biệt là màn rước thánh hùng tráng từ đình Vường lên đền Dành và ngược lại, đã để lại nhiều ấn tượng cho khách tham quan. Trong hai ngày hội diễn ra các trò chơi dân gian đặc sắc như: Vật tự do, thổi cơm thi, kéo co, bóng chuyền, giao lưu văn nghệ… du khách có thể vừa xem hội vừa tham gia các trò chơi.
Rước kiệu
Thi nấu cơm
Là một trong những địa điểm có nhiều sự kiện gắn kết với phong trào khởi nghĩa Yên Thế vào cuối thế kỷ XIX, đình làng Sặt là nơi thường được các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chọn làm nơi hội họp. Trải qua biến cố của thời gian, đình làng Sặt còn lưu giữ được một số tài liệu, hiện vật có giá trị như: Ngai thờ, bài vị, hòm sắc, sắc phong niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), bát hương gốm Phù Lãng, sập thờ, bộ bát bửu… Đây là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân 5 thôn trong xã Liên Sơn, gồm: Chài, Quân, Đồn, Thượng và Phố.
Đình Nội, xã Việt Lập Tân Yên (Di tích nghệ thuật -1998), * Chùa Nam Thiên (Đồi Phủ) Tân Yên (Di tích lịch sử -1989), * Đình Dương Lâm, xã An Dương Tân Yên (Di tích nghệ thuật -1991), *Đình Vường, xã Liên Trung Tân Yên (Di tích nghệ thuật -1991), * Chùa Kim Tràng, xã Việt Lập Tân Yên (Di tích nghệ thuật -1991), * Chùa Tứ Giáp Tân Yên (Di tích nghệ thuật -1992), * Đình Cao Thượng, Tân Yên (Di tích lịch sử, nghệ thuật -1999), * Đình và chùa Hả, xã Tân Trung, Tân Yên (Di tích lịch sử -1994), * Đình làng Chuông, Tân Yên (Di tích lịch sử -1988), * Nghĩa địa Pháp (Đồi Phủ) Tân Yên (Di tích lịch sử -1988), * Đền thờ Cả Trọng (đền Gốc Dẻ) Tân Yên (Di tích lịch sử -1988), * Đền Gốc Khế Tân Yên (Di tích lịch sử -1988) * Nghè Nhã Nam, Tân Yên (Di tích lịch sử 1988)
Nằm bên Đồi Phủ thuộc thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên. Là một di tích lịch sử văn hóa trong hệ thống di tích cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Chùa Nam Thiên (còn gọi là chùa Phố) xây dựng năm 1882, trước đây Chùa thuộc làng Cầu. Khi làng Cầu bị giặc Cờ Đen triệt hạ cuối thế kỷ XIX, chùa do làng Chuông kiêm quản. Từ năm 1885 thực dân Pháp lập đồn Nhã Nam và đặt phủ lỵ tại đây thì chùa chuyển về Phố. Chùa Phố - Nam Thiên Tự là nơi chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng liên quan tới phong trào khởi nghĩa Yên Thế.
Là một ngôi đình cổ to đẹp lộng lẫy, bề thế nhất vùng Tân Yên. Đình nằm trong cụm di tích nổi tiếng, tọa lạc ở phía đông Nam của núi Yên Ngựa, thuộc xóm Đình hay còn gọi là xóm Ngoài, xã Cao Thượng, Đây là một công trình kiến trúc tiêu biểu, mang đặc trưng phong cách nghệ thuật của thời Lê thế kỷ XVII. Đình Cao Thượng gồm tòa đại đình 5 gian 2 dĩ, hậu cung 3 gian thờ đức thánh Cao Sơn - Quý Minh, là những người có nhiều công lao trong việc đánh tan quân giặc, bảo vệ sự bình yên của đất nước.
Nét độc đáo của ngôi đình này nằm trong những mảng điêu khắc dân gian chân thực và sống động như vợ chồng hạnh phúc, bắt hổ, uống rượu thể hiện khát vọng sống của người nông dân miền bán sơn địa. Theo quan niệm dân gian, đình chùa đền miếu vốn là chốn thiêng, không có đất cho sự dung tục. Nhưng khi đưa những bức tranh dân dã đời thường vào mảng điều khắc của ngôi đình, những người thợ xưa đã thổi hồn vào những đường cưa nét đục tạo nên sự thanh thóat, thực mà không thô. Ngày nay, tại di tích này, vẫn còn lưu giữ những câu chuyện chứa đầy những giá trị nhân văn, như tục kết chạ giữa hai làng Hậu và Cao Thượng
Bên cạnh những giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật, đình Cao Thượng còn là nơi chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Tương truyền: khi quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà, vua Lê Chiêu Thống đã bở chạy ra khởi kinh thành Thăng Long, lên đóng ở đình Cao Thượng. Khi quân Tây Sơn đuổi đến nơi, Lê Chiêu Thống đang chơi cờ, đã vội vàng vứt quân cờ bằng ngà voi vào hốc cột đình và trốn biệt. Và, Đinh Cao Thượng cũng là nơi đã in đậm dấu chân của người Anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Đặc biệt trong thời gian có phong trào khởi nghĩa Yên Thế, nghĩa quân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã có mối liên hệ rất mật thiết với làng Cao Thượng và đình Cao Thượng. Bởi thế, Đề Thám đã cho lập căn cứ trên núi Yên Ngựa thuộc khu vực đình Cao Thượng.
Năm 1890, thực dân Pháp dò biết ở núi Yên Ngựa có quân của cụ Đề nên đã tổ chức lực lượng tấn công đánh nghĩa quân. Bị thất bại, quân Pháp điên cuồng đốt phá đình, chùa và núi Yên Ngựa. Trong thời kỳ hòa hoãn lần thứ 2 giữa Pháp và Đề Thám (1897-1909), Đề Thám đã giúp dân tu sửa lại đình và dựng lại ngôi chùa trên nền chùa xưa.
Ngoài những nét độc đáo về kiến trúc, chứng tích lịch sử, Đình Cao Thượng còn được biết với phiên chợ đặc biệt vào mùng 2 Tết hàng năm, đó là "Phiên chợ Âm dương”. Theo người dân ở đây kể lại, vùng đất thờ thần Bạch hổ, nên để trấn an phải mở phiên chợ mùng 2 để giao tiếp hai cõi âm dương, là nơi người chết và người sống có thể gặp nhau, để cầu cho dân khang vật thịnh, trấn an đất dữ bằng chính sản vật quê nhà.
Điểm đặc biệt của "Phiên chợ Âm dương” là mỗi năm chỉ họp một lần ấn định vào ngày mùng 2 Tết và họp từ rất sớm. Người đi chợ đều vui vẻ, thoải mái về tinh thần, họ quan niệm rằng đó là dịp làm phúc, làm điều thiện với người đã chết và cuộc sống tâm linh của họ sẽ thanh thản hơn. Đây là một phiên chợ "không nói thách, không mặc cả". Thậm chí, người mua và người bán còn không nhìn thấy mặt nhau vì phiên chợ được mở từ nửa đêm, tất cả chìm trong bóng tối, không đèn điện, chỉ có đèn dầu le lói.
Cũng theo các bậc cao niên ở đây và lịch sử ghi lại thì trước kia có thời gian, quân Pháp đóng ở đồn Mỏ Thổ, thường xuyên pháo kích về đây để người dân không được họp chợ, người dân đi kiện quan Pháp để đòi quyền họp chợ. Sau đó, chợ được dời sang chợ Mọc (thị trấn Cao Thượng ngày nay) nhưng ở Cao Thượng, nghĩa quân Đề Thám vẫn bí mật tổ chức chợ đêm vào mùng 2 Tết hàng năm, thực chất là để trao đổi thông tin, tiếp cận với các nhân sĩ yêu nước ở khắp nơi. Từ đó hình thành chợ đêm độc đáo và tồn tại cho đến ngày nay. Vì mỗi năm chỉ họp một lần và người mua, người bán đều ít quan tâm tới lợi nhuận – dân gian thường gọi là phiên chợ cầu may.
Lễ Hội đình Cao Thượng, được tổ chức vào ngày 12,13 tháng Giêng hàng năm, thu hút đông đảo người dân và khách thập phương đến tham dự.
Còn có tên gọi là Đền Gốc Dẻ- Đền thờ Cả Trọng, nằm về phía Bắc Đồi Phủ, thuộc thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên. “Đức Trọng từ” là tên đền do nhân dân thôn Đoàn Kết đặt trong lần trùng tu vào năm 1989 - được lấy từ hai chữ cuối của cái tên Hoàng Đức Trọng (tức Cả Trọng), con trai cả của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám.
Đền thờ Cả Trọng là nơi thờ Hoàng Đức Trọng - vị tướng của nghĩa quân Yên Thế. Đền ngoảnh hướng Bắc, dựa lưng vào Đồi Phủ (Nhã Nam). Đền hiện nay gồm có ba gian tiền tế và hai gian hậu cung tạo bình đồ kiến trúc theo lối chữ đinh. Trong tòa hậu cung có tượng và ban thờ Cả Trọng. Ngôi đền trước năm 1913 vốn chỉ là cái lán nhỏ dựng dưới gốc dẻ của dân làng Vàng để thờ thổ công (sau là thôn Đoàn Kết). Cụ Dương Văn Ân, người đi ở cho Cả Trọng kể: Năm 1910, sau khi Hoàng Đức Trọng và một số nghĩa quân đánh nhau với Pháp ở làng Mở Thổ bị thực dân Pháp sát hại. Nghĩa quân mang xác ông về chôn ở Quỳnh Lâu, quân Pháp dò biết đã đào xác ông lên mang về Nhã Nam để ở khu Gốc Dẻ, rồi chôn ở đó. Sau này, người nhà Đề Thám đem di cốt của ông đi nơi khác mai táng.
Hoàng Đức Trọng sinh năm 1867 tại làng Chè, xã Ngọc Cục, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang và mất ngày 26 tháng 3 năm 1910. Ông theo cha đánh Pháp từ nhỏ. Ông là người tài ba, căm thù giặc Pháp sâu sắc. Ông tham dự đánh Pháp cùng Hoàng Hoa Thám nhiều trận và ông cũng là người được Đề Thám tin cậy, nghĩa quân cảm phục. Ngoài ra, Cả Trọng là người ham học, hiểu biết, nên ông hiểu rõ thực dân Pháp là kẻ thù không đội trời chung. Bởi vậy khi nghe tin con trai hy sinh, Đề Thám đã phải thốt lên rằng: “Thôi! Thế cơ nghiệp nhà ta đến đây tan vỡ rồi!”. Cả Trọng mất đi không có lấy một tấm hình nào để lại, song cuộc đời và hình ảnh của ông đã luôn luôn sống trong tâm trí của người dân Yên Thế nói riêng, nhân dân Bắc Giang và nhân dân cả nước nói chung.
Trong sách “Kỷ niệm thời thơ ấu” của bà Hoàng Thị Thế (Ty Văn hóa xuất bản, Hà Bắc 1975), có kể lại: “Khoảng 5 rưỡi - 6 giờ sáng, anh tôi tắt thở. Mọi người đi chôn cất anh. Tôi ngủ dậy muộn, vẫn giữ cái bọc ở trên bụng. Bố tôi đi đưa anh tôi về, ẩy tôi ra bên cạnh thì thấy cái bọc buộc băng thắt lưng của con trai mình. Ông cứ lặng người đứng mãi, không nói một lời mà nước mắt cứ trao ra, còn con chó mực cứ nằm phủ phục trên mộ chủ chẳng rời, mà cũng chẳng chịu ăn uống gì hết. Cha tôi cho nó ngửi cái thắt lưng của anh Cả Trọng nó liền ngoạm lấy, nằm ấp lên trên. Tôi cho nó cái bánh và cơm, nó cũng chẳng chịu ăn, tới ngày thứ 3 thì nó chết. Mọi người đã chôn nó ngay cạnh mộ anh tôi. Sau đó Pháp đánh hơi thấy, quật mộ lên thì thấy xương cốt người nằm dưới xương cốt chó”.
Được xây dựng trên sườn một quả đồi thấp (có tên đồi Đình), xưa nằm giữa ngã ba thôn Khủa, thôn Quyên và thôn Lễ của làng Hả, nay nằm tại thôn Đình Hả, xã Tân Trung, cả khu đồi xưa là rừng lim, nay lim vẫn còn xanh tốt. Theo các nguồn sử liệu, đình Hả còn có tên chữ là “Thọ linh đình”.
Đình Hả là quê hương của Lương Văn Nắm. Sau khi chiến thắng quân Pháp tại Thái Nguyên ngày 16/3/1884, Lương Văn Nắm lui binh về Đình Hả ăn mừng chiến thắng và chính thức làm lễ tế cờ phát động phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Ngày 16/3 được lịch sử ghi nhận là ngày mở đầu phong trào khởi nghĩa Yên Thế.
Theo truyền thuyết thì đình, chùa Hả được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn thế kỷ XVII. Kiến trúc của đình xưa gồm một tòa tiền đình 3 gian 2 trái, nằm sát đường lớn, tiếp đến sân đình rộng, có tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian đối diện với nhau, tiếp đến tòa đại đình 5 gian 2 dĩ và một hậu cung 3 gian. Đình Hả Đặt bài vị và ngai thờ thánh Cao Sơn - Quý Minh. Phần kiến trúc các vì kèo theo lối cốn, kẻ, bẩy, con chồng. Phần trang trí chạm khắc tinh tế, theo các đề tài hoa lá, tiên múa. Tuy nhiên, ngôi đền cũ đã bị tổn hại vào tháng 10 năm 1885 khi quân Pháp đánh lên Yên Thế. Ngôi đình hiện hữu được chính Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân khởi dựng lại vào thời gian nghị hòa với quân Pháp.
Trên nền cũ, trong khuôn viên rộng ngôi đình nhìn về hướng tây nam. Bố cục theo lối kiến trúc hình chữ đinh, gồm tòa tiền tế 3 gian 2 chái, với 4 mái đao cong và 2 cửa ngoã bên nách có cột đồng trụ. Bờ nóc đình được đắp thẳng ở giữa có đắp hình chữ nhật trong đề 3 chữ Hán cho biết tên chữ của đình là "Thọ linh đình". Hệ thống chịu lực trong đình được tạo bởi 4 vì, mỗi vì 4 hàng chân cột gỗ lim chắc khoẻ. Kết cấu vì kèo theo kiểu thượng chồng giường giá chiêng, hạ cốn, kẻ, bẩy, con chồng. Tất cả đều được chạm khắc trang trí tinh tế với các đề tài long, ly, quy, phượngvà tùng, cúc, trúc, mai. Tiếp đến là tòa hậu cung 3 gian và dãy nhà tả vu 5 gian.Trong tòa hậu cung có đặt bài vị thờ Thánh Cao Sơn-Quý Minh. Cảm phục trước khí phách người anh hùng Đề Nắm, ngày khánh thành đình, Đề Thám, cùng dân làng đã rước bài vị Đề Nắm vào trong khám thờ trong đình và tôn ông như một vị thành Hoàng làng. Sau này nhân dân còn tạc tượng ông đặt thờ tại vị trí trang trọng trong đình. Đặc biệt tại đây vẫn còn lưu đôi câu đối cổ:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Nghĩa là:
Xưa nay hởi có ai không chết?
Hãy để lòng son chiếu sử xanh
Ngày nay, xung quanh di tích đình chùa Hả có nhiều cây cổ thụ xanh tốt tạo nên khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ nhưng vẫn giữ được nét thâm nghiêm. Hàng năm,vào ngày 15, 16 tháng Giêng, tại đình Hả, dân làng tổ chức lễ hội thật trang nghiêm, long trọng để tưởng nhớ công lao to lớn của vị tướng tài áo vải Lương Văn Nắm. Trong lễ hội có tổ chức tế lễ, rước sách cùng các trò chơi dân gian độc đáo và những hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian phong phú, thu hút dân ở khắp các vùng nô nức kéo đến dự hội đông vui chật cả khu đình chùa và rừng cây xung quanh. Hội làng Hả là một trong 4 lễ hội lớn nổi tiếng của huyện Tân Yên.
Trước đây, trên đỉnh đồi của làng Chuông có một ngôi đình, người dân gọi là Đồi Đình (hay đồi Nam Sơn), nhưng kể từ năm 1895, khi quân đội Pháp kéo về đây xây dựng đồn bốt, Phủ Huyện, thì đình phải di chuyển về làng, và từ đó, Đồi Đình được gọi là Đồi Phủ.
Đồi Phủ theo quan niệm của dân gian thì hình thế “sư tử vờn cầu”. Sư tử là Đồi Phủ, quả cầu là ngọn đồi đối diện, sau Pháp đặt nghĩa địa tại đó. Bốn làng: Chuông, Lã, Vàng, Cầu đóng ở bốn hướng chính của đồi như bốn chân sư tử. Trong thời loạn giặc Cờ đen, ba làng là Lã, Vàng, Cầu phiêu dạt hết, chỉ còn làng Chuông ở lại. Từ khi có đồn binh và Phủ huyện ở đây, cư dân các nơi kéo về làm ăn, hình thành phố Nhã Nam bên Đồi Phủ, có phố Phủ huyện, chợ Nhã Nam cũng ra đời, phát triển làm cho khu vực này thành trung tâm lớn của Yên Thế.
Đồi Phủ là ngọn đồi cao chừng 20 m, ở phía Bắc thị trấn Nhã Nam huyện Tân Yên ngày nay, xung quanh đồi có làng Chuông, làng Đoàn Kết và phố Nhã Nam bao bọc. Phía Đông Đồi Phủ có ngôi chùa Nam Thiên hay còn gọi là chùa Phố (xếp hạng cấp Quốc gia), Đình Chuông (xếp hạng Quốc gia), phía Bắc Đồi Phủ có Đền thờ Cả Trọng - con trai Hoàng Hoa Thám (xếp hạng cấp Quốc gia), phía đối diện Đồi có nghĩa địa Pháp (nơi mà thực Dân Pháp dùng để chôn binh lính và sĩ quan Pháp, Việt bị chết trong các trận đánh với nghĩa quân Yên Thế - Nay nghĩa địa Pháp này không còn, nhưng các dấu tích của nó trở thành địa danh lịch sử minh chứng rõ nét nhất cho các chiến thắng của nghĩa quân Yên Thế suốt 30 năm trường, phía Nam đồi có Đền Gốc Khế và Điện Nam Thiên thờ Phạm Ngũ Lão. Xung quanh đồi đều có đường làng bao bọc.
Đồi Phủ hiện nay là một khu đất trống nhưng xung quanh là cả một hệ thống dày đặc di tích lịch sử quan trọng, tạo nên một điểm du lịch đặc biệt của huyện Tân Yên, là nơi đã trở thành địa điểm ghi dấu những sự kiện mà trong lịch sử Yên Thế - Tân Yên ngày nay không thể không nhắc tới, nó là một bằng chứng lịch sử góp phần làm cho mọi người dân hiểu thêm sâu sắc về phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
(nguồn: tanyen.bacgiang.gov.vn)
Ao ông Chấn nằm trong cụm di tích lịch sử, ngay dưới chân Đồi Phủ, nay gần ngã 3 thị trấn Nhã Nam. Từ năm 1909 thực dân Pháp tập trung về Nhã Nam mở chiến dịch lớn đánh lên Phồn Xương, tương quan lực lượng có lợi cho giặc Pháp và nhiều tướng lĩnh của nghĩa quân bị địch bắt, giam cầm, tra tấn tại Đồi Phủ. Trong những ngày cuối cùng của Phong trào khởi nghĩa Yên Thế tại Nhã Nam đã xẩy ra một sự kiện chấn động lịch sử, đó là sự kiện về cái chết của Hoàng Hoa Thám.
Theo các tài liệu, ngày 13/2/1913, Đề Thám bị 3 tên phản bội giết hại tại rừng Tổ Cú, cách Phồn Xương không xa. Ba tên này đã đem đầu của cụ Đề và 2 cận vệ của ông ra đồn Đồng Cờ nộp cho Pháp để lĩnh thưởng. Thực dân Pháp tổ chức lấy khẩu cung và cho gọi những người thân quen Đề Thám ở các làng xã đến nhận mặt. Sau cuộc nhận diện này, thực dân Pháp cho thả cả 3 cái đầu xuống ao ông Chấn Ký - Chủ hàng gạo Nhã Nam. Với những gì đã diễn ra, Ao ông Chấn Ký cũng là một địa chỉ thuộc cụm di tích lịch sử Đồi Phủ.
Đền Gốc Khế nằm về phía Nam Đồi Phủ, không xa Chùa Nam Thiên. Đền có từ xa xưa, thờ Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn. Là một trong những di tích tiêu biểu gắn liền với cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Theo các nguồn tư liệu lịch sử cho biết, đền Gốc Khế được xây dựng từ những năm đầu của thế kỷ XX. Khi mới được xây dựng, đền có quy mô vừa phải gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ tứ thiết chắc khởe. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, tàn phá của thiên tai, chiến tranh, đền đã được tu sửa, tôn tạo nhiều lần. Hiện nay, đền có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh gồm 1 tòa tiền tế 3 gian và 1 gian hậu cung, kết cấu khung mái bằng gỗ, lợp ngói mũi, kèo kìm trốn cột, quá giang gác tường. Trong đền còn bảo lưu được một số đồ thờ tự quý như: Bát hương, mâm đài, cây đèn, hộp đựng trầu thờ bằng gỗ được chạm trổ rất tinh xảo thể hiện sự tài khéo của người nghệ nhân điêu khắc dân gian xưa... Đặc biệt, hệ thống tượng thờ trong đền là những pho tượng cổ bằng gỗ với lối tạo tác đặc trưng tượng thời Nguyễn, đây là những pho tượng rất có giá trị nghiên cứu về lịch sử và mỹ thuật. (nguồn: balodi.vn)
Làng Trũng, thuộc xã Ngọc Châu, huyện Tân Yên là một làng cổ gắn liền với biết bao kỷ niệm về người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành. Nơi đây, xưa kia từng là nơi đánh trận giả chơi trốn tìm của Hoàng Hoa Thám, nay lại là nơi tôn thờ, tưởng niệm ông- người có công lớn với quê hương Bắc Giang, với đất nước Việt Nam. Mỗi khi nói đến làng Trũng, người ta thường nhắc đến khu di tích lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám. Khu di tích cách thành phố Bắc Giang khoảng 20km về phía tây-bắc. Đây là quần thể di tích bao gồm các công trình như: đình, đền, chùa, điếm, nơi ở và khu mộ thân tộc Hoàng Hoa Thám.
Đình Trũng: Theo truyền miệng của các cụ địa phương được biết: Đình Trũng khi xưa được cụ Hoàng Hoa Thám xây dựng ban đầu ở Tân Châu (Trũng Ngoài). Sau đó cụ Thống Luận đã di chuyển đình về Trũng Trong, liền kề phía trước chùa Trũng. Đình xưa bao gồm toà tiền đình ba gian nối với hậu cung một gian tạo thành bố cục hình chữ đinh (J). Đình Trũng xưa có 2 đạo sắc do các đời vua nhà Nguyễn phong cho Thành hoàng làng là Cao Sơn và Quý Minh Đại Vương. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, để tỏ lòng thành kính và trân trọng đối với người anh hùng dân tộc, nhân dân địa phương đã tôn thờ ông ở trong đình cùng với Thành hoàng làng. Trải qua thời gian và chiến tranh, đình Trũng bị xuống cấp hư hỏng nặng. Nay chỉ còn nền móng ở phía trước chùa Trũng.
Đền thờ Hoàng Hoa Thám: Sau khi Hoàng Hoa Thám bị sát hại, để tỏ lòng biết ơn và thành kính đối với vị tướng tài ba, nhân dân làng Trũng đã xây dựng ngôi đền làm nơi tưởng niệm, ở gần kề bên khu di tích đình, chùa làng Trũng. Từ khi xây dựng cho tới nay, đền thờ được nhân dân thường xuyên quan tâm, tu sửa, mua sắm các đồ thờ, tạc tượng Đề Thám… để lưu truyền hậu thế.
Đền thờ Hoàng Hoa Thám hiện nay ở phía trước khu di tích đình, chùa Trũng, ngoảnh nhìn hướng Đông Nam. Đền thờ Hoàng Hoa Thám gồm ba gian theo bố cục hình chữ nhất. Bên trong gian chính giữa bài trí một pho tượng Hoàng Hoa Thám được đúc bằng đồng cao 150cm, bên tường hồi trái treo một bức tranh của gia đình cụ Đề Thám và các con tại đồn Phồn Xương. Trong đền hiện nay có hai cặp câu đối bằng chữ Nôm với nội dung như sau:
Sấm dậy Phồn Xương chí lớn anh hùng vang bốn biển
Mây trùm Yên Thế khí thiêng sông núi khắc ngàn thu.
Chùa Trũng: Chùa Trũng xưa được xây dựng ở trên cùng dải đất với đình, theo lối tiền Thần, hậu Phật. Trải qua thời gian, chùa Trũng đã qua nhiều lần tu sửa ngày càng khang trang, tố hảo, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tôn giáo của nhân dân địa phương. Sau khi cụ Đề Thám mất, do đình Trũng bị hư hỏng, lại chưa có đền thờ nên nhân dân địa phương đã đưa ông vào thờ trong chùa.
Chùa Trũng ngoảnh nhìn hướng đông-nam. Nhìn bao quát bên ngoài, đây là một ngôi chùa có quy mô vừa phải, phù hợp với cảnh quan thiên nhiên và các công trình liền kề. Chùa hiện nay bao gồm tòa tiền đường một gian, hai chái nối với toà thượng điện một gian tạo thành bình đồ kiến trúc hình chữ đinh (J). Bên trong chùa được bài trí các pho tượng Phật và một số đồ thờ tự khác như bát hương, mõ gỗ, đèn nến, chuông đồng…
Điếm Trũng: Theo các cụ cao niên ở địa phương cho biết: Điếm Trũng xưa được làm khá đồ sộ, có sàn, cột bằng gỗ lim. Lúc còn nhỏ, Hoàng Hoa Thám cùng một số trẻ chăn trâu trong làng thường ra điếm làng chơi đánh xu, đánh đáo, chơi trò đánh trận giả. Lớn lên, Đề Thám và Đại Trận trở thành hai vị tướng giỏi, có mối quan hệ qua lại mật thiết để bàn kế tìm đường cứu nước. Sau khi Đại Trận và Hoàng Hoa Thám mất, nhân dân làng Trũng thờ hai ông ở điếm làng. Nay, nhân dân địa phương đã cho tạc hai chân dung của hai vị tướng, bên trái thờ tướng Đại Trận, bên phải thờ Hoàng Hoa Thám. Hàng tháng vào ngày rằm, mồng một, nhân dân địa phương vẫn ra điếm thắp hương tưởng nhớ công ơn của hai vị tướng tài giỏi năm xưa. Vào ngày hội đền Trũng mồng 5 tháng Giêng âm lịch, điếm Trũng được mở cửa để nhân dân bốn phương về đây thắp hương tưởng niệm.
Ngoài ra, khu di tích này còn có Nơi ở của Hoàng Hoa Thám thời niên thiếu và Khu mộ của thân tộc Hoàng Hoa Thám. Danh tiếng của ông vẫn còn truyền tụng trong nhân gian:
"Ba mươi năm khắp núi rừng
Danh ông Đề Thám vang lừng trời Nam”...
Hằng năm hội lệ khu di tích được tổ chức chung vào mồng 5 tháng Giêng âm lịch. Đồ lễ cúng gồm có hương đăng, hoa quả, xôi, gà, rượu, chè…Hội tuy không có nghi lễ rước nhưng ai cũng thấy vui vẻ, trang nghiêm.
(nguồn: tanyen.bacgiang.gov.vn)
Là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lớn của làng Chuông xưa, nay là thôn Tiến Phan 2, xã Nhã Nam, huyện Tân Yên. Theo các tài liệu, hiện vật còn lại trong di tích, các nhà nghiên cứu đã xác định đình làng Chuông là một ngôi đình cổ được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII).
Hiện nay đình làng Chuông tọa lạc trên khuôn viên đất rộng, cao thóang ở trung tâm làng Chuông. Bố cục mặt bằng di tích được làm theo lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 7 gian tiền đình và hai gian hậu cung, ngoảnh hướng Nam. Tòa tiền đình xây gạch chỉ, ngoài phủ vữa quét ve vàng, mái lợp ngói mũi, bờ nóc lợp ngói bò. Bờ dải hai hồi xây gạch, ngoài phủ vữa. Bảy gian tòa tiền đình đều trổ cửa bức bàn, sơn màu nâu. Giữa sân và nội tự được ngăn cách bởi hàng hiên nhỏ chạy suốt bảy gian. Nền đình lát gạch vuông truyền thống. Kết cấu chịu lực bên trong được tạo bởi 8 vì có chung một kiểu thức gắn kết theo lốì kèo kìm cánh báng, quá giang gác tường. Hậu cung được tạo bởi 2 gian, tường xây gạch chỉ, mái lợp ngói mũi, kết cấu chịu lực bên trong được tạo bởi 3 vì, mỗi vì hai hàng chân cột, các cấu kiện được gắn kết theo kiểu thức kẻ chuyền, trốn cột, bào trơn đóng bén, không chạm khắc cầu kỳ. Hậu cung có khám thờ đặt long ngai bài vị. Đồ rước sách có kiệu bát cống, chấp kích, bát bửu, tàn lọng và nhiều đồ thờ được sơn thếp. Hiện trong đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật, sắc phong và đồ thờ tự quý giá. Những hiện vật này phần nào khẳng định lịch sử ra đời của di tích. Đồng thời cho biết, đình làng Chuông tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Trấn Giang Đô Thống. Ngoài ra đình cũng thờ Nàng Giã Đại Thần - một vị nữ tướng của hai Bà Trưng. Sau này vào thời Nguyễn, đình còn thờ một vị phúc Thần là người con của quê hương Nhã Nam, đó là ông Nguyễn Đức Hiên đã công đức tiền của tu sửa đình.
Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Đình làng Chuông là nơi Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, bàn việc tổ chức những trận đánh lớn chống thực dân Pháp. Làng Chuông còn là nơi sinh ra Dương Văn Truật còn gọi là Đề Hậu - một trong những vị tướng tài giởi, giữ vai trò chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Ông có tài bắn cung bách phát - bách trúng khiến bọn giặc Cờ Đen do Ngô Côn cầm đầu và sau này là thực dân Pháp và bè lũ tay sai phải kinh Hoàng, khiếp sợ khi nhắc đên tên ông. Khi Lương Văn Nắm (Đề Nắm) - người làng Hả giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Dương Văn Truật gia nhập nghĩa quân, trở thành một trong những vị tướng giởi giúp Đề Nắm và sau này là Đề Thám tổ chức nhiều trận đánh, gây cho thực dân Pháp những tổn thất lớn cả về người và của.
Năm 1892, Đề Thám lên thay Đề Nắm (do Đề Nắm bị ám sát) lãnh đạo phong trào chống Pháp. Ông đã sai Đề Hậu cùng các tướng bắt Đề Sặt là kẻ ám hại Đề Nắm để tế cờ báo thù cho Đề Nắm. Sau đó, Đề Thám điều Đề Hậu lên Thái Nguyên bắt liên lạc với các cánh quân của Đề Nguyên, Đề Công, Đề Cam. Những cánh quân này kéo về Yên Thế làm cho lực lượng nghĩa quân mạnh dần lên. Từ Thái Nguyên trở về, đến đồn Bãi Bục giáp Hồng Lĩnh, Đề Hậu cho quân dừng chân ăn cơm tối và nghỉ ngơi. Tại đây lợi dụng lúc Đề Hậu mất cảnh giác, một tên phản bội đã ám hại ông, cắt lấy đầu đem về nộp cho đồn binh Nhã Nam lấy thưởng. Thực dân Pháp đem đầu ông bêu 3 ngày ở chợ Nhã Nam đế khủng bố tinh thần quần chúng. Đến đêm, bà Cổng là con gái ông đã lẻn lấy được đầu ông gói vào vạt áo dài bí mật đem về làng Chuông mai táng. Sau đó, vợ con ông phải trốn lên tận Kép Thượng, xã Lam Cốt tránh sự trả thù của thực dân Pháp và tay sai, sau vài năm mới trở lại làng Chuông.
Cùng với giá trị lịch sử, đình làng Chuông là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân thôn Tiến Phan 2. Hằng năm, tại trung tâm di tích đình làng Chuông, nhân dân địa phương lại long trọng tổ chức lễ hội vào ngày 12, 13 tháng Giêng đế tướng nhớ công lao của những vị Thánh thờ trong đình. Trong lễ hội có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc và những sinh hoạt văn nghệ truyền thống thu hút đông đảo bà con cùng nam thanh nữ tú xa gần đến tham dự.
(nguồn: tanyen.bacgiang.gov.vn)
Đây là một di tích cổ còn bảo lưu nhiều nét kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Đình Nội được xây dựng ở một gò đất cao thuộc đất giáp Trong, giữa làng Nội và làng Lý. Đình do nhân dân ba giáp Tây, Mỹ, Trong của làng Nội xưa thuộc xã Hữu Mục, tổng Tuy Lộc Sơn, huyện Yên Thế, đóng góp xây dựng, nên gọi là đình Nội. Theo các hoạ tiết hoa văn mang phong cách độc đáo của thời Lê, trên câu đầu gian giữa của đình, có ghi “Tuế thứ Ất Mão tạo” chính là năm 1775, đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34. Đình thờ Cao Sơn – Quí Minh.
Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, Đình Nội trước quay về hướng Tây Nam, mái đao chỉ thẳng vào xóm Nội. Dân thấy “góc đao ao đình” là điều không hay khiến dân trong làng thường xuyên lục đục mất đoàn kết. Vì Hoàng Hoa Thám và Nghĩa quân có mối quan hệ mật thiết với Làng, thường xuyên qua lại nơi đây họp bàn với các cụ Đốc Tuân (làng Lý); Chánh Hoạch (làng Nội), Tổng Lò (Văn Miếu), nên dân làng đã xin cụ Đề Thám chuyển hướng cho ngôi đình. Từ đó, đình được xoay về hướng Đông Nam. Cũng sau lần bắn đình này, dân làng cho xây trước đình 2 tòa tả vu, hữu vu và cổng nghi môn bề thế. Nhìn từ xa, đình làng Nội nổi lên sừng sững giữa khung cảnh thiên nhiên đẹp của một làng quê với lũy tre xanh xanh, với những cây cổ thụ vươn mình trong mưa nắng bên sân đình, cùng hồ sen xanh ngát tỏa hương thơm mát từ ao đình khiến tình quê càng thêm nồng đượm.
Đình Dương Lâm là nơi thờ Đức Thánh Cao Sơn, Lâm Giang Đô thống. Vốn là một ngôi đình cổ khởi dựng từ thời Lê, tiền đình có 3 gian, hai bên có tòa tả, hữu vu. Theo sử sách ghi lại, tại Dương Lâm có ông Dương Đình Hậu (còn gọi là Cai Hậu) đã giúp Hoàng Hoa Thám rất đắc lực trong việc đánh thực dân Pháp từ năm 1885-1895. Để bảo đảm an Toàn cho các tướng lĩnh và nghĩa quân Yên Thế, cụ Cai Hậu đã cho đào một hầm bí mật từ hậu cung đình Dương Lâm xuyên ra bờ ao rồi thông đi nơi khác. Tại đây cũng đã chứng kiến rất nhiều cuộc họp quan trọng diễn ra giữa thủ lĩnh nghĩa quân với các tướng lĩnh, như Thống Lĩnh (Dương Lâm), Đề Trung (làng Hạ), Đề Thị (làng Thị), Thống Luận (làng Trũng)… Tại làng Dương Lâm đã diễn ra nhiều cuộc đụng độ giữa nghĩa quân Yên Thế với quân Pháp. Trong một lần bị vây hãm, dân làng và nghĩa quân đã cùng nhau kề vai sát cánh, dũng cảm chống lại kẻ thù dưới sự chỉ huy của Cai Hậu và Hoàng Hoa Thám buộc chúng phải rút lui.
Với đình Dương Lâm, tương truyền vốn được xây dựng ở khu Bãi Đình. Song vì lý do đình ở xa làng, giặc giã thường đến quấy phá nên Hoàng Hoa Thám đã cùng với nghĩa quân Yên Thế bàn với dân làng di chuyển đình về vị trí trung tâm làng Dương Lâm như hiện nay. Đề Thám lại cùng cụ Cai Hậu trồng cây Dã Hương ở trước sân đình làm kỷ niệm, cây Dã Hương hiện trên 100 năm tuổi.
Ngày nay mỗi khi tới thăm đình Dương Lâm ai cũng được nghe nhân dân trong làng từ các cụ già tới em nhỏ kể về những vị tướng đã có công giúp dân, giúp làng như câu chuyện về Quận công Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc. Sau này vào thời Nguyễn là những chuyện kể về mối quan hệ mật thiết giữa làng Dương Lâm với nghĩa quân Yên Thế.
Ngày 15 tháng Giêng, là ngày khai hội Đình Vồng ở xã Song Vân. Đây là vùng đất nổi tiếng từ hàng trăm năm trước với câu: “Trai Cầu Vồng Yên Thế - Gái Nội Duệ Cầu Lim”.
Khu di tích đình Vồng gồm một quần thể di tích cổ với đầy đủ các loại hình như: Đình, chùa, đền, nghè Vồng, ngòi Vồng và cầu Vồng. Đình Vồng xưa thuộc xã Vân Cầu, tổng Vân Cầu, phủ Yên Thế. Ngày nay, khu di tích này nằm trên phần đất của thôn Ngò, xã Song Vân, huyện Tân Yên. Dân gian truyền rằng xa xưa bên suối Vồng (khi đó chưa có cầu) có một cây gỗ lớn chìa một cành lớn qua suối và dân làng Ngò theo đó để qua lại nên mới gọi là Cầu Vồng.
Vào khoảng thế kỷ XVI, khi triều đình cho mở đường qua vùng đất Vân Cầu để kinh lý lên Yên Thế (vẫn gọi là đường quan triều) đã cho bắc một cây cầu qua suối Vồng. Cầu Vồng được làm theo lối thượng gia hạ kiều 7 nhịp vồng lên. Lại truyền rằng: Thế kỷ XVI, dưới triều Mạc, tại vùng đất Vân Cầu khởi phát dòng họ Dương. Thượng tổ Quận công Dương Quốc Nghĩa và vợ là Cao Xuân Lộc, quê ở làng Lim (Bắc Ninh) đều là những người có nhiều cống hiến với triều đình. Đời con cháu của ông cũng lập được nhiều công trạng và được ban phong Quận công cả thảy có tới 18 vị. Theo truyền thuyết dân gian, trong một trận chiến, ba cha con Dương Quốc Nghĩa tử trận, bà Cao Xuân Lộc đã gieo mình xuống giếng Vồng tự vẫn cho tròn nghĩa vợ chồng. 18 vị Quận công họ Dương được đưa vào thờ cúng tại đình Vồng. Những tư liệu hiện vật còn bảo lưu trong cụm di tích như cây hương đá dựng năm 1704, sắc phong thời Nguyễn và nhiều đồ thờ tự khác... cho biết cụm di tích Cầu Vồng được xây dựng từ thời Hậu Lê thế kỷ XVII và đã được tu sửa nhiều lần. Đây là nơi tôn thờ những người có công với dân với nước như Đức thánh Cao Sơn-Quý Minh thời Hùng Vương, 18 vị Quận Công dòng họ Dương người địa phương sống ở thời Lê-Mạc và các tướng sỹ của nghĩa quân Yên Thế tử trận.
Đình Vồng hiện nay bố cục kiểu chữ đinh gồm 3 gian 2 chái, tòa đại đình nối tòa hậu cung 2 gian nhỏ. Chùa Vồng có tên chữ là Hồng Cầu tự nằm phía sau ngôi đình và ngôi đền Vồng tạo nên quần thể di tích liên hoàn cổ kính theo kiểu tiền Thần hậu Phật. Chùa bố cục kiểu chữ công gồm tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tòa tiền đường có 5 gian 2 chái. Đền Vồng nhìn ra Ngòi và cây Cầu Vồng. bố cục kiểu chữ nhất gồm 1 gian 2 chái. Nghè Vồng có kiến trúc gỗ thời Nguyễn, di tích nằm giáp Ngòi và cây Cầu Vồng cũ. Phía trước Cầu Vồng có bãi trận là nơi tập trận của binh sỹ từ thời Lê -Mạc, sau là bãi tập trận của nghĩa quân Yên Thế. Cách di tích Cầu Vồng khoảng 400m về hướng Bắc là điểm vọng gác của nghĩa quân Yên Thế, thuộc dốc đình Vồng hay còn gọi là vọng gác Cầu Đá. Nơi đây thường ngày đều có quân của Đề Thám canh gác theo dõi tình hình của quân Pháp. Di tích Cầu Vồng là nơi tập hợp các tướng lĩnh tài ba cùng hợp sức đánh đuổi giặc Pháp, mà hình tượng tiêu biểu sau này là người thủ lĩnh áo vải Hoàng Hoa Thám.
Lễ hội đình Vồng là một lễ hội có truyền thống lâu đời. Nơi đây còn bảo lưu được nhiều nét văn hóa dân gian độc đáo. Trung tâm lễ hội xưa được tổ chức tại khu di tích đình Vồng với lực lượng chính là 4 xã: Song Vân, Việt Ngọc, Ngọc Vân, Lam Cốt và một số xã khác ở phía Tây của huyện Tân Yên cùng tham gia. Hàng năm hội đình Vồng được tổ chức vào ngày 15 tháng giêng và ngày 9,10,11 tháng 9 âm lịch. Trong ngày hội có tổ chức rước, tế lễ và các môn thi đấu, trò chơi dân gian, biểu diễn văn nghệ. Đám rước diễn ra với nghi thức trọng thể, rước 17 đạo sắc từ nhà sắc làng Vân Cầu nay là thôn Hồng Phúc và Tân Lập về đình. Sắc rước về đến đình thì tổ chức tế lễ. Hội xưa có tiết mục tế ngựa rất uy nghiêm. Hiện nhân dân trong vùng còn lưu truyền bài văn tế ngựa đặc sắc. Trong lễ hội có tổ chức thi đấu nhiều môn thể thao dân gian giàu tính thượng võ như: Vật, múa võ, đua ngựa, bắn cung nỏ và các trò chơi: Đu, chọi gà, đánh cờ, đánh phết, thi thả diều, thi chạy chữ… Ngoài ra, còn diễn các tích trò, tổ chức thi hát đối đáp giữa các gánh hát trong vùng và các nơi khác đến biểu diễn trong hội. Hội đình Vồng được tổ chức long trọng, vui vẻ trong ba bốn ngày đêm.
(nguồn: tanyen.bacgiang.gov.vn)
Đình Vường ở thôn Hậu, xã Liên Chung, huyện Tân Yên. Đây là ngôi đình đẹp; qui mô lớn và có kết cấu kiến trúc hoàn hảo nhất ở Bắc Giang nếu nói về nguyên mẫu ban đầu. Đình Vường là công trình kiến trúc nghệ thuật của thế kỷ XVIII, đã gần ba trăm năm nay chưa hề có một lần trùng tu nào lớn. Bởi thế nó rất hấp dẫn đối với những ai có tình cảm yêu thích những giá trị văn hóa cổ kính ban đầu của các công trình kiến trúc nghệ thuật. Tiếc rằng cho đến nay do đình nằm ở vị thế không thuận tiện giao thông hiện tại nên chưa thu hút được sự chú ý của khách tham quan, nghiên cứu bởi nó nằm sâu trong khu vực núi Dành.
Đình Vường nằm ở thôn Hậu. Thôn Hậu cũng là Hương Hậu mà cũng gọi là làng Vường, thôn Vường. Thôn Vường trước năm 1945 thuộc xã Chung Sơn, tổng Tuy Lộc Sơn, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Dưới thời Lê, đình thuộc thôn Hậu, xã Chung Sơn tổng Bảo Lộc Sơn, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc. Do đình nằm ỏ thôn Hậu nên đình có tên gọi theo tên làng. Tuy thế đình vẫn có cái tên chữ là: Đình Thịnh Vượng. Thịnh Vượng là do chữ làng Vường mà ra. Xem xét các tư liệu chữ Hán ở đình và căn cứ phong cách kiến trúc ngôi đình có thể xác định Đình Vường là công trình của thế kỷ 18. Tòan bộ khu đình xây dựng hoàn hảo gồm các công trình đại đình và tả vu, hữu vu, sân, vườn, tam quan.
Tòa đại đình đặt trên đỉnh gò đồi, bố cục mặt bằng theo kiểu chữ công gồm ba hạng mục: Đại đình, ống muông, hậu cung. Đại đình có ba gian hai trai, kết cấu vì kèo, chồng giường giá chiêng. Ống muống rộng, ba vì nối tòa đại đình với tòa hậu cung ba gian thành một khối chắc chắn. Trong tòa đại đình hệ thống sàn, ván còn khá nguyên vẹn. Tòa đại đình và tòa hậu cung được ngăn cách bởi hệ thống cửa cấm đóng kín chỉ mở khi làm lễ. Trên các vì của tòa đại đình, người xưa đã chạm khắc lên các cấu kiện những họatiết hoa văn mang phong cách thời Lê Trung hưng khá độc đáo. Đó là các bức phù điêu ở cửa võng, đầu dư, cốn chồng, kẻ, bẩy... Các bức điêu khắc đó mang chủ đề "ngũ mã đồng quân" "long, phượng, mây, trúc"... Điều độc đáo ở các bức phù điêu này cũng tương tự như chùa Không Bụt. Đó là sự không đủ bộ được thể hiện ở chủ để tứ linh, tứ qúi. Mặt khác tính cách dân gian phóng túng của các mảng điêu khắc cũng rất đậm nét. Ở một số mảng long - phượng đã được tạc các chú tễu cỏi trần tay vuốt râu rồng; hoặc hình chim phượng lại biến thành một cặp nam - nữ đầu người mình chim. Trên khám thờ bưng gỗ đủ cả long ngai, bài vị và những đồ thờ tự khác, ở hai gian bên đại đình có đôi ngựa hồng ngựa bạch và đôi hạc thờ rất lớn đặt trên nền đá xanh ở gian giữa làm theo lối lòng thuyền. Đình Vường còn đủ hệ thống cửa bức bàn chạy suốt năm gian. Bổn góc đình để đỡ đầu đao và để tạo dáng đã được xây tường gạch đỡ tàu đao.
Toàn bộ phần mái đình được lợp bằng ngói mũi cổ dày dặn, sóng đểu đẹp đẽ. Hệ thống bờ dải nóc, đao trái được trát đắp và đặt gạch trang trí hoa chanh làm cho mái đình thanh tao trang nhã. Bốn đao đình và hai đầu nóc được kê xếp đắp đặt các đao sành gốm bay vút lên như cánh diều no gió, rất đẹp. Dọc bờ dải hoa chanh các con nghê, con kìm, con sấu được gắn đặt bên các hình rồng hài hòa, ngộ nghĩnh. Những con giống bằng gốm này đều là sản phẩm chính gốc thời Lê ít ngôi đình còn có. Do dó chúng cũng như những hình con rồng, con phượng đục khắc ở trong đình đã trở thành các mẫu, các tiêu bản để làm mẫu so sánh và xác định cho các ngôi đình, ngôi chùa khác.
Sự hoàn hảo của ngôi Đình Vường đã làm cho nó trở thành độc đáo và tiêu biểu có thể coi là một nguyên mẫu trong ba ngôi đình nguyên mẫu của Bắc Giang. Có điều ở nguyên mẫu này chưa bị sự tu sửa làm biến đổi. Song cũng tiếc rằng, Đình Vường lại mất đi tòa tả vu, hữu vu và cổng tam quan. Tuy là công trình nhỏ, phụ song nó cũng làm cho cảnh quan của Đình Vường kém phần bề thế, đẹp đẽ. Gần đây một sô cấu kiện của đình do lâu ngày ải cũ đã làm cho ngôi đình xuống cấp. Góc đao bị sệ kéo gây lún nứt rất cần được tu sửa. Nhân dân địa phương đã tìm cách khắc phục sự hư hại đó song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu bảo tồn về ngôi đình này.
(nguồn: tanyen.bacgiang.gov.vn Hình: VNExpress)
Ngoài những di tích lịch sử nổi tiếng, Tân Yên còn có những đặc sản "thử là mê", đã tạo nên thương hiệu, cũng như làm cho mọi người biết đến Tân Yên như Vải sớm Phúc Hòa, chổi chít Việt Lập; các làng nghề truyền thống lâu đời được ưa chuộng như nghề làm Hương ở Ngọc Lý, nghề làm Nón ở Liên Sơn, nghề làm Diều ở Song Vân. Ngoài ra còn có một số sản vật, ẩm thực như Sâm Nam Núi Dành, Nem nướng Liên Chung, Tương Vân Cầu, Bánh đa Việt Ngọc...
Thời nhà Nguyễn, tỉnh Bắc Giang có tên gọi là Kinh Bắc, còn huyện Tân Yên ngày nay thuộc Yên Thế. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi rằng: “Tên, nỏ sản xuất ở huyện Yên Thế, cát sâm sẵn ở đỉnh núi Chung Sơn.."
Chung Sơn là tên của núi Dành ngày nay, thuộc địa phận hai xã Liên Chung và Việt Lập, huyện Tân Yên. Núi cao hơn 100 mét so với mực nước biển, nằm cạnh con sông Thương nổi tiếng. Trên đỉnh núi Dành có ngôi đền thiêng thờ thần Cao Sơn - Quý Minh. Nhìn từ xa, núi Dành uy nghi và chứa đựng những trầm tích văn hóa kỳ lạ của vùng đất này, nổi tiếng với bao kỳ hoa dị thảo, đặc biệt là loài sâm quý. Sâm Nam núi Dành là tên mà người dân bản địa vẫn quen gọi, cũng có người gọi là cát sâm, sau này loài sâm nổi tiếng với tên gọi “sâm tiến vua”
Ở vùng Chung Sơn này, nam, nữ, lão, ấu họ đều nằm lòng chuyện kể liên quan đến sâm Nam đã chữa khỏi bệnh cho mẹ vua Tự Đức (tức Thái hậu Từ Dũ). Chuyện rằng, thái hậu Từ Dũ bỗng nhiên mắc bệnh lạ rồi thành mù lòa. Thương mẹ, nhà vua đã tìm mọi thảo dược quý hiếm để cứu chữa song bệnh tình không có kết quả. Từ thái y trong cung đến các bậc thần y kỳ tài trong dân gian chữa trị rất nhiều mà không khỏi. Biết tin, quan lại xứ Kinh Bắc liền dâng lên vua loại sâm quý hiếm. Thái hậu dùng sâm quý như thuốc tiên đã giúp đôi mắt của bà sáng lại. Từ đó, sâm núi Dành trở thành vật phẩm tiến vua và dân gian truyền tai câu ca: "Sâm nam nổi tiếng núi Dành. Chữa lòa cho mắt lại lành như xưa”.
Từ khi trở thành sản vật tiến vua, sâm nam núi Dành được coi như “sâm tiên”, người đời săn tìm ráo riết. Cũng vì thế mà loài sâm này đã có thời gian gần như tuyệt chủng. Sau này, các nhà khoa học và một số người dân địa phương tâm huyết đã tìm cách bảo tồn, nhân rộng loài thảo dược quý này, trong đó có gia đình ông Thân Hải Đăng, một nông dân ở thôn Đồng Sen, xã Việt Lập đã gìn giữ tốt giống sâm này, được ví như "Báu vật của dòng họ Thân"
Sâm Nam núi Dành có tên khoa học là Callerya speciosa, phân bố hẹp, chủ yếu ở xã Việt Lập và Liên Chung - nơi có thành phần thổ nhưỡng đặc biệt (đá cám, canxi và magiê). Nhóm chất chính trong mẫu sâm là saponin (hoạt chất chính tạo nên những công dụng kỳ diệu của sâm), flavonoid (hoạt chất chống lão hóa), acid hữu cơ, acid amin...
Mẫu sâm hơn 5 tuổi có hàm lượng lớn hơn đáng kể so với mẫu 2, 3, 4 tuổi. Cụ thể, nhóm chất saponin ở củ sâm Nam núi Dành 5 tuổi cao hơn so với loại 2 tuổi 253%, flavonoid là 595%. Đáng chú ý, hàm lượng chất saponin tương đương với sâm Hàn Quốc và chỉ đứng sau sâm Ngọc Linh - loại sâm quý, hiếm nhất thế giới... Sâm núi Dành có 2 loại: năm lá và ba lá, đều leo bò như khoai lang, sinh trưởng chậm.
Trong mâm cỗ ngày Tết, mâm cơm đãi khách ở xã Liên Chung (Tân Yên - Bắc Giang), không thể thiếu nem chạo, món ăn thơm phức có vị giòn ngọt của thịt, thơm mùi thính và lá ổi, đinh lăng...
Theo các bậc cao niên, nem chạo ở xã Liên Chung có gần 100 năm nay, bắt nguồn từ phong tục ngày Tết Nguyên đán ở thôn Liên Bộ, sau dần phát triển ra tòan xã. Nem chạo được làm từ các nguyên liệu rất gần gũi.
Nguyên liệu chính là thịt lợn, lá ổi, lá đinh lăng, thính gạo và muối ăn. Công thức chế biến nem chạo đòi hỏi công phu, từ khâu chọn thực phẩm, pha chế, kỹ thuật gói, ủ bảo quản và sử dụng.
Trước hết, chọn thực phẩm phải tươi ngon: hai phần thịt nạc, một phần thịt mỡ vai và bì, thịt luộc chín tới, pha thành khổ, rồi thái nhỏ thành sợi dài 2-3cm, sợi thịt càng nhỏ càng tốt.
Gạo tẻ để làm thính chọn loại gạo ngon, đều hạt, đem rang vàng thơm phức rồi xay nhỏ thành bột, muối ăn cũng được rang vàng khô rồi tán nhỏ thành bột, đem trộn đều thịt, thính, muối. Chờ 10 đến 15 phút trước khi gói nem thành quả, mỗi quả trọng lượng từ 1,2 đến 2 lạng, tiếp đó ép lá ổi và lá đinh lăng vào bốn mặt ngoài của quả nem.
Lá để gói quả nem nhất thiết phải là lá chuối tươi. Sau khi gói xong, nem được buộc thành từng túm mỗi túm 10-15 quả, treo ở chỗ cao ráo thóang mát. Thời gian ủ chua mùa hè là 2 ngày, mùa đông là 3 ngày.
Nem chạo phải ăn nóng mới ngon, cho nên trước khi ăn, nem phải được nướng trên bếp than hoa, khi nào thấy chín vàng xém mùi thơm nức là được.
Nem chạo nướng Liên Chung thật sự hấp dẫn bởi hương vị ngon ngọt từ thịt nạc, độ giòn của bì, độ béo của thịt mỡ, vị chan chát bùi, thơm của lá ổi, lá đinh lăng, mùi thơm dễ chịu của thính gạo rang, độ đậm đà của muối. Nem chạo dễ ăn, vừa bổ dưỡng, rất tốt cho tiêu hóa (đặc biệt là rất được ưa chuộng trong những ngày Tết). Hiện nay món nem này đã được người dân nhiều địa phương trong và ngoài huyện biết đến và sử dụng./. (Nguồn: VnExpress)
Bắc Giang được coi là thủ phủ vải thiều của cả nước. Vải thiều chính vụ tập trung ở huyện Lục Ngạn còn vải thiều sớm tập trung ở huyện Tân Yên, với khoảng hơn 1.000 ha, đa số ở các xã Phúc Hòa, Tân Trung, Hợp Đức. Chỉ riêng xã Phúc Hòa đã có trên 500 ha vải sớm, và thương hiệu vải sớm đã đi xa khắp nơi, kể cả ở thị trường Trung Quốc. Vải sớm Phúc Hòa quả đẹp, to, có vị ngọt thanh, dày cùi.
Cây vải ở Tân Yên đã có nguồn gốc từ 100 năm về trước, khi những người di cư từ vùng Thanh Hà, Hải Dương đến đây lập nghiệp đã mang theo. Ngày nay, tại thôn Thái Hòa, xã Phúc Hòa còn cây vải tổ được người dân giữ gìn cẩn trọng như di sản của cha ông để lại.
Liên quan đến Vải sớm Phúc Hòa, người dân ở đây thường nhắc đến danh từ “sẹo cây” dính liền với "vải sớm". Vì thấy những cành cây vải bị trâu báng sứt sẹo, hay ở những cành chiết thì quả ra tốt và thường chín sớm hơn, nên nhà nào cũng khía cho cây ra sẹo, càng nhiều càng tốt, những vòng tròn trên cành rộng chừng 5 - 6 mm rồi bóc đi lớp vỏ ngoài nhằm giảm chất dinh dưỡng dành cho lớp vỏ đó, để nuôi hoa, quả. Cây tốt, quả ra sớm.
Vải sớm Tân Yên thu hoạch quả đúng vào dịp Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng 5 âm lịch, vì chín trước một tháng, so với loại vải thông thường, nên gọi là "vải sớm". Đây là sản phẩm "đi trước" thiên hạ nên được tiêu thụ nhanh chóng.
Ở thôn quê, bánh gio không có gì lạ. Nhưng tại xã Song Vân, huyện Tân Yên cũng chỉ từ hạt nếp, lá bánh và phụ gia truyền thống nhưng dưới những bàn tay khéo léo của các bà các chị, bánh gio nơi đây đã được nâng tầm và trở thành món ăn khá đặc biệt. Một vật phẩm không chỉ trong ngày tết cổ truyền.
Chợ Ổi xã Song Vân, huyện Tân Yên họp vào các phiên 1,3,6,8. Ở hàng bánh trái, phiên chính cũng như phiên xép đều không thể thiếu bánh Gio. Người đi chợ mua bánh gio về cho con trẻ, khách vãng lai mua bánh gio về làm quà. Hàng trăm nay nay, bánh gio Vân Cầu nay là Song Vân đã được coi là đặc sản của vùng quê này. Trước đây bánh gio chủ yếu được làm và ngày lễ tết, hiện nay xã Song Vân có chừng gần một chục hộ chuyên làm bánh gio để bán. Một trong những nghệ nhân làm bánh gio có tiếng ở đây đó là bà Giáp Thì Giáo ở thôn Bùi. Bà Giáo cho biết ngay từ khi còn nhỏ đã học làm bánh gio từ mẹ đẻ. Sau này thường chỉ gói vào dịp lễ tết. Mấy năm nay mới gói để bán và gói theo đặt hàng chứ không đưa ra chợ.
Song Vân, xưa còn có tên gọi Vân Cầu. Bánh gio Vân Cầu có những nét rất riêng không lẫn vào đâu được. Công đoạn làm bánh gio khá công phu với rất nhiều công đoạn. Riêng về kỹ thuật gói, luộc cũng là một nghệ thuật Thường như bà Giáo mỗi năm gói gần 10.000 cái bánh gio. Riêng trong dịp tết gói tới 6000 chiếc và thường là khác đặt hàng không bán ở chợ. Được biết cứ 1 kg gaọ ngâm, gói được 20 chiếc bánh gio. Giá hiện nay là 5000 đồng một chiếc. Bà Giáo cho biết thêm: Để làm ra những chiếc bánh gio, đẹp, ngon, thì nguyên liệu làm bánh rất quan trọng. Vẫn chỉ là những nguyên liệu chủ yếu như cây mìn tên, vỏ bòng, bưởi, rền gai, vỏ đỗ tương… Sau khi đem gom lại đốt thành tro thì ngâm trong nước. Vấn đề chính là sự phối trộn. Khó nhất là khâu phối trộn ngước vôi và nước tro sao cho có tỷ lệ hợp lý để có mẻ bánh ngon. Kỹ thuật của người làm bánh gio Vân Cầu đã đạt đến độ điêu luyện. Bánh gio Vân Cầu luộc xong để nguội bóc ra, riêng chỉ mầu sắc thôi cũng đủ để lôi cuốn mọi người. Chị Đồng Thị Thanh về làm dâu ở thôn Bùi cho biết ở Hải Dương quê chị không có loại bánh này. Ngày mới về ăn cũng chưa quen, nhưng rồi thấy thích và nghiện nó. Với anh Nguyễn Văn Thuấn, thôn Bùi cách thức tiếp cận về bánh gio lại có khác, anh cho biết: tại Song Vân không phải ai cũng biết làm bánh gio, làm ngon lại càng ít vì phải tìm đủ nguyên liệu, tỷ lệ phối trộn là bí quyết riêng. Bánh gio theo an Thuấn, không chỉ ngon mà nó còn trợ giúp tiêu hóa, nhất là vào ngày tết nhiều thịt mỡ.
Bánh gio Vân Cầu vốn có tiếng từ xa xưa, và ngày nay món bánh quê này nó không chỉ có trong mỗi mâm cơm ngày tết, mà đã và đang đi vào cuộc sống thường ngày. Bánh gio Vân Cầu đã và đang được nhiều người tìm đến. Người dân Song Vân trân trọng vổn cố và gìn giữ, tiếp nối nghề làm bánh gio truyền đời.
(nguồn: Châu Giang / tanyen.bacgiang.gov.vn)
Trồng trọt là điểm mạnh của người dân Tân Yên vì được ưu đãi bởi điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu. Ngoài Vải Thiều, Ổi, Dứa,.. Tân Yên còn nổi tiếng với Vú Sữa, có mặt ở hầu hết khắp các thôn trong xã miền núi Hợp Đức, như: Cửa Sông, Lò Nồi, Lục Liễu, Hòa An…. Vú sữa ở đây thơm ngon, có vị ngọt thanh, vỏ quả mỏng, khi chín có màu mỡ gà.
Mỗi năm, xã Hợp Đức đạt khoảng 60 tấn, trung bình khoảng 3 tấn/năm cho mỗi ha. Vú sữa không bị mất mùa, năm nào cũng cho quả, thương lái thường vào tận vườn thu mua, với giá từ 25.000 – 30.000 đồng/kg.
Nghề làm tương ở Vân Cầu, nay là xã Son Vân đã có cách đây hàng trăm năm. Tương Vân Cầu, thơm, ngon, bổ có tiếng. Đồ rằng, tương Vân Cầu ngon bởi nước giếng tại đây trong mát, sạch và rất hợp để làm tương. Tương Vân Cầu cũng đã đi và thơ ca. Trong Phương ngon xứ Bắc có câu:
Mình về nhớ cá Chản Thương
Nhớ cơm Đại Hóa, nhớ tương Vân Cầu”.
Nghề làm tương ở Vân Cầu giờ vẫn được người dân gìn giữ và phát triển.