Khi về tới Xóm Mới, toàn bộ số giáo dân thuộc Giáo phận Bắc Ninh [1], được sắp xếp định cư dọc theo bờ sông Vàm Thuật (các xứ Hoàng Mai, Tân Hưng, Trung Bắc, Bắc Dũng và Tử Đình). Đây là vùng đất thấp (trũng), có nhiều cỏ và lau sậy mọc hoang. Vùng đất còn lại tương đối cao hơn, là nơi định cư của những người đến từ Hà Nội, Hà Đông, Thái Bình, Lạng Sơn và nhiều nơi khác. Thời gian đầu, Xóm Mới được chia thành 8 khu, từ khu 1 (Hà Đông) tới khu 8 (Hợp An).
Riêng số dân làng Bỉ được sắp xếp tại khu vực Bắc Dũng ngày nay. Vào thời điểm này, chưa có tên gọi Bắc Dũng, chưa có cha Đoàn Cung Nhượng, hay nói đúng hơn, chưa phải là một giáo xứ. Dân làng Bỉ (và một số người không thuộc làng Bỉ) được sắp xếp ở trong 3 dãy nhà tiền chế, mái lợp tôn fibro ciment:
Dãy thứ 1: Từ cổng bên phải trở về hướng Hà Nội, Trung Bắc
Dãy thứ 2: Từ cổng bên trái trở về hướng Tử Đình.
Dãy thứ 3: Nằm ngay sau dãy số 1.
Dân làng dùng căn nhà đầu tiên của dãy số 3 làm nhà nguyện, nơi mọi người tụ họp đọc kinh sớm tối. (nhà ông Số hiện nay). Ở 2 bên cổng ngày xưa là nhà ông Ký Nghi (bên phải), và nhà cụ Bạ Tân (bên trái) [2]. Hầu như toàn bộ dân làng Bỉ thuộc giáo xứ Bỉ Nội và các họ lẻ, di cư từ Bắc vào Nam đều tập trung tại Bắc Dũng, trong đó phải kể đến: Gia đình cụ Chánh Diễn (ông Thuyết), Gia đình cụ Chánh Ứng (ông Binh), Gia đình cụ Lý Điển (cô Toàn), gia đình cụ Trùm Lung (ông Hiền), Gia đình ông Trùm Kính (ông Ngợi), Gia đình ông Ký Triện (ông Lộc), Gia đình ông giáo Ngự (cha Lượng), Gia đình ông Kết, Gia đình ông Hạ, ông Cao, Gia đình ông Trùm Trung (ông Rong), Gia đình ông Trùm Lưu (ông Xếp, Vấn), gia đình ông trùm Cầm (ông Cầm), Ông Ái, Ông Hiếu, Bà Thìn, Bà Chúc, ông Bếp Liên (sau bán lại cho ông Huy Cử).
Riêng nhóm dân làng Bỉ khoảng 5-6 gia đình, "đi lạc" xuống Vĩnh Long gồm có: Gia đình ông Lung, ông Ái, ông Cử, ông Quý, Sao Sáng.... Sau khoảng 1 tuần ở Vĩnh Long, nhóm người này được Ủy Ban Định Cư đưa trở lại Bắc Dũng.
Trong thời gian đầu, người di cư ở Xóm Mới nhận được sự hỗ trợ hàng tháng, gồm nhu yếu phẩm từ các quốc gia khác gởi tặng như: Bột mì, cá khô, dầu chiên... sự viện trợ này kéo dài trong nhiều tháng, qua mãi tới năm 1955. Việc phân phối cho đồng bào được giao cho các Ủy Ban phụ trách. Ủy Ban Phân Phát nhu yếu phẩm cho khu vực người Công Giáo Bắc Ninh (các xứ Hoàng Mai, Tân Hưng, Trung Bắc, Bắc Dũng và Tử Đình) gồm có: Trưởng ban là Lm. Giuse Vũ Ngọc Tấn (Chánh Xứ tiên khởi Hoàng Mai, sáng lập & Hiệu trưởng trường trung học Vinh Sơn Liêm), cùng với các thành viên: Ông Nguyễn Ngọc Thuyết (nhà ở đầu Nhà thờ Bắc Dũng, sau này là Hội Viên Phòng Thương Mại và Công Kỹ Nghệ Saigon), ông Trịnh An Lương (tên thường gọi là ông Đội Kiện, nhà ở đối diện nhà máy làm kem, trước cổng Tân Hưng, sau này là Chủ Tịch Xã An Nhơn), ông Nguyễn Văn Thân (nhà ở bên cạnh trường Vinh Sơn Liêm, sau này là Nghị Viên Hội Đồng Tỉnh Gia Định)
Cũng giống như miền Bắc, đơn vị hành chánh nhỏ nhất tại đây là Làng. Năm 1955, quận Gò Vấp có 15 làng: An Nhơn Xã, An Phú Đông, Bình Hòa Xã, Thạnh Lộc Thôn, Hanh Thông Xã, Thạnh Mỹ Tây, Thông Tây Hội và Quới Xuân, Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa, Tân Hòa, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì và Vĩnh Lộc. Sau năm 1956, các làng được gọi là xã. Mọi việc liên quan đến hành chánh đều tập trung tại văn phòng xã An Nhơn (gọi là Nhà Làng) Vị xã trưởng giai đoạn này là ông Nguyễn Văn Phước, người địa phương. Nghe các cụ kể lại, con dấu của Nhà Làng (Hội đồng Nhà Làng) có khắc 3 chữ Quốc ngữ "An Nhơn Xã".
Đến cuối năm 1954, dân số tại Xóm Mới có khoảng 4000 người, và dòng người di cư vẫn tiếp tục đổ về, cho đến khi chương trình di cư chấm dứt, thì con số đã hơn 10000 người.
Năm 1958, vì nhu cầu phát triển, con đường chính tại Xóm Mới được Chính Quyền cho đổ đất xây dựng, mở rộng hơn, tạo sự đi lại dễ dàng cho người dân. Vào thời điểm này, đa số là đường đất, hoặc được trải thêm đá. (Đường Saigon - Vĩnh Long, mãi tới năm 1970 vẫn là đường đất có trải đá) Phương tiện đi lại trên đường phố Sài Gòn giai đoạn này chủ yếu là xe đạp, xe gắn máy, còn phương tiện công cộng thì có xe thổ mộ, xích lô đạp, xích lô máy, taxi, và xe lam.
Cũng trong thời gian này, một nhà máy điện được xây dựng tại Ngã Ba Hợp An - Tử Đình (sau này gọi là Ngã ba Nhà đèn), gồm 2 máy 100 kw, do quân đội Mỹ viện trợ, và chỉ cung cấp điện đường vào ban tối cho khu vực Xóm Mới, còn tại tư gia vẫn dùng đèn dầu, đèn măng xông (phiên âm từ tiếng Pháp: manchon, một loại đèn được thắp bằng dầu hỏa), hoặc gia đình nào khá giả hơn thì có máy phát điện riêng. Phải đợi tới đầu thập niên 70, khi lưới điện quốc gia được kéo về Xóm Mới thì mọi sinh hoạt tại đây mới trở nên nhộn nhịp, phát triển mạnh, vì lúc này điện có liên tục 24/24