(Tổng hợp từ các nguồn: WikiPedia * vi.wikipedia.org * Đại Nam Nhất Thống Chí * Bắc Giang địa chí)
Cách Hà Nội 60 km về hướng Đông Bắc. Theo tài liệu lịch sử đạo Công Giáo được lưu giữ tại Tòa Giám Mục Bắc Ninh, Làng Bỉ được hình thành từ năm 1657, với một nhóm di dân tiên khởi gồm 7 hộ gia đình Công Giáo. Là một địa danh nhỏ bé, Làng Bỉ nằm giữa xã Ngọc Thiện, huyện Tân Yên, Tỉnh Bắc Giang. Trải qua gần 400 năm lịch sử, Làng Bỉ - xã Ngọc Thiện, thường xuyên bị thay tên, chuyển đổi khu vực. Cũng vì thế, mà Làng Bỉ, đã là nơi hội tụ được cái truyền thống khoa bảng của vùng quê Yên Dũng, cái khí phách hào hùng của nông dân Yên Thế và cái văn hiến cổ kính của miền Yên Thế Hạ.
Thời vua Hùng dựng nước Văn Lang, Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh. Đời Lý - Trần gọi là lộ Bắc Giang. Đời Lê là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc. Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách ra từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.
Nằm ở vùng chuyển tiếp giữa châu thổ sông Hồng với miền thượng du phía đông bắc Bắc Bộ, nên có sự ảnh hưởng về giao tiếp văn hóa giữa các dân tộc, đã tạo cho Bắc Giang thành một vùng đất đa dạng về văn hóa, nhất là nền văn hóa Kinh - Nùng/Tày, từ hàng nghìn năm lịch sử. Ba con sông lớn (sông Lục Nam, sông Cầu, sông Thương) là chi lưu của sông Thái Bình rồi đổ ra biển cả như ba vệt chân chim khổng lồ và cũng là ba tuyến giao thông tạo nên sự kết nối về nền văn hóa giữa các vùng/miền văn hóa châu thổ với miền/vùng văn hóa Nùng/Tày xứ Cao - Bắc - Lạng mà Bắc Giang là trung tâm, nơi hội đủ những nét văn hóa ngã ba sông/sông nước, văn hóa cửa rừng/thượng ngàn, và đó là nguồn cội.
Để có cái nhìn khái quát về cội nguồn Làng Bỉ, chúng ta cùng nhau trở về Yên Dũng, Yên Thế và Tân Yên.
Làng Bỉ - Tổng Ngọc Cục, thuộc Huyện Yên Dũng
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (大南一統志), là bộ sách dư địa chí (địa lý - lịch sử) Việt Nam, viết bằng chữ Hán do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn thời vua Tự Đức vào năm 1882, huyện Yên Dũng từ đời Trần, có tên là Cổ Dũng – lỵ sở đóng tại làng Cổ Dũng nằm ở phía nam. Thời thuộc Minh, huyện bị chia đôi: phía nam Nham Biền, vẫn giữ tên Cổ Dũng, lỵ sở như cũ (nay là xóm Huyện, xã Tiến Dũng) còn phía bắc Nham Biền gọi là huyện Yên Ninh, lỵ sở đặt tại Nội Hoàng (nay là xóm Huyện, thôn Chiền). Năm 1419, huyện Yên Ninh được gộp vào Phượng Sơn, Long Nhỡn để thành huyện mới Phượng Nhỡn.
Dưới thời Lê, phần đất thuộc Yên Ninh cũ, mới trở lại cùng huyện Cổ Dũng tạo ra huyện Yên Dũng, có 88 xã trại, lỵ sở đặt tại Như Thiết, sau đó chuyển tới Sen Hồ. Huyện Yên Dũng vào thời Lê – Nguyễn thuộc phủ Lạng Giang trấn Kinh Bắc, giáp ranh với Yên Thế, Yên Việt, Bảo Lộc, Phượng Nhỡn, Quế Dương. Cuối thế kỷ 19, Yên Dũng có 11 tổng (Ngọc Cục, Tự Lạn, Thiết Sơn, Dĩnh Sơn, Mật Ninh, Hoàng Mai, Mỹ Cầu, Phúc Tằng, Tư Mai, Cổ Dũng) với 80 xã phường.
Dưới thời Pháp thuộc, sau khi lập tỉnh Bắc Giang (10-1895) Yên Dũng có các thay đổi sau:
– Tổng Ngọc Cục chuyển sang huyện Yên Thế. Năm tổng Đa Mai, Thiết Sơn, Mật Ninh, Dĩnh Sơn, Tự Lạn chuyển sang huyện Việt Yên. Tổng Phúc Tằng chia làm hai tổng Phúc Long và Phấn Sơn. – Tổng Quang Biểu, Hương Tảo từ Việt Yên chuyển sang huyện Yên Dũng.
Các đơn vị hành chính trên tồn tại được khoảng 20 năm (1895-1914). Sau đó lại thay đổi:
– Các xã Phúc Tằng, Điêu Liễn, Phúc Long, Thượng Phúc, Hùng Lãm chuyển sang tổng Hoàng Mai. Phường Á Lữ đưa sang tổng Thọ Xương huyện Phất Lộc. Xã Chuế Dương về tổng Quế Nham huyện Yên Thế. Xã Mỏ Thổ nhập vào tổng Thiết Sơn. Phường Tam Kỳ sang tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhỡn.
– Lỵ sở của Yên Dũng vẫn đóng ở Sen Hồ.
Đến năm 1924, huyện Yên Dũng lại bị xáo trộn lớn:
– Tổng Mỹ Cầu cùng Đa Mai nhập vào phủ Lạng Giang. Ba tổng Phúc Long, Hoàng Mai, Quang Biểu chuyển về Việt Yên.
– Bốn tổng Phấn Sơn, Tư Mai, Cổ Dũng, Hương Tảo ở lại huyện Yên Dũng với 32 xã, huyện lỵ chuyển về phố Chợ Neo thuộc tổng Tư Mai.
(Xem thêm: Huyện Yên Dũng)
Làng Bỉ - Tổng Ngọc Cục, thuộc Huyện Yên Thế
Tháng 10/1895, tỉnh Bắc Giang được thành lập. Tổng Ngọc Cục được tách ra khỏi huyện Yên Dũng và chuyển sang huyện Yên Thế.
Yên Thế là một vùng đất cổ, có quá trình lịch sử từ lâu đời, gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử dân tộc. Vào thời Lý, Yên Thế chưa trở thành một đơn vị hành chính riêng mà nằm trong khu vực Lạng Châu. Đến thời Trần, mang tên là Yên Viễn thuộc lộ Như Nguyệt Giang. Khi nhà Minh thống trị, Yên Viễn đổi tên là Thanh Yên thuộc châu Lạng Giang. Đời Lê (Lê Quang Thuận) đổi là Yên Thế thuộc phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc. Từ đầu thế kỷ XIX, vào thời nhà Nguyễn, huyện Yên Thế thuộc Phủ Bắc Hà xứ Kinh Bắc. Đến năm Minh Mạng, Phủ Bắc Hà được đổi thành Phủ Thiên Phúc.
Yên Thế là vùng trung du nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang, có chung ranh giới với hai tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn. Yên Thế là nơi có địa hình đồi núi cao và thấp dần theo hướng Đông Nam. Phía Bắc là dãy núi Bắc Sơn, hay còn gọi là cánh cung Bắc Sơn, (một trong năm dãy núi hình vòng cung) chạy từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên. Phía Đông Nam huyện Yên Thế giáp huyện Lạng Giang, với ranh giới tự nhiên là con sông Thương, (một sông lớn trong hệ thống sông Thái Bình) Phía Nam và Tây Nam -trước đây là Yên Thế Hạ nay là Huyện Tân Yên. Phía Tây và phía Bắc Yên Thế giáp các huyện của tỉnh Thái Nguyên, kể từ Tây lên Bắc lần lượt là: Phú Bình, Đồng Hỷ, Võ Nhai. Toàn bộ phía Đông Yên Thế giáp với huyện Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Chảy qua giữa huyện, theo hướng Đông Nam là con sông Sỏi, một nhánh nhỏ đầu nguồn của sông Thương
(Xem thêm: Huyện Yên Thế)
Làng Bỉ - Xã Ngọc Thiện, thuộc Huyện Tân Yên
Sau năm 1945 Yên Thế trở lại đơn vị hành chính huyện của tỉnh Bắc Giang, nhưng các đơn vị hành chính dưới huyện không giữ như cũ, mà thay đổi như: bỏ cấp tổng, cấp xã được mở rộng hơn, nhỏ hơn tổng nhưng lớn hơn làng, bao gồm một số thôn xóm, các đơn vị châu, phủ bị bãi bỏ. Cho đến năm 1957, phần phía nam của huyện Yên Thế (tức miền Yên Thế hạ) tách ra thành lập huyện mới mang tên Tân Yên, phần còn lại vẫn giữ tên cũ là Yên Thế.
Những thay đổi hành chính của Yên Thế - Tân Yên qua các thời kỳ lịch sử cho thấy: Tân Yên là mảnh đất có lịch sử lâu đời, là một bộ phận của xứ Bắc - Kinh Bắc - Hà Bắc nổi tiếng cổ kính và văn hiến. Huyện Tân Yên là địa vực chủ yếu của huyện Yên Thế thời Lý- Trần, Lê - Nguyễn và thời thuộc Pháp. Lỵ sở của huyện cũng từng đặt ở những vùng đất này: Lăng Cao, Hữu Mục, rồi Tỉnh Đạo, Nhã Nam, Cao Thượng.
Sau năm 1975, huyện Tân Yên có 1 thị trấn Nhã Nam và 24 xã: Cao Thượng, Cao Xá, Đại Hóa, Dương Lâm, Hợp Đức, Lam Cốt, Lan Giới, Liên Chung, Liên Sơn, Ngọc Châu, Ngọc Lý, Ngọc Thiện, Ngọc Vân, Nhã Nam, Phúc Hòa, Phúc Sơn, Quang Tiến, Quế Nham, Song Vân, Tân Cầu, Tân Trung, Việt Lập, Việt Ngọc, Yên Lễ.
Ngày 5-8-1978, hợp nhất xã Tân Trung và xã Tân Cầu thành một xã lấy tên là xã Tân Trung; hợp nhất xã Dương Lâm và xã Yên Lễ thành một xã lấy tên là xã An Dương; hợp nhất xã Nhã Nam và thị trấn Nhã Nam thành một xã lấy tên là xã Nhã Nam; sáp nhập xóm Thương của xã Ngọc Lý vào xã Ngọc Thiện.
Ngày 18-2-1997, thành lập thị trấn Cao Thượng, thị trấn huyện lỵ của huyện Tân Yên trên cơ sở 238,96 ha diện tích tự nhiên và 3.810 nhân khẩu của xã Cao Thượng; 28,3 ha diện tích tự nhiên và 781 nhân khẩu của xã Cao Xá; 1,88 ha diện tích tự nhiên và 72 nhân khẩu của xã Liên Sơn.
Ngày 20-2-2003, thành lập thị trấn Nhã Nam thuộc huyện Tân Yên trên cơ sở 63,96 ha diện tích tự nhiên và 3.363 nhân khẩu của xã Nhã Nam; 63,20 ha diện tích tự nhiên và 620 nhân khẩu của xã An Dương.
Dự kiến sau năm 2020 sẽ sáp nhập xã Nhã Nam vào thị trấn Nhã Nam và xã Cao Thượng vào thị trấn Cao Thượng.
(Xem thêm: Huyện Tân Yên)