(*) Tổng hợp từ các nguồn: vi.wikipedia.org * bacgiang.gov.vn * dpi.bacgiang.gov.vn * wiki.youvivu.com * dulichvietnam.com.vn * vanhoabacgiang.vn * VnExpress.net * langvietonline.vn * vanhien.vn
------------------------
“Tiểu loạn cư Hà Đông, đại loạn cư Yên Thế”
Yên Thế vùng đất địa linh sinh nhân kiệt - với những lớp người luôn mang trong mình truyền thống thượng võ, khí phách quật cường, từng in đậm dấu son trong lịch sử đấu tranh.
Yên Thế có địa hình đồi núi trung du, thuộc vùng Đông Bắc (Việt Nam), nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang, giáp giới với hai tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn. Địa hình thấp dần theo hướng Đông Nam, phía Bắc là vùng núi thấp dưới chân dãy núi Bắc Sơn, mà dãy núi này hay được biết đến hơn với cái tên cánh cung Bắc Sơn chạy từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên (một trong năm dãy núi hình vòng cung tạo nên nét đặc trưng của địa hình vùng Đông Bắc). Phía Đông Nam huyện Yên Thế giáp huyện Lạng Giang, ranh giới tự nhiên là con sông Thương một sông lớn trong hệ thống sông Thái Bình, phía Nam và Tây Nam giáp huyện Tân Yên, đều của tỉnh Bắc Giang. Phía Tây và phía Bắc Yên Thế giáp các huyện của tỉnh Thái Nguyên, kể từ Tây lên Bắc lần lượt là: Phú Bình, Đồng Hỷ, Võ Nhai. Toàn bộ phía Đông Yên Thế giáp với huyện Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Chảy qua giữa huyện, theo hướng Đông Nam là con sông Sỏi, một nhánh nhỏ đầu nguồn của sông Thương.
Diện tích tự nhiên của Yên Thế là 301,2575 km².
Năm Minh Mệnh thứ ba (1822) xứ Kinh Bắc đổi là trấn Bắc Ninh, đến năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) gọi là tỉnh Bắc Ninh, gồm 4 phủ, hai phân phủ và 20 huyện. Huyện Yên Thế thuộc phân phủ Lạng Giang.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi về phân phủ Lạng Giang và huyện Yên Thế như sau:
“Phân phủ Lạng Giang: ở cách phủ 39 dặm về phía Bắc, lệch về phía Đông; Đông - Tây cách nhau 32 dặm; Nam - Bắc cách nhau 84 dặm, phía Đông đến giang phận huyện Bảo Lộc phủ Lạng Giang 8 dặm, phía Tây đến địa giới huyện Hiệp Hòa phủ Thiên Phúc 24 dặm, phía Nam đến giang phận huyện Vô Giàng phủ Từ Sơn 34 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện Tư Nông tỉnh Thái Nguyên 50 dặm. Phân phủ đặt năm Minh Mệnh thứ 13, lãnh 3 huyện; Năm Tự Đức thứ 6 trích lấy huyện Việt Yên, phủ Thiên Phúc cho lệ vào phân phù này. Nay lãnh 4 huyện.
-Huyện Yên Thế: Đông - Tây cách nhau 32 dặm, Nam - Bắc cách nhau 42 dặm; phía Đông đến giang phận huyện Bảo Lộc 8 dặm, phía Tây đến địa phận huyện Hiệp Hòa, phủ Thiên Phúc 24 dặm; phía Nam đến địa giới huyện Yên Dũng 9 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện Hữu Lũng 33 dặm. Tên huyện có từ thời Trần về trước, thời thuộc Minh đổi là Thanh Yên, do châu Lạng Giang lãnh, lệ vào phủ Lạng Giang; đời Lê Quang Thuận trở lại tên cũ, bỏ châu Lạng Giang cho lệ vào phủ, bản triều đời Gia Long vẫn theo như thế; năm Minh Mệnh thứ 13, đổi do phân phủ kiếm lý. Lãnh 8 tổng 44 xã thôn.
Cuối thế kỷ XIX, huyện Yên Thế có 8 tổng với các xã thôn sau đây:
1-Tổng Yên Thế: có xã Yên Thế (Định Xuyên) gồm 7 xóm Cầu Khoai, Trại Cọ, Trại Chiềng, Trại Hom, Trại Lốt, Thống Thượng, Yên Thế; xã Thọ Xương (Phồn Xương) có 4 xóm: Đồng Bài (trại Tổ Cú), Đồng Nhân, Thống Hạ, Thống Trung; xã Bảo Tháp (sau nhập vào xã Dĩnh thép); xã Nhạn Tháp; xã Quỳnh Động; xã Dinh Thép có 4 xóm: Am, Bờ, Đìa, Ngòi.
2-Tổng Vân Cầu: gồm các xã Vân Cầu có 6 xóm: Bùi, Chiềng, Đầu, Ngò. Tè, Mậu; xã Ngọc Cục (Ngọc Thành, sau sát nhập vào tổng Ngọc Thành, Hiệp Hòa); có 5 xóm Trại Phú, Trại Tú, Đông, Hòe, Ngói xã Sơn Quả (sau nhập vào tổng Ngọc Thành) có 4 xóm Đồng Bài, Giữa, Hậu, Thương; xã Thúy Cầu có các xóm Bài, Đồng Bông, Đồng Cấy, Đồng Hội, Đồng Khanh, Đồng Nội, Làng Sanh, Làng Ngoài, Làng Sai, làng Trong, làng Thị; xã Ngọc Cục có 7 xóm: Ngọc Cục, Đông, Hội, Nành, Ngòi, Thù, Trịnh; xã Lam Khuất (Lam Cốt, sau về tổng Lan Giới) có các xóm: Đồng, Kép,Ngo, Miên, Trung, Vàng....
3-Tổng Lan Giới: gồm các xã Lan Giới có 2 xóm Thắng, Vọng; xã Đại Hóa có 4 xóm Hòa Lâm, Trúc, Đọ, Hóa; xã Lam Khuất (được chuyến từ tổng Vân Cầu sang), xã Giản Ngoại có các xóm Đá Ong, Lan Giản, Lan Thị; xã Lý Cốt có 3 xóm An Lý, Cầm, Mạc.
4-Tổng Nhã Nam: có các xã Lục Giới (thôn Thượng); xã Lục Giới (thôn Trung); xã Lục Giới (Hùng Lĩnh); xã Nhã Nam có 5 xóm: Chuông, Nguộn, Thượng, Nhã Nam, Tinh Đạo; xã Dương Lâm có 4 xóm: Dương Lâm, Hạ, Nguộn, Non; xã Na Nương có 4 xóm: Trên, Mỏ Sắt, Móng Lợn, Quỳnh Lậu.
5-Tổng Mục Sơn: có các xã Mục Sơn gồm 4 xóm: Hòa Làng, Cốt, Đình, Lễ; xã Quất Du có 4 xóm: Chùa, Độ, Ngoài, Trong; xã Hữu Mục có 5 xóm: Giữa, Mạc, Lý, Nội, Trong; xã Dương Lâm (Dương Sơn) có 3 xóm: Chiềng, Lương, Sặt; xã Cao Thượng có 2 xóm: Đầu Cầu. Thượng; xã Đạm Phong có 2 xóm: Cổ Liều, Vàng Bến; xã Lục Liễu.
6-Tổng Quế Nham: có các xã Quế Nham gồm 12 xóm: Đồi, Nhơm, Hiệp Nội, Hiệp Tiến, Khê Hạ, Khê Thượng, Làng Bến, Làng Đông, Núi, Ngọc Diệc, Sau Chùa, Trại Bến; xã Phú Khê; xã Lãn Tranh; (Lại Tranh sau nhập vào Tuy Lộc Sơn) gồm 3 xóm Giữa, Dưới, Trên; (xã Hoàng Hà đã chuyến sang Đào Quán) vá xã Chuế Dương chuyển từ tổng Thiết Sơn sang.
7-Tổng Yên Lễ: có các xã Yên Lễ gồm 8 xóm: Đông Đào, Am, Bùng, Cầm, Đụn, Dinh, Tiêu, Yên; xã Ngô Xá có 8 xóm: Bãi Gốc. Đồi Đàn, Châu, Hậu, Ngoài, Nguộn, Tiền Vàng; xã Lăng Cao gồm 6 xóm: Đồi Mụ, Hạ Thượng, Thị, Trại, Trung; xã Khánh Giàng gồm 4 xóm: Dĩnh, Kép, Trại Giữa, Trại Thượng; xã Bảo Lộc (Thế Lộc) gồm 9 xóm: Cả, Đanh, Cùa; Gia, Quyên, Thị, Chấu; Luộc Hạ, Trại Thị; xã Ước Lễ gồm 3 xóm: Đồng Điều, Giữa, Mục.
8-Tổng Bảo Lộc Sơn (Tuy Lộc Sơn): có các xã Bảo Lộc Sơn gồm 21 xóm: Bãi Gia, Bờ Gian, Can Cát, Cầu Cần, Con Quy, Đồng Cựu, Đồng Lãi, Đồng Lâm, Đồng Lãm, Đồng Ve, Giốc Gia, Làng Am, Làng Đông, Làng Khoát, Làng Nguyễn, Nguộn, Ngò, Bãi, Mả Đình, Mả Ngòi, Núi Hương; xã Tưởng Sơn gồm 2 xóm: Trại Đông, Trại Tây; xã Kim Tràng gồm 6 xóm: Chu Vàng, Cầu Quận, Kim Tràng, Lò Nội, Mã Bài, Ngọc Trai.
Hai xã mới là Lãn Tranh và Liên Bộ từ tổng Quế Nham sang.
Thời đầu Pháp thuộc, năm 1886, sau khi Pháp chiếm được tỉnh Bắc Ninh, phủ Lạng Thương và thành Tỉnh Đạo, họ lập ngay đạo Yên Thế để kiểm soát khu vực trọng yếu này, lỵ sở đóng ở thành Tỉnh Đạo (Nhã Nam). Ngày 10-10-1895 Pháp chia tỉnh Bắc Ninh làm hai – tỉnh là Bắc Ninh và Bắc Giang. Tỉnh Bắc Giang khi đó gồm phủ Lạng Giang và các huyện Yên Thế, Hiệp Hòa, Lục Ngạn, Phượng Nhỡn, Phất Lộc, Yên Dũng và Hữu Lũng. Nhưng ngay sau đó ngày 24 tháng 12 năm 1895, Pháp lập đạo quan binh Yên Thế, giải thể tổng Yên Thế, nhập thêm các tổng Hương Vĩ, Hữu Thượng và Ngọc Cục.
Theo sách “Bắc Giang địa chí” của Trịnh Như Tấu, Đạo quan binh Yên Thế gồm có:
1) Vùng Chợ Phổng
2) Vùng Bảo Đài
3) Địa hạt ở trung tâm hai vùng ấy.
4) Dãy núi trước mặt núi Cai Kinh.
5) Các tổng:
a- Bố Hạ;
b- Hữu Thượng;
c- Nhã Nam;
d- Lan Giới
e- Yên Lễ (trừ các xã Ngô Xá, Lăng Cao và Khánh Giàng)
f- Mục Sơn (trừ các xã Cao Thượng, Mục Sơn và Hòa Mục)
g- Vân Cầu (trừ các xã Ngọc Cụ, Sơn Quả và Ngọc Thành)
h- Ngọc Cục (trừ các xã Ngọc Lý, trên con đường từ Bố Hạ đến Hà Châu)
Đến cuối năm 1899, đạo quan binh Yên Thế bị bãi bỏ, thay thế bằng đại lý Nhã Nam, bao gồm 11 tổng với các xã như sau:
1. Tổng Hương Vỹ gồm các xã Hương Vỹ, Bố Hạ, Đồng Kỳ, Đồng Hưu, Đồng Vương, Đông Sơn và thị trấn Bố Hạ.
2. Tổng Hữu Thượng gồm các xã Đồng Lạc, Canh Nậu, Tam Tiến, Tân Sỏi và một phần Phồn Xương, Phúc Hòa.
3. Tổng Nhã Nam gồm các xã An Thượng, Xuân Lương, Nhã Nam, Quang Tiến, An Dương.
4. Tổng Lan Giới gồm các xã Tiến Thắng, Lan Giới, Đại Hóa, Phúc Sơn.
5. Tổng Mục Sơn gồm các xã Cao Thượng, Liên Sơn, một phần xã Việt Lập, Hợp Đức.
6. Tổng Tuy lộc Sơn gồm các xã: Liên Chung, một phần xã Việt Lập, Hợp Đức.
7. Tổng Yên Lễ gồm các xã Cao Xá, Tân Trung, một phần xã An Dương, Ngọc Châu.
8. Tổng Vân Cầu gồm các xã Song Vân, Ngọc Vân, Lam Cốt, Việt ngọc và một phần xã Hoàng Thanh, Hoàng Lương huyện Hiệp Hòa.
9. Tổng Quế Nham gồm các xã Quế Nham, một phần xã Liên Chung và xóm Vọng Hà, (còn gọi là Hoàng Hà sau chuyến sang huyện Lạng Giang.)
10. Tổng Ngọc Cục gồm các xã: Ngọc Châu, Ngọc Thiện, Ngọc Lý và một phần Ngọc Nham, Minh Đức huyện Việt Yên.
11. Tổng Yên Thế gồm các xã Tam Hiệp và phần lớn xã Phồn Xương (sau năm 1895 thuộc tổng Hữu Thượng) một phần xã Canh Nậu, Tam Tiến, Tân Hiệp (sau năm 1895 thuộc tổng Nhã Nam). Cho đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Yên Thế là một phủ thuộc tỉnh Bắc Giang. Tỉnh Bắc Giang khi đó gồm 3 phủ, 1 châu, 3 huyện, 63 tổng 453 xã.
Theo sách “Bắc Giang địa chí” của Trịnh Như Tấn viết năm 1937, cho biết Phủ Yên Thế khi đó gồm 10 tổng với các xã là:
1. Tổng Hương Vỹ gồm các xã: Bố Hạ, Đồng Hưu, Đồng Kỳ, Đồng Vương, Hương Vỹ, Hữu Hạ.
2. Tổng Hữu Thượng gồm các xã Canh nậu, Đồng Diễn, Hữu Thượng, Hữu Trung, Phồn Xương, Phúc Đình, Phúc Lồ, Tân sỏi, Yên Lạc, Yên Thế,
3. Tổng Lan Giới gồm các xã: Đại Hóa, Giản Ngoại, Lam Cốt, Lan Giới, Lan Quật, Lan Hương, Lý Cốt.
4. Tổng Mục Sơn gồm các xã: Cao Thượng, Dương Sơn, Đạm Phong, Hòa Mục, Hữu Mục, Lục Liễu, Mạc Sơn, Quất Du.
5. Tổng Ngọc Cục gồm các xã: Bằng Cục, Ngọc Châu, Ngọc Lý, Ngọc Nham. Ngọc Sơn.
6. Tổng Nhã Nam gồm các xã Dĩnh Thép, Dương Lâm, Lục Giới, Na Lương, Nhã Nam, Tân An.
7. Tổng Quế Nham gồm các xã: Chuế Dương, Phú Khê, Quế Nham.
8. Tổng Tuy Lộc Sơn gồm các xã: Chung Sơn, Kim Tràng, Lân Tranh, Liên Bộ, Tuy Lộc Sơn, Tưởng Sơn.
9. Tổng Vân Cầu gồm các xã: Ngọc Cụ, Thuý Cầu, Vân Cầu.
10. Tổng Yên Lễ gồm các xã: Khánh Giàng, Lăng Cao, Ngô Xá, Thế Lộc, Ước Lễ, Yên Lễ.
(Tổng hợp từ các nguồn: vi.wikipedia.org * bacgiang.gov.vn * dpi.bacgiang.gov.vn * wiki.youvivu.com * dulichvietnam.com.vn * vanhoabacgiang.vn * VnExpress.net * langvietonline.vn * vanhien.vn)
Gồm có: Đình Bố Hạ (Di tích lịch sử, Thị trấn Bố Hạ), Đình Suối Cầy (Di tích lịch sử Kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm, Xã Đồng Kỳ), Đình Xuân Lung (Di tích lịch sử, Xã Xuân Lương), Đình Chay (Di tích lịch sử, Xã Canh Nậu), Chùa Chay (Di tích lịch sử, Xã Canh Nậu), Đình Xuân Lan (Di tích nghệ thuật, Xã Bố Hạ), Đền Trung ((Di tích kiến trúc nghệ thuật, Xã Đồng Sơn), Địa điểm Đèo Cà (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đồng Hưu) Đền Thượng (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đông Sơn) Đình Quỳnh Đông (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Xuân Lương), Đền Âu Cơ (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đồng Lạc), Đền Quynh (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đông Sơn), Đình Na Lương (Làng Dưới) (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Xuân Lương), Đền An Gà (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Phồn Xương), Chùa Cảnh (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Phồn Xương), Chùa Trần Nhân (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Tân Sỏi), Đền Thác Thần (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đồng Tâm), Đền Quán Lớn (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Tam Hiệp), Địa điểm Đồn Đề Hậu (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đồng Vương), Chùa Dĩnh Thép (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Tân Hiệp), Chùa Đông Kênh (Linh Quang tự) (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đông Sơn), Đình Vi Sơn (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đông Sơn), Chùa Vi Sơn (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đông Sơn), Chùa Chiềng (Hồng Ân tự) (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Tân Sỏi), Đền Giếng Sầu (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Xuân Lương), Đình làng Diễn (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Xuân Lương), Đền làng Diễn (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Xuân Lương), Chùa Ngò (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đồng Kỳ), Chùa Trại Tre (Hồng Phúc Tự) (Di tích Lịch sử - Văn hóa, Xã Đồng Hưu)
Gồm có: Đồn Phồn Xương Yên Thế (Di tích lịch sử -1979), * Đồn Hom Yên Thế (Di tích lịch sử -1979), * Đồn Hố Chuối Yên Thế (Di tích lịch sử -1979), * Chùa Lèo, xã Phồn Xương, Yên Thế (Di tích lịch sử -1979), * Đền Bến Nhãn Yên Thế (Di tích lịch sử -1991), * Chùa Bố Hạ, Yên Thế (Di tích lịch sử, văn hóa -1991), * Đình Hương Vĩ, Yên Thế (Di tích lịch sử, văn hóa -1994), * Chùa Hương Vĩ, Yên Thế (Di tích nghệ thuật -1994), * Đền Cầu Khoai, Yên Thế (Di tích lịch sử -1994), * Đình Đông Kênh, xã Đông Sơn Yên Thế (Di tích nghệ thuật -1995), * Đình Bo Chợ, xã Đông Sơn Yên Thế (Di tích nghệ thuật -1995), * Đền thờ Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (Động Thiên Thai), xã Hồng Kỳ Yên Thế (Di tích lịch sử -1995), * Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế: có hơn 40 điểm di tích, phân bố ở 4 huyện gồm: Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng. Trong số này, có 16 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh, 15 di tích cấp quốc gia.
Là vùng đất được nhiều ưu đãi thiên nhiên, Yên Thế không chỉ nổi tiếng với những khu di tích lịch sử, mà điều kiện thổ nhưỡng tại đây cũng cho người dân nhiều điều kiện dễ dàng trong việc chăn nuôi và trồng trọt để tạo nên nhiều đặc sản với thương hiệu lan rộng khắp nơi trong nước.
Xem Di tích lịch sử Cuộc khởi nghĩa Yên Thế tại Chương II, Phần C
(Tổng hợp từ nhiều nguồn * Hình ảnh: Internet)
Là vùng đất được nhiều ưu đãi thiên nhiên, Yên Thế không chỉ nổi tiếng với những khu di tích lịch sử, mà điều kiện thổ nhưỡng tại đây cũng cho người dân nhiều điều kiện dễ dàng trong việc chăn nuôi và trồng trọt để tạo nên nhiều đặc sản với thương hiệu lan rộng khắp nơi trong nước.
Nếu ai đã từng một lần đặt chân đến mảnh đất Yên Thế thì ắt hẳn không thể bỏ lỡ cơ hội thưởng thức món gà đồi Yên Thế, một đặc sản đã tạo nên thương hiệu cho vùng quê này. Từ nhiều năm nay, gà đồi là giống vật nuôi quan trọng giúp người dân Yên Thế thoát nghèo và từng bước vươn lên làm giàu. Huyện Yên Thế có địa hình đồi núi dốc thoai thoải, với diện tích tương đối rộng, nhiều tán cây lâm nghiệp như keo lai, bạch đàn, cây vải thiều… Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo kiểu chăn thả. Trong đó, gà đồi được xác định là một trong những vật nuôi thế mạnh của địa phương. Do được chăn thả trong môi trường đồi núi tự nhiên nên gà đồi Yên Thế có vị thịt ngọt, đậm, thơm và chắc, không mềm và nhão như gà nuôi công nghiệp. Do đó, món ăn từ gà đồi không chỉ xuất hiện trong các bữa ăn hàng ngày hay dịp cỗ bàn, hội họp mà còn là một trong những thực phẩm được các doanh nghiệp và nhà hàng kinh doanh lựa chọn nhiều nhất để chế biến các món ăn phục vụ thực khách.
(Ảnh: chudu24.com)
Gà đồi Yên Thế còn có lợi thế lớn khi có thể chế biến được rất nhiều món, từ xáo, luộc, hấp, quay, nướng, lẩu… Kinh nghiệm của những người Yên Thế sành gà đồi cho biết để thưởng thức món gà đồi ngon nhất chỉ nên luộc chín tới, thịt gà còn chắc, giòn để chấm với muối trộn lá chanh, nước luộc ngọt lịm dùng để ăn kèm với cơm. Công phu hơn thì quay, nướng làm chả gà. Hoặc nếu có điều kiện hơn thì làm món thịt gà hầm thuốc bắc, một vị thuốc quý trong dân gian để chữa các bệnh về dinh dưỡng; hay món gà nướng ngũ vị vừa ngọt, đẹp mắt, lại vừa thơm mùi đặc trưng của ngũ vị hương; món gà hấp bia thơm mát, bổ dưỡng ngày hè; món gà xáo gừng nhiều dinh dưỡng, cho người ăn thêm ấm cúng trong tiết trời giá lạnh; món lẩu gà đồi kết hợp với rau xanh hấp dẫn người ăn nhờ mùi thơm nóng hổi… Đây là những món ăn vô cùng hấp dẫn và được rất nhiều khách hàng ưa chuộng. (dulichbacgiang.gov.vn)
Thứ đặc sản nức tiếng ngày Tết trên đất Bắc
Cam Bố Hạ là loại cam đặc biệt của người Bắc Giang. Nó được coi là niềm tự hào của người dân đất Bắc. Vì thế nếu có dịp tới, du khách nhất định phải thử.
Tại sao gọi là cam Bố Hạ?
Vì cam được trồng ở bố Hạ nên được gọi luôn là cam bố Hạ. Ngoài ra, để dễ dàng phân biệt với các loại cam ở các tỉnh thành khác. Bố Hạ là một xã thuộc huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây có một lợi là năm ở sông Thương. Con sông có dải đất phù sa lớn đã giúp cho cây cối có điều kiện sinh trưởng và phát triển tốt. Trong đó, có giống cam quý đặc sản, đó là cam Bố Hạ.
Khác với giống cam khác, loại cam đặc biệt này mang đến cho người ăn sự khác biệt. Đó là cam có mùi thơm, vị ngọt lạ miệng. Ngoài ra, tép cam khá to và mọng nước, có độ dinh dưỡng cao nên được rất nhiều người thích.
Đối với người Bắc Giang, loại cam – đặc sản nức tiếng là một món quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho. Đặc biệt là nó thường được sử dụng trong những dịp đặc biệt trong năm.
Kỹ thuật trồng cam đất Bắc Giang có gì đặc biệt?
Không giống như các loại cam thông thường, trồng cam bố Hạ đòi hỏi kỹ thuật cao và vất vả. Để có được những múi cam ngon, mọng nước, người Bắc Giang phải đổ mồ hôi để chọn giống và chăm bón.
Chọn giống: được chọn lọc tự nhiên, thường là chọn những cây khỏe, sinh trưởng tốt, không bị nhiễm sâu bệnh. Sử dụng phương pháp chiết cành để nhân nếu như muốn mở rộng quy mô.
Loại đất trồng: thường được trồng trên đất màu mỡ, có độ tơi xốp, không bị nhiễm bệnh. Hệ thống tưới tiêu và thoát nước thuận tiện, dễ dàng. Hố trồng được đào sâu từ 0,8 đến 1,0m, đường kính 1,5 đến 2m là tốt nhất. Khi trồng, hố được rắc vôi bột, phân, mùn sau đó lấp đất cho đầy rồi đợi mùa xuân hạ cây xuống.
Chăm sóc: thường xuyên theo dõi, bắt sâu, tỉa cành lá, bón phân để đảm bảo quả sinh trưởng phát triển tốt. Thu hoạch thì sử dụng kéo cắt tỉa, chứ không dùng tay bẻ. Khi hái xong, quả được lau sạch, xếp vào gọt hoặc đóng gói để vận chuyển đến nơi bán.
Kỹ thuật trồng và chăm bón của người dân Bắc Giang cực kỳ tỉ mỉ và chu đáo. Nhờ đó, những quả cam được trồng ra đảm bảo về mặt thẩm mỹ, độ ngon và dinh dưỡng cao. Nhờ thế, sản phẩm không chỉ đạt chất lượng mà còn xứng danh là loại cam ngon đệ nhất đất Bắc.
Vụ mùa cam Bố Hạ vào tháng nào?
Cam bố Hạ thường chín nhiều vào dịp tết Nguyên Đán. Khi chín, quả có hình cầu, tròn dẹp, màu hơi nâu nhưng tươi, da sần sùi chút. Khác với giống cam ở nơi khác, loại cam này cho mùi thơm và hương vị đặc trưng riêng. Đó là cam cho mùi thơm thanh mát, vị ngọt đậm, không hề chua. Về phần tép to và mọng nước vắt ra được rất nhiều. Do có hàm lượng dinh dưỡng cao bên trong, nên cam được sử dụng để uống hàng ngày. Đặc biệt là những người bị bệnh, uống nước cam vào sẽ nhanh chóng phục hồi hơn.
Đặc sản cam Bắc Giang tốt cho sức khỏe
Giống cam quý giá được bán và sử dụng nhiều trong những ngày Tết cổ truyền. Người dân Bắc Giang thường sử dụng cam bố Hạ để lễ Tết ông bà, cha mẹ… Đối với những người ốm, chỉ cần ăn ít cam bố Hạ là có thể khỏe lại nhanh chóng. Vì trong cam có chứa hàm lượng chất xơ, chất chống ô xy hóa, vitamin C cao cùng nhiều khoáng chất khác. Nhờ đó, nó có thể giúp cơ thể tăng sức đề kháng, tăng hệ miễn dịch… hiệu quả.
Đặc biệt, cây trồng theo phương pháp không phân bón hóa học, không thuốc trừ sâu đảm bảo an toàn thực phẩm. Ngoài ra, có thể sử dụng cho tráng miệng, làm bánh, giải khát mùa hè. Giá của loại cam này đắt hơn khoảng 2-3 lần so với cam khác. Đặc biệt, trong những ngày gần Tết, giá cam còn cao hơn ngày bình thường.
Nếu có dịp đến Bắc Giang, ngoài việc tận hưởng thiên nhiên, không gian thoáng đãng thì bạn còn có dịp thưởng thức những món ăn Healthy, hoa quả Organic. Trong đó, phải kể đến cam bố Hạ – đặc sản nổi tiếng Bắc Giang. (nguồn: poliva.vn)
Nhắc đến mật ong rừng Yên Thế chúng ta có thể dùng những từ ngữ để miêu tả như sánh, thơm tinh khiết, tự nhiên không pha tạp chất và đặc biệt thơm ngon như một món đặc sản rất riêng, rất đặc trưng.
Ảnh: thucphamthiennhien.com
Từ lâu, mật ong đã được biết đến như một loại thực phẩm quý với rất nhiều công dụng vừa tốt cho sức khỏe và vừa làm đẹp. Đặc biệt đối với mật ong rừng Yên Thế thì quả là một món quà từ thiên nhiên ban tặng cho con người. Sản phẩm này cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho cơ thể như các vitamin B, C, D, E, K và khoáng chất khác. Các công dụng chính của mật ong rừng có thể kể đến như kháng khuẩn, giảm đau, mau lành vết thương, tăng cường hoạt động gan, sinh lực tốt, bồi bổ cơ thể,…
Ngày nay, mật ong rừng Yên Thế đã trở nên thật sự nổi tiếng khắp nơi trong cả nước bởi cái hương vị vừa thơm ngon lại đảm bảo sạch và tự nhiên. Còn gì quý và ý nghĩa hơn khi có thể sở hữu hay làm quà tặng bạn bè, ba mẹ, người thân món đặc sản mật ong rừng Yên Thế này.
(nguồn: VietFlavour)
Yên Thế không chỉ nổi tiếng với thương hiệu Gà Đồi, bên cạnh đó trà xanh Yên Thế cũng góp phần tạo nên sự phong phú cho 2 chữ đặc sản tại vùng đồi núi này.
Với điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng và khí hậu rất phù hợp cho sự phát triển của cây chè. Những đồi chè xanh ngắt trải dài trên địa bàn 8 xã miền núi, đặc biệt là tại Xuân Lương với trên 300ha, chiếm 60% diện tích trồng chè toàn huyện. Trong văn hoá ẩm thực, người dân Xuân Lương còn lưu giữ nhiều bí quyết để giữ cho hương chè được đậm đà như đựng ống bương, treo gác bếp...
Chè xanh Yên Thế có mùi vị thơm ngon, không thua kém các loại chè nổi tiếng khác./.