Sự hình thành của Làng Bỉ từ khoảng năm 1657, hay đúng hơn, sự qui tụ của 7 hộ gia đình Công Giáo [1], và sau này có thêm các dòng họ đến từ Xuân Hòa, Ngọc Lâm và Đông Tiến, đã là cột mốc cho sự ra đời của Giáo xứ Bỉ Nội [2]. Đây là một giáo xứ được lấy tên chung từ Làng Bỉ và Làng Nội, là 2 làng ở cạnh nhau và có nhiều liên hệ thông gia, bên nội, bên ngoại. Theo năm tháng, từ nơi đồng trắng nước trong, giáo xứ được hoàn thành cùng với những sinh hoạt rầm rộ, đặc biệt trong những dịp lễ lớn, giáo dân từ các họ đạo lân cận kéo về, tạo nên bầu không khí vui tươi nhộn nhịp như một dịp trẩy hội.

Trong sinh hoạt làng xã Việt Nam thời phong kiến, điểm nổi bật nhất là tính cộng đồng. Làng Bỉ nằm trong khu vực nông nghiệp, và là một làng “thuần Công Giáo” nên tính cộng đồng là yếu tố quan trọng phải có, vì nó là nền tảng cho sự ổn định và phát triển. Ở đây, dân làng có sự cộng cảm, cùng nhau góp vui cho một hỷ tín hay chia sẻ khó khăn cho một chuyện buồn. Khi láng giềng có chuyện gì, họ sẵn sàng “xúm vào” giúp một tay. Cả làng đoàn kết với tinh thần tương thân tương ái, gắn bó thân tình... họ cùng nhau khai khẩn, chung sống trên một vùng đất thân quen, với tên gọi Làng Bỉ.