Quan niệm về Làng xã Việt Nam ngày xưa
Trong hệ thống Chính Quyền thời phong kiến, tên gọi cho những người có chức sắc trong làng thay đổi theo từng giai đoạn và tùy thuộc vào dân số trong làng. Cùng là một đơn vị cư dân nhỏ nhất, được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Xã, Làng, Hương, Thôn. Thời Pháp thuộc: Hương chánh [3], là người hòa giải tranh chấp nhỏ của người trong làng, đến năm 1927 thì lại thay đổi, gọi là Chánh Hương hội, là người chủ tọa và chấp hành, sau năm 1941 gọi là Lý Trưởng [4].
Làng (Chữ Nôm: 廊) Trong tự điển Hán Việt không có chữ làng. Chỉ có trong tự điển chữ Nôm, và cũng không có lời giải thích Làng nghĩa là gì.
Xã (Chữ Hán: 社): Do ảnh hưởng từ Trung Hoa thời cổ, cứ vùng đất có từ 10 đến 30 hộ gọi là một Xã. Từ 30 tới 60 hộ gọi là Đại Xã. Đây là đơn vị hành chánh thấp nhất. Chữ Xã, ngoài nghĩa là Thần đất (thổ địa), còn được dùng để chỉ một nhóm, một tổ chức hay một đoàn thể. Thi xã 詩社 (làng thơ, hội thơ), văn xã 文社 (làng văn, hội văn), Hợp tác xã: 合作社 (một tổ chức), Làng Xã: Một đơn vị tụ cư.
Hương (Chữ Hán: 鄉): làng, xã hay thôn quê, nông thôn, mùi thơm của thóc gạo... Làng ở đây là khu vực hành chánh, thấp hơn “huyện” 縣 và cao hơn “thôn” 村. Chữ Làng thường được gọi chung với những chữ khác: Làng Xã, Thôn Xã. Trung bình mỗi Hương có 70 đến 150 hộ. Đại hương: gồm nhiều Hương, với tổng số từ 151 hộ đến 540 hộ.
Tại miền Bắc, việc điều hành xã thôn vẫn còn giữ nguyên tính truyền thống với hai tập quán chính:
- Tập quán Vương tước (những người có tước vị do vua ban)
- Tập quán Thiên tước (Các bậc trưởng lão, những người có uy tín tại địa phương)
Theo tập quán Vương tước, số dân trong làng xã được chia thành 5 hạng, người có phẩm hàng cao nhất đứng đầu bộ máy hành chánh làng xã là Thủ Chỉ, (trên cả Lý Trưởng và Phó Lý). Hạng thứ hai là những bô lão trên 60 tuổi, được làng xã miễn cho các hình thức sưu dịch, thuế khóa, đóng góp. Hạng thứ ba là các kỳ mục trong làng gồm Lý trưởng, Phó Lý, Chánh Tổng...(gồm những người đương chức hoặc đã nghỉ việc). Hạng thứ tư gọi là tả văn là những ân nhân của làng xã, thường xuyên đóng góp tiền của để thực hiện những việc công ích như làm cầu, đắp đập, xây đền chùa… Cuối cùng là hạng không có vai vế gì trong làng, gọi là hoàng đinh, gồm những người được ghi tên trong sổ bộ làng, từ 17 đến 48 tuổi, phải đóng thuế và làm sưu dịch cho làng.
Tại những làng theo tập quán Thiên tước thì sự phân hạng dựa vào tuổi tác, không dựa phẩm tước ở triều đình. Làng được chia thành 4 hạng dân, người lớn tuổi nhất gọi là Thủ Chỉ. Hạng thứ nhất gồm những người trên 60 tuổi gọi là ông cụ hay quan lão (cũng có nơi gọi là Trùm); hạng thứ hai là hội đồng quan viên gồm 12 người; hạng thứ ba gọi là ba bàn gồm 18 thành viên; hạng thứ tư gồm những cư dân còn lại trong làng. Tại những làng theo tập quán này thì Lý Trưởng là người đứng đầu Hội đồng Hương Chức.
Trong sách "Nhân danh tập chí" của tác giả Phạm Xuân Lộc, thì cũng có nhiều làng xã không theo những tập quán trên, mà chỉ chia ngôi thứ trong làng thành 3 hạng: Thượng hạng, trung hạng và hạ hạng. Thượng hạng là những người có chức sắc (những người làm việc quan được vua ban sắc cho hàm phẩm), Trung hạng gồm chức dịch (những người làm việc quan nhưng chưa được vua ban phẩm hàm) như Chánh Tổng, Phó Tổng, Lý Trưởng, Phó Lý, Hương Trưởng... mọi việc trong làng được điều hành bởi Hội Đồng Kỳ Mục (Hội đồng hương chức). Và sau cùng là Hạ hạng (những người không nằm trong hai hạng trên)