"Hãy bắt bớ đánh đập không thương tiếc. Hãy tra tấn. Hãy ra lệnh xử tử tất cả những người từ chối đạp ảnh thánh giá. Hãy biết rằng từ chối đạp ảnh là trở thành người phản nghịch. Không cần xét xử, hãy lấy gươm, búa, giáo, tất cả những gì có trong tay mà tiêu diệt những kẻ mù quáng và cố chấp, đừng để một người nào thoát chạy..."
(Dòng Máu Anh Hùng, Lm. Vũ Thành, Tập II, chương 7).
Trên đây là một Chỉ Dụ dã man của vua Minh Mạng đã hạ lệnh cho các quan đầu tỉnh tàn sát người Công Giáo vào năm 1838. Đây là giai đoạn khắc nhiệt và kinh hoàng nhất của người Công Giáo Việt Nam. Trải dài suốt 3 thế kỷ trên mảnh đất hình cong chữ S, từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, từ thời chúa Trịnh (Trịnh Doanh, Trịnh Sâm), đến chúa Nguyễn (Cảnh Thịnh), sang đến thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đã có khoảng từ 130 ngàn đến 300 ngàn người Công giáo tử vì đạo. Họ chết từng người, từng nhóm, hay chết tập thể lên tới 300 người [1]. Họ gục ngã dưới nhiều hình thức, chết trong lao tù, bắt nhịn đói đến chết, hay bị tử hình như xử trảm, thắt cổ, phân thây, voi dày, trầm hà, thiêu sống, chôn sống... Bất cứ phương pháp nào dã man nhất, độc ác nhất, đều được đem ra áp dụng. Bên cạnh đó, hàng ngàn họ đạo, giáo xứ bị tiêu hủy và hàng trăm ngàn người có đạo đã phải âm thầm dìu dắt nhau trốn chạy. Tất cả chỉ vì bảo vệ đức tin, để ươm mồng cho những hạt giống vươn lên mạnh mẽ.
Thiên tài Leonardo Da Vinci [2], người có những ý tưởng vượt trước thời đại, là tác giả của những bức họa nổi tiếng như "Mona Lisa", hay "Bữa tiệc ly", đã từng nói rằng: "Nơi nào cảm xúc mạnh nhất, nơi đó có những người tử vì đạo vĩ đại nhất". Với con số trên 130 ngàn người hiên ngang tiến lên pháp trường để chết vì đạo, là minh chứng hùng hồn về một nơi có cảm xúc mạnh nhất của những con người vĩ đại nhất, đã dùng máu của mình để vẽ nên trang sử oai hùng cho Giáo hội Công Giáo Việt Nam.
Ngược dòng lịch sử, vào đầu thế kỷ 17, là thời gian phát triển mạnh của đạo Công Giáo nhờ sự hoạt động rất hăng say và hữu hiệu của các Cha dòng Tên, nổi bật nhất là Alexandre de Rhodes [3], một Linh Mục Thừa sai dòng Tên (tên tiếng Việt là Cha Đắc Lộ), đến truyền giáo ở Đàng Trong vào năm 1625 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và ở Đàng Ngoài vào năm 1626 dưới thời chúa Trịnh Tráng (xưng hiệu là Thanh Ðô Vương). Linh mục Đắc Lộ đã kể lại công cuộc truyền giáo của Ngài tại Đàng Ngoài như sau:
Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Đàng Ngoài [4], tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một nhà thờ thật đẹp. Dân chúng tuôn đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân trong gia đình vua xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnh và binh sĩ cũng xin theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị sư đã mau mắn từ bỏ bụt thần để theo đạo Công giáo. Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ hiểu giáo lý đạo Công giáo rất phù hợp với lý trí và lương tâm con người. Các tín hữu Công giáo Việt Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể rút Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để được xưng tội hoặc tham dự thánh lễ. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không có trợ giúp tuyệt vời của các thầy giảng. (nguồn: vi.wikipedia.org)
Khi đạo Công Giáo bắt đầu nở rộ, cũng là lúc sự ghen tị nổi lên cùng với nỗi lo sợ bị mất ảnh hưởng, mất quyền thế. Lịch sử đã ghi lại: Một bà Vương Phi đã sai một quan đến cảnh báo cha Đắc Lộ: “Hỡi các Tây Giang Đạo Trưởng, sao các ngươi lại đến giảng trong nước ta một đạo lý trái với tục đa thê trong nước ta? Các ngươi chỉ cho phép thần dân của ta được có một vợ, một chồng, khi mà ta muốn có thêm nhiều tôi trung. Từ nay, cấm các ngươi không được truyền bá đạo sai trái ấy nữa. Nếu bất tuân lệnh ta, thì các ngươi phải biết rằng mất đầu thì cái chân không thể đứng vững được, nghĩa là ta sẽ trừ diệt nguyên nhân sâu xa ra khỏi nước ta” (DMAH 1 tr.107).
Khi sự rỉ tai, xúi giục của đám bầy tôi lên tới đỉnh điểm, cũng là lúc một sắc lệnh cấm đạo đầu tiên tại Việt Nam được ban hành, năm 1629, chúa Trịnh Tráng đã không "kết tội" các nhà truyền giáo phương Tây, nhưng lại cấm ngặt người dân không được tin theo đạo Thiên Chúa:
“Hoàng thượng sắc dụ cho nhân dân biết, các Tây Giang Đạo Trưởng ở trong triều Trẫm không có dạy nhân dân những đạo lý sai lầm hại dân hại nước, nhưng để đề phòng điều có thể xẩy ra sau này, hoặc những âm mưu hiện đang ngấm ngầm xếp đặt mà Trẫm chưa điều tra ra, Trẫm cấm ngặt từ đây các thần dân của Trẫm không được đi lại với các Đạo Trưởng và tin theo đạo đó nữa” (Trích đoạn nội dung sắc lệnh từ Dòng Máu Anh Hùng 1, tr. 108).
63 năm sau, trong một phút ra oai với bầy tôi, Minh Vương (tức Nguyễn Phúc Chu) là một người nổi tiếng văn võ kiêm toàn, chiêu đãi nho sĩ và sùng mộ đạo Phật, đã nói với các quan đến than phiền về việc "tại nhà cha Langlois giáo dân tụ họp đông đảo":
“Ta sẽ chém cha Pierre Langlois ra từng mảnh xem ông ta còn giảng đạo được nữa không, và giáo dân còn chỗ nào mà tụ họp nữa không?”.
Nhưng qua năm 1698, Minh Vương mới ra lệnh nghiêm khắc “triệt hạ các nhà thờ để họ không còn nơi nào tụ họp nữa, đồng thời sẽ xử tử những giáo dân còn cố chấp vi phạm, và giáng chức những sĩ quan hay những quan chức bất tuân lệnh”. Minh Vương nói rõ “sẽ triệt hạ trước tiên hai nhà thờ ở Kinh Đô, mà trước hết là nhà thờ cha Langlois quản nhiệm”. Hai quan được Minh Vương ủy nhiệm thi hành là Hưu Cam và Ta Kang.
Ông Ta Kang dẫn 14 đội lính có khí giới đến bắt cha Langlois ra tòa và tuyên bố: “Tôi có lệnh của Minh Vương phá hủy nhà thờ của cha, thiêu các ảnh tượng, thông báo cấm mọi cuộc họp và cấm cha không bao giờ được giảng đạo cho người Việt Nam nữa. Cha đáng chết nhưng Minh Vương đã rộng lượng tha mạng sống và không phá hủy nhà của cha. Minh Vương cho phép cha giữ đạo kín đáo và tiếp tục làm nghề thuốc cứu chữa người nghèo khó và ốm yếu như cha vẫn làm từ xưa tới nay. Cha phải biết đó là đặc ân của Minh Vương và cha liệu đó mà xử sự cho khôn khéo”.
Cha Langlois khiêm tốn đáp lại: “Tôi rất biết ơn Minh Vương đã rộng lượng đối với tôi, song tôi ước ao được chịu khổ và chết vì Chúa Giêsu. Tôi nhìn nhận rằng, chính vì ước muốn rao truyền đạo chân thật mà tôi đã không nề quản những gian lao để đến Nam Việt này. Trong mọi việc, tôi không bao giờ bỏ qua việc làm cho mọi người nhận biết Chúa thật trời đất và tìm kiếm ơn rỗi linh hồn. Tôi không thể không rao giảng cho những người muốn nghe tôi. Nếu Minh Vương và các quan triều hiểu biết về đạo Kitô và những lợi ích do đạo mang lại thì tôi dám quyết các vị sẽ có thái độ khác đối với vị thừa sai giảng đạo. Các vị đã nghe biết đạo dạy người ta phải thờ phượng yêu mến Chúa tể trời đất và mọi người mọi vật, đạo cũng dạy phải vâng phục các đấng bề trên và phải hết sức làm lành lánh dữ. Từ khi tôi đến xứ này, tôi đã hoàn toàn sống theo như đạo dạy và các vị biết rõ như thế. Tôi đã tận tụy làm việc vất vả, hết lòng làm việc bác ái với mọi người không kể lớn bé sang hèn. Tôi mở rộng cửa ngày cũng như đêm cứu giúp người khác. Cho tới nay không có ai kiện cáo tôi điều gì trước mặt triều đình, trái lại họ còn ca ngợi những công việc tôi đã làm. Thế mà hôm nay tôi bị đối xử như một tên trộm cướp” .
Quan vội ngắt lời cha Langlois: “Đủ rồi, người ta không phiền trách cha về những việc tốt cha làm cho người nước Nam, người ta chỉ trách là có nhiều người đến hội họp ban đêm và cha quá hăng say làm việc cho họ trở thành Công Giáo. Minh Vương không muốn các thần dân bỏ đạo của cha ông để theo đạo cha giảng dạy. Minh Vương là chủ nước này, mọi người dân phải vâng phục”. Nói rồi ông ra lệnh cho lính rút lui và trả tự do cho cha Langlois (DMAH 1 tr. 70-73).
Ghi chú:
[1] Nhà thờ Mồ Vũng Tàu, cách nhà thờ Chánh tòa Vũng Tàu khoảng 300m, là nơi cất giữ 300 hài cốt của các tín hữu Bà Rịa tử đạo vào năm 1862 tại nhà ngục Phước Lễ.
[2] Thiên tài Leonardo Da Vinci (1452-1519) là một đại danh họa với những tác phẩm nổi tiếng như "Mona Lisa", hay "Bữa tiệc ly", ông còn là một khoa học gia. Ông có nhiều Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật. Ngoài ra, ông còn đóng góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng, quang học và nghiên cứu về thủy lực. Ông được coi là thiên tài toàn năng nhất lịch sử nhân loại.
[3] Cha Đắc Lộ, Alexandre de Rhodes, là một nhà truyền giáo dòng Tên người Avignon và một nhà ngôn ngữ học. Ông là người sáng lập ra hệ thống cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh.
[4] Kinh đô Đàng Ngoài thời bấy giờ là Kẻ Chợ (Hà Nội ngày nay)
Để thấy được sự thăng trầm của Giáo hội, cũng như cái vĩ đại của những con người đứng trước cảnh máu chảy đầu rơi vẫn không khiếp nhược, không chối bỏ niềm tim vào Thiên Chúa. Một cái nhìn toàn diện về cuộc bách hại đạo Công Giáo tại Việt Nam, đã được Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ [1] tổng hợp trong tác phẩm "Vụ Án Phong Thánh" như sau:
Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ
Cánh đồng truyền giáo trên đất Việt Nam đã được Thiên Chúa ban cho cách dồi dào ngay từ khi mới nhận hạt giống đức Tin, và do đã được thấm nhuần bằng nhiều máu các vị Tử Ðạo, xuất thân trong hàng giáo sĩ ngoại quốc cũng như trong hàng giáo sĩ bản xứ và trong Cộng đoàn giáo dân Việt Nam. Lời nhận xét của Tertuliano xưa đã thành như ngạn ngữ bất di bất dịch ngàn đời: "Sanguis Martyrum, semen Christianorum: Máu các vị Tử Ðạo là hạt giống sinh nhiều giáo hữu". Tất cả các vị đã chung vai sát cánh trong lao khổ, trong hy sinh vun trồng thì cũng sát cánh trong cái chết vô cùng anh dũng để làm chứng tá cho Chúa Kitô: "Không có tình yêu nào lớn hơn sự hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu" (Gioan 15,13).
Thời kỳ mới khai nguyên một số nhà truyền giáo đã chiếm được cảm tình nơi nhiều vị cầm quyền Việt Nam:
Thực tình mà nói, trong thời kỳ mới khai nguyên một số nhà truyền giáo đã chiếm được cảm tình nơi nhiều vị cầm quyền Việt Nam hồi xưa. Lịch sử còn ghi:
- Năm 1591 Giáo sĩ Ordeonez de Cevallos dạy giáo lý và làm phép Thánh Tẩy cho Công Chúa Mai Hoa (Phiên âm từ Maria): Công Chúa Mai Hoa là chị cửa Hoàng Tử Lê Thái Tông.
- Năm 1624, tại Thuận Hóa, Giáo sĩ De Pina dạy giáo lý và chuẩn bị cho bà Minh Ðức Vương Thái Phi (1568-1648), vợ của chúa Nguyễn Hoàng, và cha Ðắc Lộ làm phép Thánh Tẩy cho bà với thánh hiệu Maria Madalena.
- Linh mục Ðắc Lộ, năm 1627 tới thủ đô Kẻ Chợ (Hà Nội), đã được tiếp kiến chúa Trịnh Tráng hồi đó xưng hiệu là Thanh Ðô Vương. Trong quãng thời gian ở tại thủ đô, ngài đã khuyên được em gái chúa Trịnh Tráng trở lại đạo Công Giáo mang thánh hiệu là Catarina còn chính chúa Thanh Ðô Vương cho phép ngài lập nhà thờ bên cạnh đền vua.
- Thời Võ Vương (Nguyễn Phúc Khoát) 1725-1765: bên cạnh chúa vẫn có một Linh Mục dòng Tên làm bác sĩ và dạy toán học.
Nhưng chính những thành quả kể trên đồng thời cũng là cơ hội gây nên ghen tương, hiểu lầm, vì sự kiện giáo dân càng ngày càng phát triển đông đúc, trước sự nhận xét vội vàng và đa nghi của một số vua chúa, quan lại và cả giới Tăng Ni, có nghĩa là sợ mất đi một phần thần dân, một phần ảnh hưởng, một phần tín đồ. Thêm vào đó giáo lý của đạo Công Giáo đem tới có vẻ qúa nghiêm khắc và bị lên án là gây xáo trộn trật tự xã hội, thí dụ trong gia đình, theo giáo lý Thiên Chúa, là chỉ có nhất phu nhất phụ, chứ không thể dung thứ, hay cho phép bảo tồn chế độ đa thê, tì thiếp, nàng hầu, là những sự kiện rất thịnh hành trong triều đình, trong giới quan lại, trong giai cấp thượng lưu giầu sang của thời xa xưa.
Những cuộc bách hại khởi xướng bằng những lý do mang nặng thành kiến:
Lúc ban đầu một số những cuộc bách hại khởi xướng bằng những lý do lu mờ và có thể nói là mang nặng thành kiến. Thí dụ:
Trong Nam, hai lần lệnh cấm đạo được ban hành: năm 1617 dưới thời chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên, 1615-1635) nhân vụ hạn hán, và năm 1663 dưới thời chúa Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần, 1648-1667) nhân cơ hội một trận bão lụt, các Thầy Tăng Ni giải thích rằng: sự có mặt của tây phương đạo trưởng và sự kiện nhiều người tin theo đạo mới làm cho các vị Thần Phật bất mãn, do đó mà không cho mưa xuống, hay đã khiến dòng nước dâng cao làm thiệt hại mùa màng!
Nhưng về sau, trong những cuộc bách hại đẫm máu, mới dần dần hiện rõ lý do chính thức tôn giáo: Sở dĩ là vì chính quyền thời đó ra mặt chống đối bài bác bắt bớ Thiên Chúa Giáo, hành quyết những vị Thừa sai ngoại quốc hay linh mục, giáo dân bản xứ và tìm cách tiêu diệt đạo Chúa, nói theo danh từ chuyên môn, là vì "hận thù tín ngưỡng: odium fidei". Tín ngưỡng nói đây là niềm xác tín sâu xa vào Thiên Chúa, sự tôn thờ Ngài là đấng Tạo dựng muôn loài, là vị Cứu tinh nhân loại và là Thẩm phán tối cao. Và chỉ khi nào chết vì tín ngưỡng, nghĩa là thà chết để chứng minh lòng mình trung kiên với Thiên Chúa, lúc đó cái chết mới cao cả, mới là lý tưởng bất diệt của con người: trước mặt Giáo hội hoàn vũ, cái chết này mới đáng tuyên dương và được đề cao làm mô phạm cho toàn dân Thiên Chúa.
Những sắc chỉ cấm đạo:
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam ghi nhớ tất cả 53 Sắc chỉ chính thức do các chúa (hai dòng họ Trịnh, Nguyễn: trong Nam ngoài Bắc), do nhà Tây Sơn và do các vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức ban hành nhằm khai trừ và tiêu diệt đạo Thiên Chúa.
1. Trong Nam: dưới thời các chúa Nguyễn (1615-1778): 8 Sắc chỉ:
- Chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên, 1615) Sắc chỉ năm 1625.
- Chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan, 1635-1648) Sắc chỉ năm 1639 và 1644.
- Chúa Hiền Vương (Nguyễn Phước Tần, 1648-1687) Sắc chỉ năm 1663 và 1665.
- Chúa Ngãi Vương (Nguyễn Phước Trân, 1687-1691) Sắc chỉ năm 1691.
- Chúa Minh Vương (Nguyễn Phước Chu, 1691-1725) Sắc chỉ năm 1700.
- Chúa Võ Vương (Nguyễn Phước Khoát, 1725-1765) Sắc chỉ năm 1725.
Cuộc bách hại dữ nhất vào năm 1665 là vì có người vu khống cho rằng: tượng ảnh Thánh Giá là hình ảnh vua Bồ Ðào Nha, do đó người theo đạo tức khắc là con dân của đế quốc Bồ. Chúa Hiền Vương nổi giận trục xuất hết mọi vị Thừa sai và sát hại dân lành, nhất là vào hai tháng giêng và tháng hai năm 1665: lần đầu tiên tung ba thiếu nữ (Gioana, Maria và Luxia) cho voi giầy chà!
2. Ngoài Bắc: dưới thời các chúa Trịnh (1627-1786): 17 Sắc chỉ:
- Chính Trịnh Tráng (1627-1658): 5 Sắc chỉ: năm 1629 lần đầu tiên tại Bắc Việt và các năm 1632, 1635, 1638, 1643.
- Chúa Trịnh Tạc (1658-1682): 3 Sắc chỉ: năm 1658, 1663, 1669.
- Chúa Trịnh Căn (1682-1709): 1 Sắc chỉ: năm 1696.
- Chúa Trịnh Cương (1709-1729): 4 Sắc chỉ: năm 1709, 1712, 1721, 1722.
- Chúa Trịnh Giang (1729-1740): 1 Sắc chỉ: năm 1736.
- Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 Sắc chỉ: năm 1754, 1765.
- Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 1 Sắc chỉ: năm 1773.
Một đặc điểm: trong thời các chúa Trịnh Cương và Trịnh Giang, Dòng Tên đã đóng góp xương máu vào dòng giống Tử Ðạo Việt Nam: Lm Messari chết rũ tù ngày 15/06/1723, và ngày 11 tháng 10 cùng năm đến lượt Lm Bucharelli bị hành quyết tại Ðồng Mơ cùng với 9 Thầy giảng và Giáo dân. Năm 1736 bốn linh mục Dòng Tên khác: Alvarez, Cratz, D' Abreu, Da Cumba bị trảm quyết; 2 Thầy Việt Nam bị đánh giập đầu gối: 1 Thầy chết trong tù, còn Thầy kia bị đày chung thân biệt xứ.
3. Nhà Tây Sơn (1775-1800): Khởi nghĩa năm 1775, đóng đô tại Quy Nhơn:
Miền Nam: 3 Sắc chỉ: bát đầu 1779.
- Vua Thái Ðức: năm 1785.
- Vua Cảnh Thịnh: năm 1798.
Miền Bắc: năm 1786 Tây Sơn kéo quân ra chinh phục miền Bắc: 3 Sắc chỉ:
- Quan Thái Sư Bùi Ðắc Tuyên: 2 Sắc chỉ: năm 1795: ngày 7/01/1795 và 24/01/1795.
- Khâm Sai Bắc Việt Ngô Văn Sở: 1 Sắc chỉ: năm 1799.
Cuộc tàn sát năm 1798 ghê gớm hơn cả, vì đã khai diễn những màn tra tấn dã man như tẩm dầu vào các đầu ngón tay, hay đổ vào rốn, trước khi châm lửa, hoặc treo ngược đầu "tội nhân" xuống. Các cơ sở Công Giáo tại Bố Chính, Nghệ An, Thanh Hóa (nhà thờ, nhà xứ, tu viện, trường học) đều bị cướp phá, dân chúng chạy trốn lên rừng.
4. Vua Minh Mạng (1820-1840): 7 Sắc chỉ:
Các sử gia Âu Châu khi viết về những cuộc bách hại tôn giáo tại Việt Nam thường tặng vua Minh Mạng danh xưng: "Néron của Việt Nam", vì Hoàng đế Néron hồi xưa khét tiếng tàn bạo hung dữ trong những cuộc lùng bắt đạo Công Giáo tại thủ đô Roma và trong đế quốc La Mã. Thực ra trong tổng số 117 vị Thánh Tử Ðạo Việt Nam, một nửa (58 vị) đã bị hành quyết trong vòng 20 năm nhà vua Minh Mạng cầm quyền, đặc biệt vào hai năm 1838-1839.
Cấm đạo: vua Minh Mạng cấm một cách khoa học:
- Một đàng cho lệnh tập trung về Huế tất cả các số Linh mục Thừa sai ngoại quốc. Bề ngoài nói khéo là nhà vua cần đến các vị để dịch sách ngoại ngữ ra tiếng Việt, nhưng thực ra là để cầm chân các nhà truyền đạo, không cho họ hoạt động và liên lạc với giáo đoàn. Trong khi đó chờ có cơ hội có tàu ngoại quốc cập bến là đẩy số Thừa sai này về nước, đồng thời không cho vị Thừa sai mới nào được phép nhập cảnh Việt Nam.
- Ðàng khác tiêu diệt các cơ sở, các tổ chức Công Giáo địa phương, nhất là căng màn lưới kiểm soát gắt gao để lùng bắt các đạo trưởng người bản xứ.
Nhà vua đã ký 7 Sắc lệnh nghiêm cấm vào những năm 1825, 1826, 1830, 1833, 1834, 1836 và 1838. Biết trong giáo lý đạo Công Giáo có "10 điều răn" và nhiều lễ cử hành trong năm, ngày 15/07/1834, vua cho công bố một đạo luật trong đó gồm 10 khoản, lấy từ triết học Khổng Tử đem áp dụng vào xã hội Việt Nam để dạy đạo làm người. Nội dung: về cương vị con người, lương tâm ngay thẳng, tự trọng bản lĩnh, nền tảng kinh tế, thuần phong mỹ tục, giáo dục giai cấp, vấn đề văn hóa, hãm dẹp tình dục, tôn trọng pháp luật và quãng đại với tha nhân. Ðạo luật này được niêm yết trên khắp mọi nẻo đường, bắt dân chúng phải học tập và tuân hành. Mộng của nhà vua là để cho đầu óc người dân khỏi bị tiêm nhiễm các thứ giáo lý ngoại bang, riêng với người Công Giáo là để thay thế cho 10 giới răn đạo Chúa.
Ngoài ra các Quan trong nước làm hai Kiến nghị (năm 1826 và 1830) yêu cầu nhà vua thẳng tay tiêu diệt đạo trưởng Thiên Chúa Giáo bằng án tử hình, viện cớ rằng: các vị Thừa sai tổ chức từng xứ đạo, có nghĩa là chia nước ra thành nhiều địa hạt chỉ huy như một chính quyền và giáo dân triệt để tuân theo. Những vụ tàn sát ở Nghệ An, ở làng Dương Sơn: Linh mục, giáo dân bị bắt, bị xử! Nhất là tại Nam Ðịnh do bàn tay khát máu của Thống Ðốc Trịnh Quang Khanh. Cuối năm 1837 ông bị nhà vua triệu về Kinh khiển trách nặng lời, vì chưa thẳng tay với Cộng đoàn Công Giáo miền Trung Châu và Duyên Hải Bắc Việt là hai địa điểm từ xưa đến nay vẫn là trung tâm Công Giáo phồn thịnh. Từ Huế trở về Nam Ðịnh, Trịnh Quang Khanh mang theo món quà 40 ảnh Thánh Giá cỡ lớn, quà của vua trao tặng, và 6 ngàn quân binh. Ảnh Thánh Giá được mang đặt khắp các cửa ngõ trong thành phố, hay là về sau di chuyển trong các họ đạo mỗi khi có các cuộc hành quân bách hại, trong khi đó từng ngàn quân mới được tiếp viện chạy đi bao vây khắp nơi, xua hết mọi gia đình Công Giáo ra ngoài, ép buộc họ phải bước lên ảnh Thập Giá, và bước lên ảnh Thập Giá có nghĩa là từ bỏ đạo thánh. Ba năm cuối đời Minh Mạng là những năm đau khổ nhất cho Giáo Hội Bắc Việt thời đó. Ðức Giám Mục Retord, Hội Thừa Sai Paris, diễn tả: "Không thể trốn thoát được nữa, vì không còn chỗ nào tối đủ để tránh né trăm ngàn con mắt rình rập"!
5. Vua Thiệu Trị (1840-1847: 2 Sắc Lệnh:
Sang đời vua Thiệu Trị cuộc bách hại vẫn tiếp tục, nghĩa là vua vẫn để cho thi hành những sắc lệnh đã được công bố đời vua Minh Mạng, mặc dầu trong một vài địa phương đã có phần giảm độ gắt gao. Tại Phúc Nhạc (Ninh Bình) Nữ Thánh Ine Lê Thành (tức bà Thánh Ðê, vị nữ Thánh duy nhất trong 117 Thánh Tử Ðạo) bị bắt, vì can tội chứa chấp "đạo trưởng", tức hai linh mục Thừa sai Berneux và Galy. Bà đã anh dũng xưng đạo và cam chịu mấy cuộc tra tấn dã man đến chết trong tù. Cũng như Linh Mục Phêrô Khanh bị trảm quyết năm 1842 và Thánh Mattêô Lê Văn Gẫm bị xử năm 1847. Mãi cho tới 1847, sau khi thất bại trong cuộc tranh chấp với đoàn tầu Pháp tại Cửa Hàn, vua phản ứng bằng cách đổ hết tội lỗi trên đầu người Công Giáo, và ngày 3/05/1847 vua ban hành sắc lệnh lùng bắt các linh mục Thừa Sai ngoại quốc.
6. Vua Tự Ðức (1847-1883): 13 Sắc lệnh:
Nếu tính số Sắc lệnh bắt đạo, dưới thời Tự Ðức lên tới 13 Sắc lệnh ký vào những năm 1848, 1851, 1855, riêng trong năm 1857: 4 Sắc lệnh; năm 1859: 3 Sắc lệnh; và năm 1860: 4 Sắc lệnh sau cùng. Nhiều lệnh như thế minh chứng ý chí nhà vua muốn tận diệt đạo Thiên Chúa bằng mọi giá, và tận diệt suốt trong 30 năm chấp chính. Chúng ta sẽ thấy nội dung những Sắc lệnh đó khủng khiếp tới mức nào!
- Ðạo Công Giáo được định nghĩa không những như một "Tả Ðạo" mà còn tệ hơn nữa: như một tôn giáo xấu xa "một dịch tễ" (Sắc lệnh: 7/06/1857).
- Do đó lệnh vua là các cơ quan chính quyền phải ráo riết bài trừ:
- Lệnh cho các xã ủy, cai tổng (Sắc lệnh: Tháng 5 năm 1857): Ai không tuân theo sẽ bị cách chức (Sắc lệnh 7/06/1857).
- Lệnh cho Triều đình và các quan địa phương (Sắc lệnh 24/08/1857).
- Phải bắt tất cả các tầng lớp Công Giáo:
- Hết mọi thanh niên trên 15 tuổi phải trình diện thường xuyên theo thời gian nhất định (Lệnh 17/01/1860). Người Công Giáo, dù học giỏi, có khả năng, cũng không được bổ nhiệm giữ chức vụ nào (Sắc lệnh 18/09/1855).
- Ðặc biệt giới ngư phủ: vì họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo trưởng (Sắc lệnh 18/09/1855).
- Ðặc biệt giới ngư phủ: vì họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo trưởng (Sắc lệnh 18/09/1855).
- Những người chứa chấp đạo trưởng sẽ bị phân thây và buông sông (Sắc lệnh 30/03/1851).
- Giáo dân không chịu đạp lên Thánh Giá sẽ bị khắc hai chữ "Tả Ðạo" trên mặt và đi đầy biệt xứ (Sắc lệnh 18/09/1855). Ai cố chấp xưng đạo: đàn ông sẽ bị cưỡng bách tòng quân, đàn bà bị tuyển làm nội trợ cho các quan (Sắc lệnh 7/06/1857).
- Bắt các thành phần trong Hội đồng giáo xứ (Sắc lệnh tháng 10/1859).
- Binh sĩ Công Giáo không đạp ảnh Thánh Giá sẽ bị giải ngũ, bị khắc hai chữ Tả Ðạo và bị đầy chung thân (Sắc lệnh Tháng 12/1859).
- Giới Quan lại Công Giáo: cả những ai đã chối đạo cũng bị cất chức. Những ai trung kiên sẽ bị trảm quyết (Sắc lệnh 15/12/1859).
- Các Nữ tu: không được cấp giấy thông hành để di chuyển ngoài địa phương mình đang ở, vì họ là những liên laic viên đắc lực. Ai không tuân lệnh sẽ bị: tù chung thân, hay làm nội trợ cho các quan (Sắc lệnh 17/01/1860 và Sắc lệnh tháng 7/1860).
- Các Linh mục Việt Nam: đạp Thánh Giá hay không đều bị phân thây để nêu gương; Ngoại quốc: bị trảm quyết, đầu phải treo luôn trong 3 ngày, rồi buông sông hay ném xuống biển (Sắc lệnh 15/09/1855).
- Các cơ sở Công Giáo (nhà thờ, nhà xứ, tu viện, nhà trường) bị đốt phá và tiêu hủy (Sắc lệnh 18/09/1855 và Sắc lệnh 8/12/1857). Nhất là cơ sở tại Vĩnh Trị: phải bình địa hóa triệt để (Sắc lệnh 1/12/1857).
- Những khổ hình dã man nhất: Phân sáp (1860): gồm 5 khoản:
- Khoản 1: Hết mọi người theo đạo Thiên Chúa, bất cứ nam nữ, giầu nghèo, già trẻ đều bị phân tán vào các làng bên lương.
- Khoản 2: Tất cả các làng bên lương có trách nhiệm canh gác những tín hữu Công Giáo: cứ năm người lương canh gác một người Công Giáo.
- Khoản 3: Tất cả các làng Công Giáo sẽ bị phá bình địa và tiêu hủy. Ruộng đất, vườn cây, nhà cửa sẽ bị chia cho các làng bên lương lân cận, và các làng bên lương này có nhiệm vụ phải nộp thuế hằng năm cho Chính Phủ.
- Khoản 4: Phân tán nam giới đi một tỉnh, nữ giới đi một tỉnh khác, để không còn cơ hội gặp nhau, con cái thì chia cho những gia đình bên lương nào muốn nhận nuôi.
- Khoản 5: Trước khi phân tán, tất cả giáo dân nam nữ và trẻ con đều bị khắc trên má trái hai chữ Tả Ðạo và trên má bên phải tên tổng, huyện, nơi bị giam giữ, như thế không còn cách nào trốn thoát.
Pháp luật nghiêm khắc như thế, thảo nào số người Công Giáo bị ngã gục đã lên cao: trong tổng số 117 vị Thánh Tử Ðạo, 50 vị đã hy sinh mạng sống dưới đời Tự Ðức!
Ðọc lại trang sử rùng rợn trên đây chúng tôi tự hỏi: con người với nhau, cùng là công dân một nước, cùng nói một ngôn ngữ, cùng sống một giang sơn, cùng đóng góp nghĩa vụ chung, tại sao lại có thể tàn bạo với nhau đến thế? Những Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân Việt Nam thời xưa là những công dân tốt lành, họ truyền bá những điều hợp lý, họ sống đời sống gương mẫu, họ ăn ở lương thiện bác ái. Có những người bị bắt bớ vì tín ngưỡng, bị đeo gông cùm, nhưng nhiều lần được cả lính canh gác ngục tù cảm phục, tôn kính; nhiều lần trên pháp trường được cả những lý hình xin lỗi, thanh minh trước khi giơ tay hành quyết, tại sao họ bị bao vây tầm nã, bị đối xử dã man, tệ hơn những tội nhân phản loạn, bị coi rẻ hơn những thành phần bất hảo? Theo lý luận trần gian, sự kiện lịch sử làm cho chúng ta điên đầu không tìm ra câu giải đáp!
Nhưng rồi ngửa mặt lên nhìn vào cây Thập Giá: từ đây một ánh sáng thiêng liêng sẽ cho chúng ta nhận thấy: trong loài người ai đã thánh thiện bằng Chúa Kitô, ai đã thi ân cho nhân loại bằng Ngài: qua giáo lý Ngài công bố, qua phép lạ Ngài làm, qua đời sống trong sáng Ngài nêu cho cả thế giới? Nhưng rồi ai đã phải chết đau khổ bằng Ngài và như Ngài? Chính Chúa Giêsu hồi xưa đã tiên báo: "Thầy phải đi Giêrusalem, ở đó sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ phải tử nạn và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Matt. 16,21). Sở dĩ Chúa đi chịu chết (và sau có phục sinh) là để: "Nhân danh Ngài sự ăn năn thống hối và ơn tha tội sẽ được lan truyền khắp nơi bắt đầu từ Giêrusalem" và Ngài trao cho các Tông Ðồ sứ mệnh "làm chứng nhân về tất cả những sự kiện đó" (Luc. 24,48-68).
Tự Ðức là vua sau cùng đã bách hại đạo Công Giáo, ý muốn của nhà vua là tiêu diệt tận gốc, nhưng nhà vua, cũng như các người bách hại đạo Công Giáo trên thế giới, đâu có ý thức được rằng: đạo Thiên Chúa xây đắp không phải trong ranh giới thời gian, trong lãnh vực địa dư quốc gia, nhưng là được củng cố trong lương tâm, trong tâm hồn nhân loại, làm sao mà tiêu diệt nổi? Ðạo Thiên Chúa được mở rộng biên cương, được phát triển không phải bằng những phương tiện kinh tế, vật chất, binh đao, nhưng bằng một luật tiến triển siêu nhiên: "Hạt giống gieo xuống đất mà không mục nát sẽ không sinh hoa trái, nhưng nếu mục nát đi nó sẽ sinh nhiều hạt khác" (Gio. 12,24-25).
7. Cuộc Bách Hại do nhóm Văn Thân (1885-1886):
Chính lý ra những cuộc bách hại chấm dứt dưới thời Tự Ðức, vì theo khoản 9 Hiệp Ước Giáp Tuất ký giữa Việt Nam và nước Pháp, ngày 15/03/1874, vua Tự Ðức đã ký nhận "quyền tự do theo đạo và hành đạo của người Công Giáo". Tuy nhiên lịch sử còn ghi chép: sau vua Tự Ðức sự bắt bớ Cộng Ðoàn Công Giáo Việt Nam vẫn tiếp tục, không kém phần dữ dội tàn bạo, và diễn tiến trong hoàn cảnh rối ren khác biệt. Các vua kế vị Tự Ðức:
- Hiệp Hòa lên chấp chính được 4 tháng rồi sau đó ép buộc phải uống thuốc độc quyên sinh.
- Kiến Phúc lên ngôi hồi mới 15 tuổi;
- Hàm Nghi lên kế vị lúc còn 12 tuổi:
Do đó mọi quyền điều khiển quốc sự, giữa lúc đang phải đương đầu với ngoại bang, đều nằm trong tay mấy vị đại thần: Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Kết quả đưa đến chỗ không may mắn: do hai Hiệp ước 1883 và 1884 một phần lãnh thổ Việt Nam và quyền hành cai trị quốc gia sang tay người ngoại quốc! Do đó năm 1885-1886 phong trào Văn Thân nổi dậy, lộng quyền trên khắp ba miền Nam Bắc Trung, và con vật hy sinh, một lần nữa, lại là nhân dân Công Giáo rải rác trên toàn quốc! Cuộc bách hại tàn ác vì lợi dụng hoàn cảnh "đục nước béo cò": chỉ trong mấy năm Văn Thân, số người Công Giáo bị tàn sát vì Tín ngưỡng đã lên cao gần bằng tổng số tín hữu đã hy sinh trong hơn hai thế kỷ bách hại, từ đời các chúa Trịnh, Nguyễn, cho tới hết đời Tự Ðức.
Những cuộc tàn sát thật ác liệt rùng rợn: từng lớp người, kể ra từng trăm từng ngàn, cứ mỗi lần phải qua một cơn bách hại là cứ tiếp tục ngã xuống, như những trái sung rụng trước cơn gió lộng! Người ta ước lượng: dưới thời các chúa Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30,000 giáo dân bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức, chừng 40,000 tín hữu bị xử tử hay chết trong lao tù; nhưng dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60,000 người dân Công Giáo bị sát hại, chỉ vì là thành phần trong dân Thiên Chúa. Linh mục Ð. Trần Văn Phát, hồi xưa Tổng Quản Giáo Phận Huế, còn đi xuống những chi tiết "độ 100,000 đấng Tử Ðạo: 58 vị Giám Mục và Linh Mục ngoại quốc, 150 vị Linh Mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 1 chủng sinh, 270 Chị Dòng Mến Thánh Giá và 99,182 giáo dân".
Hồi đó vua Cảnh Thịnh (1798) ra lệnh tàn sát các họ đạo: dân chúng, trên đường thoát nạn, bồng bế con cái chạy và ẩn nấp trong rừng La Vang, và nơi đây, theo truyền thống, được Ðức Mẹ hiện ra trấn an và bảo vệ. Hồi đó Phong Trào Cần Vương đang tung hoành với khẩu hiệu "bình Tây sát Tả" (đuổi quân Tây diệt Tả Ðạo) đem từng ngàn binh đội đên vây hãm tứ phía làng Trà Kiệu, nhất là từ hai ngọn đồi Bửu Châu và Kim Sơn liên tục bắn phá. Họ đạo Trà Kiệu khác nào một hòn đảo bé nhỏ nằm dưới thung lũng làm mồi cho những cuộc tấn công liên tiếp 21 ngày đêm, từ 1 tới 21 tháng 9 năm 1885. Nhưng Trà Kiệu đã được một "Bà mặc áo trắng" từ trên ngọn tháp đền thờ bồng con đỡ đạn cho đám dân quân Công Giáo đang cầm cự bên trong.
(Trích tập sách Vụ Án Phong Thánh của tác giả Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)
-------------------------------
Ghi chú [1]
Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ (1918-2002) là Thỉnh Cáo Viên của vụ án phong thánh cho 117 Chân Phước Tử Đạo Việt Nam, là Thư Ký riêng (Bí Thư) của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II . Ngài cũng là tác giả của các cuốn sách:
- Thánh Gioan Vianney và Giáo Hội Ngày Nay, Roma, 1986
- Giáo Hội Việt Nam: Vụ Án Phong Thánh, Roma, 1987
- Giáo Hội Việt Nam: 21 Thánh Tử Đạo Thừa Sai, Roma, 1991
- Giáo Hội Việt Nam: 97 Thánh Tử Đạo Việt Nam, Roma, 2003
- Đời sống Tu sĩ và Công đồng Vatican II, Roma, 1988
- Chân Dung Chị Elisabeth Chúa Ba Ngôi, Roma, 1989
- Đức Chúa Thánh Thần và Bảy Hồng Ân Của Ngài, Roma, 1989
- Compendium Vitae et Martyrii 117 Beatorum Martyrum Việt Nam, La ngữ và Ý ngữ, Roma, 1989
- Kỷ Yếu Phong Thánh Tử Đạo Việt Nam, Roma, 1989
- Lịch Sử Giáo Phận Phát Diệm (1901-2001), Roma-Paris-USA, 2001
- Les 21 Saints Martyrs Missionnaires au Vietnam, Pháp ngữ, Roma-Paris, 2001
- Bên cạnh Đức Gioan Phaolo II, Roma-Paris-USA, 2002
Trên 130 ngàn anh hùng đã nằm xuống, tạo nên khúc khải hoàn ca cho sự vinh phúc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, với 117 vị được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại Vatican. Ngày lễ kính chung cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày 24 tháng 11 và ngày Chúa nhật thứ 33 Mùa Thường niên.
Ý nghĩa bức họa Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Đây là bức tranh được trưng bày trong đại lễ suy tôn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ngày 19-06-1988 tại quảng trường thánh Phêrô tại Roma, do họa sĩ Gordon Faggetter trình bày.
Bức tranh lấy cảm hứng từ câu 9 trong đoạn 7 của sách Khải Huyền : "Tôi đã thấy một đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi nước mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng rước ngài Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế". Theo Thánh Gioan, đám người đông đảo tượng trưng cho muôn vàn vị Tử Ðạo trong lịch sử Giáo Hội hoàn vũ đã bỏ mình vì trung kiên với Thiên Chúa, và hiện nay đang vinh hiển trong cõi hoan lạc trường sinh. Còn trong Giáo Hội VN, 117 Thánh Tử Ðạo tượng trưng cho trên dưới 130,000 bạn đồng hành đã anh dũng hy sinh mạng sống trong suốt 261 năm bách hại: từ sắc chỉ cấm đạo đầu tiên năm 1625, cho tới hết thời Văn Thân (1886).
Đứng hàng thứ nhất chính giữa hình là sáu vị đứng đầu danh sách 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, được XƯỚNG DANH trong nghi thức SUY TÔN đó là : Linh mục Anrê Dũng Lạc, Thanh niên chủng sinh Tôma Thiện và Cụ Trùm gia trưởng Emmanuel Lê Văn Phụng, đại diện chính thức cho 96 vị thánh Việt Nam, thuộc ba miền Bắc Trung Nam.
Hai giám mục Dòng Đaminh Hermosilla Liêm và Valentino Vinh, đại diện cho 11 thừa sai Tây Ban Nha Dòng Đaminh (6 giám mục – 5 linh mục) và 27 vị khác quốc tịch Việt Nam thuộc gia đình Đaminh, (11 linh mục, 6 thày giảng, 3 linh mục và 7 giáo dân dòng Ba Đaminh)
Linh mục Théophane Vénard Ven, (áo chùng đen, cổ có ba gạch trắng) đại diện cho 10 thừa sai Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris. (gồm 2 giám mục, 8 linh mục). Cũng ở hàng đầu từ trái qua phải là : Linh mục Phaolô Lê Bảo Tịnh, Hai vị Dòng Đaminh tử đạo tiên khởi trong danh sách 117 là cha Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm là cha Castaneda Gia (quỳ phía trước).
Quỳ phía bên phải : Quan Thái bộc Micae Hồ Đình Hy.
Sau lưng là ba vị gia đình cụ Án Đaminh Phạm Trọng Khảm, với con trai Luca Phạm Trọng Thìn và người em Giuse Phạm Trọng Tả.
Riêng thánh nữ Annê Lê Thị Thành cũng đứng ngay gần giữa bức tranh, đại diện duy nhất của nữ giới Giáo hội Việt Nam. Thánh nữ đã 60 tuổi, nhưng họa sĩ đã xin phép được vẽ trẻ hơn một chút tính theo tuổi của Nước trời.
Họa sĩ Gordon Faggetter còn chủ tâm vẽ rải rác trong bức họa đủ tám mũ Giám mục, thêm 24 Linh mục triều mặc lễ phục trắng đeo dây stola đỏ, và 7 Thánh Binh trong y phục quân nhân.Dưới chân bức họa là một số dụng cụ gia hình trong các cuộc tử đạo : gông cùm, xiềng xích, dây thừng thắt cổ, roi đòn, kìm kẹp và thanh đao xử trảm.
Cụm hoa sen chỉ ý nghĩa trong sáng của cuộc đời 117 vị thánh, theo biểu tượng văn hóa Việt Nam, Sen tượng trưng người quân tử : "Trong đầm gì đẹp bằng sen… gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Phía sau bức tranh là giang sơn gấm vóc của đất Việt, tượng trưng bằng một số KIẾN TRÚC :
- Chùa Một Cột (Bắc), chùa Thiên Mụ (Trung) và chợ Bến Thành (Nam)
- Và 5 ngôi thánh đường :
Chính tòa Sài Gòn: nơi còn bảo toàn hài cốt một số các vị Tử Ðạo miền Nam;
La Vang (Huế): chỗ Ðức Mẹ đã hiện ra an ủi đoàn con bị truy nã vì tin theo Chúa Giêsu Kitô (1789);
Phát Diệm: ngôi thánh đường duy nhất theo kiến trúc Á Ðông, và là nơi vị linh mục chánh xứ Trần Lục xưa kia đã một thời bị bách hại (1858),và bị đầy trên Lạng Sơn (1859-1860);
Bùi Chu: giáo phận đã đóng góp con số tử đạo nhiều nhất (26 vị trong số 117), vì thế mà vẫn là nơi sản xuất dân số Công Giáo đông nhất trong 26 giáo phận Việt Nam;
Chính tòa Hà Nội: một trong hai giáo phận đầu tiên tại Bắc Việt (1679), là xuất xứ của nhiều vị Tử Ðạo (16 vị, trong đó có Cha Thánh Anrê Dũng Lạc).
- Mở rộng đến tận chân trời là biển khơi và cánh đồng lúa, chính là môi trường truyền giáo của các con cháu các vị Anh Hùng. Họ được kêu mời thêm tin tưởng vững bước tiến vào tương lai. Vì từ trên cao, Đức Kitô với một tay mở rộng đón đợi và một tay đang chúc lành, như muốn lập lại lời Ngài xưa : "Trong thế gian anh em sẽ còn phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên, Thày đã thắng thế gian"
Trong số trên 130 ngàn người tử vì đạo, tại Giáo xứ Bỉ Nội, cũng có những anh hùng đã hiên ngang nhận cái chết để điểm tô cho bức tranh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đó là các ông Phêrô Đa, Joseph Thẻ và Joseph Hanh. Cái chết của những anh hùng này đã được Giáo hội Công Giáo Việt Nam tra xét để đưa vào "hồ sơ phong thánh" theo yêu cầu của Tòa Thánh tại La Mã. Căn cứ vào những lời khai từ con cháu của các vị tử vì đạo trên, Tòa Giám Mục Địa phận Bắc Ninh đã cử một Ban Xét Án về làm việc với Giáo xứ Bỉ Nội để kiểm tra lại nơi chôn cất của các Ngài.
Sự kiện tử vì đạo của 3 vị trên, đã được ông Nguyễn Ngọc Thuyết kể lại trong cuốn Bỉ Đường Hương Phả, trang 143, như sau:
Chuyện kể lại rằng: các cụ bị bắt đem về thành Bắc Ninh để tra khảo và cưỡng ép từ bỏ đạo, nhưng các cụ cương quyết chấp nhận mọi cực hình chứ không chịu từ bỏ đạo. Thấy không thể thuyết phục được, quân lính xô các cụ xuống một hố sâu và rộng, dưới hố cũng đã có rất nhiều người, đoạn lính thả voi xuống giày xéo lên cho tới khi không còn ai sống sót. Về sau, chính tại hố này đã xảy ra nhiều phép lạ làm cho quan quân không chịu nổi, dân chúng quanh vùng khiếp sợ. 8 tháng sau, Vua cho lính về thông báo ở đầu làng nào có người bị bắt đưa về thành Bắc Ninh, nếu chưa thấy về thì lên thành nhận xác.
Những người đi nhận xác kể lại rằng, khi đến nơi, xác các cụ vẫn còn nguyên vẹn nên rất dễ nhận diện. Họ đem xác các cụ về chôn cất. (hết trích)
Hình ảnh một gia đình Công Giáo Việt Nam thời Pháp Thuộc
Tôi là Thày cả Phêrô Nhượng, coi xứ Bỉ Nội, vâng lời Đức Cha, tra hỏi cho biết xác ông Đa tử vì đạo táng ở đâu.
Vậy tôi đã chiêu tập mấy người tuổi tác, 2 ông Trùm và cháu chắt ông Đa, hỏi cho biết việc đó, thì tất cả biết bấy nhiêu người ấy. Họ đã nghe tôi đọc lại thư chỉ Đức Cha, và tôi tra hỏi cho cặn kẽ, thì đều thưa: Ông Đa tử vì đạo đã chôn ở gian bàn độc nhà thờ chính họ, nên cứ lời lưu truyền và đã có dấu tích chắc chắn, mà cho được làm chứng chắc về sự ấy thì tôi đã truyền cho 2 ông Trùm và chắt của ông Đa phải ký tên dưới này.
Phụng tra
Trùm: Nguyễn Văn Diễn (đã ký)
Cháu tứ đại: Nguyễn Văn Sửu (đã ký)
Tại xứ Bỉ Nội, le 30, septembre 1936
Phêro Đoàn Cung Nhượng (ký tên và đóng dấu)
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Tôi là Joseph Hiếu sacredos đi làm Amanuensis Judisis subdelegati Pedri Nhượng về việc lấy tên cùng nhận xác tôi tá Đức Chúa Lời là ông Đa tử vì đạo táng ở nền nhà thờ xứ Bỉ, địa phận Bắc Ninh.
Vậy ngày 16 Julii 1941, chúng tôi họp tại phòng tiếp khách nhà xứ Bỉ Nội. Trước hết có cha Judex Subdelegatus Petrus Nhượng và cha Promotor Fidei cùng Amanuensis Joseph Hiếu sacudos, và 2 người làm chứng là Joseph Khanh và Dominico Trạch, lại có một ông lang Vicentio Nhuận, một người thợ xây là Joseph Huy, có 2 quan viên là Dominico Cầu và Dominico Cận là người chứng kiến và 8 người phụ đào đất là Pedro Hoán, Joan Kính, Dominico Am, Joan Chấp, Dominico Lưu, Dominico Tiền, Joseph Trung, và Joan Ái.
Vậy khi các người này đã thề trước mặt Judex Subdelegatus xong, chúng tôi đến nơi đã chỉ trong tờ Thày cả Pedro Nhượng đã khai đệ trình Đức Cha là gian bàn độc nhà thờ Xứ Bỉ. Sau khi Judex Subdelegatus Petrus Nhượng thay mặt Tòa Thánh đã đánh cùng rao vạ Excommunicatio mắc tức thì, có một Đức Giáo Hoàng tha được mà thôi cho các kẻ dám lấy sự gì thuộc về tôi tá ĐCL là ông Đa hay là dám cho sự gì ngoài lẫn vào trong xác ông này cùng đọc lời khai đã kể trên rồi thì bấy giờ 8 người phu bắt đầu đào đất tự 6 giờ 29 phút cho đến 7 giờ 35 phút ban sáng ngày 17 Julii 1941 và sâu xuống 1 m 15 thì thấy một nồi bằng sành, đậy một hòn gạch vuông, một tiểu sành, mặt trên đậy 2 hòn gạch vuông 2 bên, hòn gạch chỉ ở giữa, trên hòn gạch chỉ lại có một hòn gạch vuông nữa, lại thấy gạch chỉ lát chung quanh tiểu nữa. Đến 8 giờ 5 phút, chúng tôi đưa tiểu và nồi lên. Sau khi quan án đã rao vạ thì chúng tôi mở tiểu và nồi ra. Trong nồi thất đất, xương vụn và đanh lẫn lộn nhau. Trong tiểu thấy một bảng đồng vỡ ra làm 4 mảnh rõ chữ Đa, lại một hòn gạch chỉ quét vôi trắng có chữ: 1902 - 27 - Augusti và chữ nôm: Tôi cứ theo thẻ đồng đã vỡ ra làm 4 mảnh song còn hình chữ mà biết được thật ông Đa này tên thánh người là Phê rô Đa. Bản quản Lnh mục Juse Hạnh. Đoạn chúng tôi lau chùi bằng giấy ta cho sạch, rồi có ông lang Vicentio Nhuận khám và nhận các xương như sau này:
36 mảnh xương sọ, 4 miếng xương hàm, 26 răng cả 2 hàm, 3 đốt xương sống, 7 khúc xương cánh tay, 8 xương đầu chối, 5 khúc xương ống chân, còn bao nhiêu xương vụn cả, đoạn gói xương vào vải cát bá, trong bọc giấy ta, lấy giây vải ấy buộc lại rồi cho vào tiểu sành mới, để cả bảng đồng vỡ, bảng gạch cũ và một bảng mới nữa làm bằng ciment dài 0m12, ngang 0m08, cao 0m01 có chữ: Hài cốt ông Đa tử vì đạo cải táng tại Bỉ Nội, die 17.7.1941. Đoạn đậy nắp sành lại, gắn ciment, bọc vải cát bá ngoài, lấy giây vải ấy buộc chằng hình chữ thập, đóng 8 dấu xứ Bỉ Nội, 4 dấu vào mép vải, 4 dấu vào mép vải với mép băng. Tiểu mới dài 0m68, ngang 0m29, cao 0m26. Đoạn đưa vào phòng kín nhà xứ khóa cửa lại, đóng ấn vào rồi cha Judex giữ chìa khóa, chúng tôi về nghỉ.
Hồi 3 giờ rưỡi chiều, chúng tôi lại ra phòng kín thấy con chấm còn nguyên. Chúng tôi vào lấy tiểu đưa ra táng ở nhà thờ xứ Bỉ Nội, trên gian Cômônhong dưới bàn độc, cạnh Thánh Juse, tự chân bàn độc, tự đá thánh xuống huyệt đo được 1 m63, từ thẳng câu lơn là 0m65, tự phía tây vào 0m90, tự câu lơn phía đông vào 0m85. Huyệt mới dài 0m75, ngang 0m34, sâu 0m60. Dưới và chung quanh huyệt lát gạch, bên trên quấn một lượt gạch nữa, đổ vữa trên cho bằng nền cũ. Chung quanh lát gạch chỉ, giữa lát gạch vuông, mà khi làm các việc này trước sau, không có tỏ ra dấu nào là dấu kính thờ chút nào. Còn các mụn xương nhỏ lẫn với đất thì để vào cùng với nước rửa tay trong một chum gắn ciment kỹ lưỡng để trong nhà xứ Bỉ Nội.
Khi chúng tôi làm việc này là ngày 17 Julii 1941, cũng là ngày 28 tháng 6 Annam năm Tân Tị, cùng có các người nói trước biết rõ ràng có thật như vậy.
Judex Subdelegatus
J. Nhượng Promotor Fidei (ấn ký)
Lương y Vicentio Nhuận (ký)
Joseph Khanh, làm chứng (ký)
Dominico+ Trạch, làm chứng (ký)
Ego Joseph Hiếu Sacerdos Amanuentis (ký)
Tôi là Thày cả Petrus Nhượng, coi xứ Bỉ Nội, vâng lời Đức Cha truyền tra về xác ông Joseph Thỏ và Hanh đã táng ở đâu?
Thì tôi đã đòi ít nhiều người già lão, 2 ông Trùm và những kẻ thuộc về chi phái 2 ông tử vì đạo đến mà tra hỏi. Sau khi đã nghe tôi đọc thư truyền của Bề Trên địa phận và các điều hỏi thì người ta đều thưa: Xác ông Joseph Thẻ và Joseph Hanh tử vì đạo đã chôn ở nhà thờ họ nhà mình ở gian đầu. Cứ lời ri ngôn, và còn ít người xem thấy.
Vậy cho được làm chứng về việc đó thì tôi đã dậy cháu chắt 2 ông và Trùm ký tên dưới này:
Phụng tra
Trùm tộc: Nguyễn Văn Hài (ký)
Trùm tộc: Nguyễn Văn Phố (ký)
Cháu tứ đại Joseph Thẻ: Nguyễn Văn Chung (ký)
Cháu tứ đại Joseph Hanh: Nguyễn Văn Uyển (ký)
Tại nhà xứ Bỉ Nội, le 30 Sept 36
Petrus Đoàn Cung Nhượng (ấn ký)
****************************
Ban sáng ngày 18 Julii 1941
Tôi là Joseph Hiếu Sacerdos làm Amanuensis. Cha Petrus Nhượng làm Judex Subdelegatus, và cha Joseph Phượng làm Promotor Fidei, đến họ Nội cùng với 2 người làm chứng là Joseph Khanh và Dominico Trạch.
Sau khi ông lang Vicentio Nhuận, ông thợ nề Joseph Huy, 2 ông quan viên là Joseph Huấn và Joseph Quý, và 16 phụ đào đất nữa là: Joseph Nghiêm, Joseph Hoàn, Joseph Phán, Joseph Phi, Joseph Cách, Joseph Khang, Joseph Tố, Joseph Hợp, Joseph Tuất, Joseph Nhật, Joseph Tân, Joseph Tung, Joseph Hà, Joseph Suý, Joseph Tứ, và Joseph Hồi, đã đến và đã thề trước mặt Judex, thì chúng tôi đến nơi đã chỉ ở trong tờ Cha Pedro Nhượng đã khai trình Đức Cha, đoạn Judex Nhượng thay mặt Tòa Thánh đã đánh cùng rao vạ Excommunicatio mắc tức thì và có một Đức Giáo Hoàng tha được mà thôi cho các kẻ dám lấy sự gì thuộc về tôi tớ ĐCL là ông Thỏ và Hanh, hay là dám cho sự gì ngoài lẫn vào trong xác các ông này, và đã đọc tờ trình của cha Pedro Nhượng thì bấy giờ bắt đầu đào từ 7 giờ rưỡi cho đến 11 giờ rưỡi chưa thấy gì, thì chúng tôi đóng con chấm, khóa cửa nhà thờ lại, cha Judex giữ chìa khóa, ai nấy về nhà nghỉ.
Hồi 2 giờ rưỡi chiều, chúng tôi lại ra nhà thờ, thấy con chấm còn nguyên, các phu lại bắt đầu đào cho đến 5 giờ rưỡi cũng chưa thấy gì, chúng tôi lại đóng ấn, khóa cửa nhà thờ, cha Judex giữ chìa khóa, rồi về nghỉ.
Sang giờ ngày hôm sau, là 19 Julii 1941, chúng tôi lại ra chỗ đào thấy con chấm còn nguyên, các phu lại đào cho đến 7 giờ kém 5 phút và sâu xuống 2m74 thì thấy một tiểu sành, bên trên đậy 2 hòn gạch chữ nhật, cả 2 vỡ ra nhiều mảnh, đoạn chúng tôi đưa tiển lên khám không thấy gì, chỉ thấy ít nhiều xương pha lẫn với đất. Cứ lời ri ngôn, thì tiểu này không phải ông Thỏ và Hanh vì hai ông chôn ván cả, lẽ khác là khi đào nền nhà phòng cũ thì thấy xương lẫn với vôi cát, họ đoán là xác kẻ trọng chôn đấy, nên họ cho xương vào 3 tiểu sành đem chôn trong nhà thờ, vì thế bảo phu đào sâu xuống nữa độ 3m30 thì thấy hình 2 cỗ ván . Đến 3 giờ rưỡi thì bốc xương lẫn với đất ở ván thứ nhất lên, sau khi cha Judex đã rao vạ, đoạn chọn xương lau chùi rồi có ông lang nhận xương như sau này: 35 miếng xương sọ, 7 miếng xương hàm , 21 răng cả 2 hàm, 2 miếng xương quạt, 4 xương quai sanh, 2 xương vòng kiềng, 13 khúc xương tay, 17 khúc xương chân, 2 khúc xương bánh chè, 2 sụn, 3 xương hông, 8 khúc xương sườn, còn bao nhiêu vụn cả. Khi chọn xương ông này thì thấy 1 bảng đồng vỡ làm hai, thấy một chữ nho: Thẻ, nên đoán là ông Thỏ.
Đến 5 giờ chiều, đưa xương lẫn với đất ván thứ 2 lên, chọn xương ra không thấy bảng nào, chỉ thấy một mảnh đồng con không có chữ gì. Đoạn rửa xương lấy giấy ta lau sạch, rồi ông lang Vicentio Nhuận nhận các xương như sau này: 28 miếng xương sọ, 4 miếng xương hàm, 20 răng cả 2 hàm, 6 khúc xương cánh tay, 2 miếng xương quai sanh, 1 miếng xương hông, 6 khúc xương chân, 2 khúc xương v, còn bao nhiêu vụn cả. Đoạn gói xương cả 2 ông vào vải cẩm châu trắng, lót giấy nam trong, lấy giây vải cát bá buộc lại rồi cho vào tiểu sành mới, mỗi tiểu sành dài 0m71, ngang 0m33, cao 0m30. Trong tiểu để cả miếng bảng cũ và bảng mới bằng ciment, mỗi bảng dài 0m12, ngang 0m08,m cao 0m01, có chữ đề: Ông Thỏ tử vì đạo, cải táng tại Họ Nội die 19.7.1941. Ông Hanh tử vì đạo, cải táng tại Họ Nội die 19.7.1941. Đậy nắp sành lại, gắn ciment cho chắc, rồi bọc vải trúc bâu mỏng, lấy giây vải ấy chằng lại thành hình chữ thập, lấy con chấm xứ Bỉ đóng đủ 8 dấu. 4 con vào mép vải, 4 con vào mép vải với mép băng, rồi đưa vào buồng kín nhà phòng, khóa cửa lại đóng con chấm. Cha Judex giữ chìa khóa, ai nấy về nhà nghỉ.
Vả lại khi bốc xương ông Thỏ thì thấy 4 cái bát đàn, trong ván ông Hanh thì thấy 5 cái.
Sáng hôm sau là ngày 20.7.1941, hồi 8 giờ, chúng tôi ra phòng kín thấy con chấm còn nguyên, chúng tôi lấy 2 tiểu đem táng ở nhà thờ họ Nội, trên gian Cômônhong, bên phía Epiotola, trong huyệt chung quanh xây gạch dài 1m08, ngang 0m86, sâu 0m68, cách bàn thờ chính tính từ đá thánh xuống 3m05, tự thẳng cửa trên xuống 2m70, từ cửa phía đông vào 1m00, từ câu lơn lên 0m88. Táng 2 tiểu trong một huyệt, ở giữa có một đường gạch chỉ phân biệt 2 tiểu, nên 2 tiểu cách nhau 0m27, quay đầu lên trên, ông Thỏ mé trong, ông Hanh mé ngoài, bên trên tiểu quấn gạch, đổ vữa lên cho bằng mặt, chung quanh xây gạch chỉ, giữa xây gạch vuông.
Khi làm các việc này trước sau không có tỏ ra dấu nào là dấu kính thờ chút nào, còn các mụn xương nhỏ lẫn với đất thì để vào 10 chum nhỏ, lấy ciment gắn lại chắc chắn để ở nhà xứ Bỉ Nội.
Khi chúng tôi làm việc này là ngày 20 Julii 1941 cũng là ngày 26 tháng 6 An Nam năm Tân Tỵ, cùng có các người đã nói trước biết rõ ràng có thật như vậy.
J. Nhượng Promotor Fidei (ấn ký)
Lương y Vincetio Nhuận (ký)
Joseph Khanh, làm chứng, (ký)
Dominicus Trạch, làm chứng, (ký)
Ego Joseph Hiếu Sacerdos Amanuentis (ký)