“Cây đa, bến nước, sân đình” là những hình ảnh phải có của một bức tranh thôn dã miền Bắc Việt Nam, đây là những nét chấm phá để tạo nên bản sắc Việt, một bản sắc không lai tập ngoai bang. Đặc biệt, đình làng (chữ Nho: 亭) là sản phẩm độc đáo, mang đậm dấu ấn văn hóa với nhà mái cong, có từ 3000 năm trước trên trống đồng Đông Sơn của người Việt cổ xưa.
Ngày xưa, đình làng có chức năng như một trụ sở hành chính của làng, đây là nơi tập trung đủ mọi lề thói, từ hội họp, nộp sưu thuế, xử kiện, đến việc rước sách hội hè, tiệc tùng, hoặc là nơi nghỉ cho khách lỡ đường... Về sau, khi những vị có công với đất nước, được Triều đình sắc phong cho làm thành Hoàng (sống làm tướng, thác làm thần), nên đình kiêm chức năng nữa là thờ vị Thành Hoàng (chữ Hán: 城隍). Đình làng cũng là nơi thể hiện thứ bậc "chiếu trên, chiếu dưới". Khi đi ăn cỗ, bậc hương lão, hương lý được xếp ngồi giữa đình, thấp hơn ngồi hai bên, dân thường ngồi ngoài sân. Ở những bữa cỗ cúng đình này, con cháu của những vị Thành Hoàng (có công với đất nước hay có công khai phá, dựng làng) đều được một miếng thịt nạc vai của con heo tế thần. Câu nói “miếng thịt giữa làng bằng một sàng xó bếp” nói lên sự trân trọng của làng với những người có công.
Đình làng cổ xưa
Mái Đình làng Bỉ ngày nay (Ảnh: Người Sông Máng)
Đình làng xuất hiện từ thời Vua Hùng dựng nước, như là một chòi nghỉ, có hình dáng nhà sàn. Đến thế kỷ thứ X thì Đình làng được phát triển thành Trạm và càng được phổ biến hơn vào thời Lý, Trần, như là một Trạm dừng chân mỗi lần Vua quan vi hành. Mãi cho tới thế kỷ XV, dưới thời các vua Lê, thì khái niệm về đình làng mới xuất hiện và giữ vai trò là trung tâm của làng xã. Vào khoảng thế kỷ XVI và XVII, thời điểm xảy ra các cuộc nội chiến giữa Trịnh Nguyễn phân tranh ở miền Nam, và Trịnh, Mạc ở miền Bắc. Đây là thời kỳ xã hội rối ren do Triều đình suy thoái, Vua Chúa ăn chơi sa đọa cùng với sự lộng hành của các thế lực quan lại, đã tạo nên cảnh lầm than cho người dân khắp nơi. Sự liên kết giữa Triều đình và làng xã rơi vào cảnh "sống chết mặc bay", đẩy người dân vào tình trạng tự lo tự quản. Trước tình trạng đen tối này, một số nho sĩ đã bất mãn, rũ áo từ quan, trở về quê nhà sinh hoạt với làng xã, vai trò của Đình làng trong giai đoạn này được phát huy mạnh mẽ. Cho đến thế kỷ XVIII, Việt Nam có khoảng 11.800 làng xã. Ở mỗi làng thường có một cụm kiến trúc với đình, đền, chùa, miếu... cùng với hàng trăm pho tượng được trưng bày, đã tạo nên bức tranh văn hóa làng xã sống động. Đầu thế kỷ XIX, đình làng bắt đầu mở rộng vào phía Đàng Trong.
Vì là một trung tâm sinh hoạt, một biểu tượng văn hóa trong đời sống người Việt, Đình ở đâu, thì trung tâm làng ở đó, nên xung quanh ngôi Đình thường có những cây đa cổ thụ, để có bóng râm mát. Cây đa cũng là biểu tượng thiêng liêng của một sự trường tồn, chở che cho dân làng. Với lối kiến trúc cổ kính, Đình làng được dựng lên bằng những cột lim tròn, to và thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Từ kỹ thuật ghép mộng, phân lực lên các chân cột, đến những nét điêu khắc tinh xảo của nghệ thuật truyền thống, đã tạo nên sự uy nghiêm của một nơi thờ thần thành Hoàng (người thành lập làng hay có công với làng). Vì là một biểu tượng quyền lực làng, xã, “hộ quốc tỳ dân” (hộ nước giúp dân) nên Đình phải được xây cất bề thế ở nơi cao ráo, thoáng mát, phong quang thuận phong thủy. Đình thường kiến trúc theo chiều ngang, bám chặt xuống đất để tạo thế cân bằng và ổn định, mái Đình lợp ngói múi hài 4 góc có 4 đầu đao cong vút lên như đuôi chim phượng uốn cong, bay bổng trong không gian, trên nóc có song long tranh châu, trên các thanh xà ngang là những bức hoành phi câu đối, các bức chạm khắc tinh xảo, ẩn chứa những huyền tích, những câu chuyện của làng, hay đơn giản là những ước mơ về đời sống mộc mạc của người dân trong làng như Bát tiên, các cô thôn nữ, ông già ngồi đánh cờ... Gian giữa có hương án thờ vị thần của làng, và đặc biệt, trong Đình không thể thiếu một trống cái, để khi cần thì nổi trống (theo nhịp trống ngũ liên), thúc giục người dân về Đình tụ tập.
Làng Bỉ được nhen nhúm hình thành từ khoảng giữa thế kỷ thứ XVII (Năm 1657), giai đoạn nhiễu nhương của xã hội và cũng là thời kỳ nở rộ của Đình làng. Mặc dù làng Bỉ là một làng thuần Công Giáo, và số lượng người quá ít, nhưng vẫn có một ngôi Đình, được kiến trúc theo lối cổ, cột bằng gỗ lim, mái ngói đỏ. Đình nằm ở phía bên phải, từ cổng chính đi vào. Đây là nơi tập trung mọi sinh hoạt của làng, từ hội họp cho tới các buổi liên hoan [1].
Sau biến cố 1954, một số người dân tản cư khắp nơi bắt đầu trở về xây dựng lại cơ đồ. Vì làng Bỉ là nơi đất rộng, người thưa, lại có sông Máng cung cấp nước cho ruộng vườn, rất thích hợp cho nghề nông, nên nhiều người dân khắp nơi, đã kéo về đây lập nghiệp, tạo nên những khu dân cư mới. Khi đời sống người dân đi vào ổn định, cũng là lúc cần có "món ăn tinh thần", là những sinh hoạt văn hóa truyền thống. Từ nhu cầu trên, Đình làng được tái tạo ngay trong khu sinh hoạt của làng.
Tháng 6.2017, Đình làng được khởi công xây dựng bằng tiền quyên góp khắp nơi, tới tháng 3 năm 2018 thì hoàn thành, và Hội Xuân 2019 lần đầu tiên được tổ chức tại ngôi Đình mới trong khuôn viên sinh hoạt của làng.
Đình làng Bỉ thuộc loại "sinh sau đẻ muộn" (2018), nên "chưa" thuộc loại di tích, nhưng cũng không kém phần trang trọng, uy nghiêm. Đình được kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, mái ngói 5 gian. Các cây cột, kèo, đà, hay con chồng, quá giang cho tới hoành dui tàu mái... tất cả đều được kết cấu bằng bê tông cốt thép và sơn vân giả màu gỗ như gỗ thật. Phía trước Đình là khoảng sân rộng, một lư hương bằng đá lớn và 2 cây hương đá, với nét chạm trổ tinh xảo, được đặt ngay trước cửa, tạo thêm sự bề thế của tiền Đình.
Bước vào bên trong Đình, tràn ngập màu sắc sơn son thếp vàng, tạo nên vẻ uy nghiêm của một nơi thờ phượng. Ngay chính giữa gian Tiền Tế là một bức Hoành Phi Đại Tự với 4 chữ: Thượng Đẳng Tối Linh, một biểu tượng tôn kính nhất dành cho Thành hoàng (chữ Hán: 城隍) là vị thần được dân làng tôn thờ. Cũng như các Đình làng Việt Nam khác, vị thần này là chủ tể trên cõi thiêng của làng, và là thần hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay tại làng Bỉ. Bên cạnh bức Hoành Phi Đại Tự, được phụ họa bởi 2 Câu đối bán nguyệt, kiểu lòng máng ốp cột, ca ngợi công đức của Thành Hoàng: Đức đại an dân thiên cổ định - Công lao hộ quốc vạn niên trường. Cây đức mà ngày xưa tổ tiên đã vun trồng sẽ đươc con dân lưu vạn cổ, cũng như những công cao hộ quốc, giữ nước sẽ rạng danh ngàn thu. Ở giữa 2 câu đối là Đình Thờ với bộ Ngũ Sự gồm Đỉnh thờ ở chính giữa, bên cạnh là đôi chân nến, và đôi hạc đứng trên mai rùa (Một biểu tượng của sự cao quý, hiên ngang và trường thọ). Hình ảnh Hạc – Rùa còn là một sự hòa hợp giữa Âm – Dương, có "trời" có "đất", một quy luật tự nhiên mà sinh vật nào cũng cần phải có - theo triết lý của người Á Đông, để đời sống được thăng hoa. Đây cũng là cái hồn, cái thiêng trong đời sống văn hóa từ ngàn xưa của người Việt.
Phía trước Đình thờ là 2 hàng Bát Bửu (chấp kích), tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền của Thành Hoàng [2]. Phía sau gian Tiền Tế là Ngai Thờ (Ỷ Thờ) với 2 chiếc ghế (ngai) sơn son thếp vàng. Hai gian phụ của Tiền Đình có Trống, Chiêng cùng 2 "ông ngựa", Bạch mã và Hồng mã. Mỗi ông ngựa đứng trên 4 bánh xe. Trong đời sống của người Việt, thì ngựa là biểu tượng cho sự thông minh, nhanh nhẹn và trung thành, đồng thời ngựa cũng là biểu tượng của tài lộc, thịnh vượng và thành công. Ở trong Đình, thì ngựa còn là biểu tượng của sức mạnh. Ngựa không chỉ là hình tượng của nghệ thuật, mà nhiều nơi đã thần thánh hóa bằng những huyền thoại như một con vật linh thiêng của Thành Hoàng và được phụng thờ.
Nhìn chung, Đình làng Bỉ là một sự kết hợp hài hòa về mỹ thuật, kết cấu chặt chẽ về tổng thể, đã tạo nên một cảnh quan sinh động. Ở đây, không có nốt nhạc "chõi" trong bản nhạc êm đềm của làng quê. Dù Đình đơn sơ nhưng cũng nói lên được sự trân trọng của con dân với Thành Hoàng. Với cây đa bóng mát, được cụ Trần minh Kha trồng và chăm sóc từ năm 2014. Đình làng Bỉ còn là một địa điểm chính của làng trong những dịp lễ hội, nhất là vào những ngày đầu Xuân. Dưới hàng cờ ngũ sắc tung bay, các cụ bà đến Chùa cầu kinh (hội Chùa), các cụ ông đến Đình tế lễ (hội Đình). Tại sân đình, là nơi con dân làng tụ họp về để vui Xuân với các trò chơi như: Tổ tôm điếm, thi đấu bóng chuyền, thẩy cổ chai, bịt mắt bắt dê hay hát quan họ... Phần quan trọng nhất không thể thiếu là nghi lễ Tế đương cảnh Thành hoàng bản thổ đại vương Tối Linh Tôn Thần. Các cụ ông trong Hội Hương Lão Đình, với khăn đống áo dài, cùng với của lễ gồm hương hoa trà quả, mâm đầu heo, mâm xôi gà... đại diện cho 162 hộ cùng đồng gia môn quyến của trên 700 nhân khẩu, tề tựu về Đình Làng đẳng chí tâm kính lễ Thành Hoàng cùng chư vị.
------------------------
Ghi chú:
[1] Bà nội tôi, cụ Nguyễn Thị Ích (1893-12.11.1989, thọ 96 tuổi) là vợ cụ Chánh Nguyễn Văn Diễn, thường hay kể cho con cháu nghe về ngôi đình của làng trong những lần sinh hoạt, hội họp.
[2] Bộ Bát Bửu hay Bộ Chấp Kích: Đây là thói quen trang trí trong các nơi thờ tự của người Trung Hoa, và du nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ XVII, nhưng mãi cho tới thời Nguyễn thì mới nở rộ. Đây là lối trang trí thể hiện sự uy nghi, trang nghiêm của không gian thờ tự. Nếu đặt ở nơi quan quyền thì gọi là Bộ Chấp kích (Bộ binh pháp), gồm 8 (bát bửu) loại vũ khí khác nhau: mâu, đao, thương, kích, chấp, chùy, trượng, mác tượng trưng cho sức mạnh, quyền lực (còn được gọi là lỗ bộ). Nếu đặt ở nhà Chùa thì gọi là Bát Bửu, gồm: lá đề, tù và, tàn lọng, cờ, hoa sen, nậm nước cam lộ, cá và dây kết nút; hoặc: bánh xe pháp, tù và ốc, tàn lọng, hoa sen, chữ “vạn”, độc lư bốn chân, dây kết nút. Ngoài ra, tùy theo tín ngưỡng của mỗi địa phương, còn có các loại Bát Bửu như Quyển sách, Đàn, Quạt, Khánh hoặc lẵng hoa, ô trám, sáo, tù và, bầu rượu,… Ngôi chùa đầu tiên tại Việt Nam trưng bát bửu là Chùa Bút Tháp tại huyện Thuận Thành, Bắc Ninh.
Toàn cảnh Đình làng Bỉ trong ngày Hội Xuân Kỷ Hợi 2019 (Hình ảnh: Người Sông Máng)