A. Giáo xứ Bỉ Nội
Giáo xứ Bỉ Nội thuộc Hạt Bắc Giang, Giáo phận Bắc Ninh, nằm cách Tòa Giám Mục Bắc Ninh 24 km về hướng bắc
Giáo xứ Bỉ Nội thuộc Hạt Bắc Giang, Giáo phận Bắc Ninh, nằm cách Tòa Giám Mục Bắc Ninh 24 km về hướng bắc
Trước thời điểm tháng 9 năm 1949, (năm "Tiêu thổ kháng chiến") [1], Làng Bỉ là một làng thuần Công Giáo, có lối sinh hoạt và tổ chức chặt chẽ của một tôn giáo theo chiều dọc từ trên xuống. Tuy nhiên, về mặt chính quyền, làng cũng có những chức sắc theo hệ thống chính quyền đương thời. Người có chức sắc cao nhất trong làng là Lý Trưởng [2], và cũng là viên chức thấp nhất của chính quyền. Đây là một chức danh do đại diện dân làng bầu ra, không phải do Triều đình bổ nhiệm nên không được nhận lương bổng từ Triều đình. Lý trưởng là sợi giây liên lạc giữa thôn làng và chính quyền, có nhiệm vụ quản lý sổ sách, đinh điền, thu sưu thuế, đốc thúc việc đê điều, đường sá... Bên cạnh Lý trưởng có Hương trưởng (Trưởng thôn), phụ trách việc cai quản đôn đốc tuần phu đi tuần canh phòng, canh gác, giữ gìn an ninh trong làng. Vì là làng “thuần Công Giáo”, và trong phạm vi nhỏ hẹp, nên Làng Bỉ và xứ Bỉ Nội là một, chuyện của làng là chuyện của xứ, chuyện của xứ là chuyện của làng, tiếng nói của vị Linh mục Chánh xứ luôn luôn được tôn trọng ở vị trí cao nhất.
Cồng làng Bỉ, năm 1995 (Ảnh: NgNgọcHướng)
Cánh đồng làng Bỉ (năm 1995)
Cây đa trước cổng làng Bỉ, và Đội trắc thiếu nhi trong ngày đón Linh Mục Nguyễn Văn Kinh về dâng Thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ mới, sau 50 năm dùng kho thóc làm nơi thờ phượng , năm 1995. (Ảnh NgNgọcHướng)
Thánh Giá trên núi Đài, nơi đã từng là Chặng Thứ 12 (Chúa sinh thì) của 14 Đàng Thánh Giá. (Ảnh Tuyết Lan, 2020)
Trải qua nhiều giai đoạn quản nhiệm của các Linh mục, từ việc san phẳng một quả đồi để làm nhà thờ, xây dựng khu nhà chung, kho thóc, chăn nuôi... đến việc xây cổng, đào hào đắp lũy, dẫn thủy nhập điền, hay xa hơn nữa là mở đồn điền ở Kim Sa, Kim Sơn, khai khẩn đồng hoang để cày cấy ở tận xã Ngọc Nham... đã cho thấy làng Bỉ (Giáo xứ Bỉ Nội) là nơi có tổ chức qui mô, chặt chẽ. Khi những sinh hoạt càng nhiều, càng nhộn nhịp, thì cũng là lúc sự năng động sáng tạo của mỗi cá nhân được phát triển, từ đó, Làng Bỉ trở thành một “khuôn mẫu” cho những làng khác nương theo.
Các linh mục quản nhiệm giáo xứ theo thời gian:
(tóm tắt từ cuốn Bỉ Đường Hương Phả của ông Nguyễn Ngọc Thuyết)
Cha Khang: Người đầu tiên về mở xứ. Với hàng hoạt công trình được xây dựng bằng công sức của Cha và giáo dân. Một quả đồi được san phẳng để xây nhà thờ bằng gỗ lim, 7 gian, mái ngói đỏ, cũng như xây khu vực nhà chung theo lối cổ truyền Á Đông, nhà cho thợ thuyền, nhà xay giã gạo, chuồng gia súc, kho chứa thóc, rơm rạ, ao thả cá... Sau này xây lại nhà thờ lớn hơn, và ngôi nhà thờ nhỏ này được chuyển cho Yên Hà làm nhà thờ họ. Ngoài những việc thuộc về tôn giáo, Cha còn "kiêm" luôn việc của một Chánh Hương, như đôn đốc đào hào, đắp lũy chung quanh làng.
Cha Thông: Thay cha Khang về coi xứ, tiếp tục trùng tu.
Cha Binh: Thay cha Thông về coi xứ, tiếp tục trùng tu.
Cha Chiểu: Sinh hoạt giáo xứ trở nên nhộn nhịp hơn, đặc biệt trong các lãnh vực Nguyện ngắm, Dâng hoa, Dâng hạt...
Cha Lượng 1: Thay cha già Chiểu về coi xứ. Bị kẻ gian sát hại trong lúc đi giúp kẻ liệt tại họ Yên Lễ (một họ lẻ thuộc giáo xứ Bỉ Nội). Thi thể Ngài được an táng tại Thánh đường Giáo xứ Bỉ Nội.
Cha Hạnh: Về coi xứ trong giai đoạn đấu tranh của Cụ Đề Thám và Nghĩa Quân Yên Thế phát triển mạnh mẽ. Có rất nhiều giai thoại được nghe kể lại về những liên hệ giữa Cha và cụ Hoàng Hoa Thám. Từ việc cụ đến tham khảo ý kiến với Cha trước khi đến gặp Đức Giám mục Maximino Velasco tại Tòa Giám Mục Bắc Ninh, đến việc cụ xây cổng cho làng Bỉ [3]. Đặc biệt trong lần cụ và nghĩa quân đóng tại khu rừng Cần (gần họ đạo Yên Lễ, một họ lẻ thuộc giáo xứ Bỉ Nội). Quân Pháp được mật báo đến bao vây, và ra lệnh bắt dân làng gánh rơm rạ đến chung quanh rừng để máy bay đến tưới xăng... đốt rừng. Chiều hôm đó, cụ ngửa mặt lên trời cầu xin Đức Mẹ Bầu Cử che chở cho cụ và nghĩa quân thoát nạn, bỗng dưng có cơn mưa kéo đến, cùng với sấm sét, mây đen kịt bầu trời. Nghĩa quân mở đường máu đưa cụ thoát ra khỏi trận lửa của quân Pháp.
Sau biến cố rừng Cần, cụ về lại Làng gặp cha già Hạnh để xin được xây một Thánh đường tại họ Trũng Ngoài để tạ ơn Đức Mẹ. (Cụ Đề Thám là người ở Xã Ngọc Châu, thuộc Tổng Ngọc Cục, xã có 2 làng là Trũng Trong và Trũng Ngoài -Trũng Ngoài là họ lẻ của Giáo xứ Bỉ Nội). Nhà thờ toàn bằng gỗ lim, nhiều tầng, mái ngói đỏ cổ kính, uy nghi. Phía trước Nhà thờ đề 3 chữ "Hoàng Kim Điện". Khi xây xong, dân làng mổ trâu ăn mừng, trong bữa tiệc có cả cụ Đề Thám và Cha già Hạnh. Trong lúc mọi người đang vui vẻ thì quân Pháp kéo đến. Một lần nữa, Cha và dân làng lại đưa cụ ra khỏi làng an toàn.
Cha Lượng 2: Về coi xứ thay cha Hạnh. Khi cha Lượng bị bệnh nặng thì cha già Hạnh cưỡi ngựa từ Phong Cốc lên thăm, giữa đường gặp nạn, người và ngựa bị nước chảy xiết cuốn trôi cả cầu. Khi xứ Bỉ Nội nhận được tin cha già Hạnh qua đời, cũng là lúc người của xứ Bỉ Nội xuống Phong Cốc báo tin cha già Lượng cũng qua đời. Thi thể của cha Lượng 2 hiện đang an nghỉ trên nền nhà thờ Giáo xứ Bỉ Nội, ngang hàng với Cha già Lượng 1.
Cha già Đoan: Về coi xứ sau khi cha Lượng qua đời.
Cha Chất: Về coi xứ khoảng năm 1916. Chủ trương phát triển kinh doanh, xây dựng, trùng tu nhà thờ. Năm 1931, Ngài xin Đức Giám Mục địa phận chia cắt một phần của xứ Bỉ Nội để thành lập xứ đạo mới, lấy tên là Tân An. Những họ lẻ này cách xa nhà xứ Bỉ Nội khoảng 10 cây số, bao gồm: các họ Châu Phê, Hồng Lĩnh, Luộc Hạ, Tân An. Cơ sở nhà chung đặt tại Tân An. Ngoài ra, cha cũng là người xin phép Chính Quyền đương thời để đặt cống máng dẫn thủy nhập điền cho khu vực Nhà Chung, cũng như xây dựng cây Cầu Vồng bắc ngang sông Máng (Cả 2 công trình Kè và Cầu Vồng đều do người Pháp xây), đồng thời mua lại một khu đồng hoang của xã Ngọc Nham để khai khẩn. Đặt thêm 3 họ Kim Sơn, Kim Sa và Ngọc Lĩnh. Trong thời gian cha già Chất coi xứ Bỉ Nội, có cha Quế phụ tá. (sau này khi Cha Quế thuyên chuyển thì có cha Phạm Sĩ Ngọc về thay) Cha Chất coi xứ Bỉ Nội đúng 18 năm, 3 tháng, 1 ngày.
Cha Tốn: Khoảng năm 1932, cha về coi xứ Bỉ Nội, chuyên lo việc thờ phượng Chúa và các phép bí tích cho giáo dân. Thày già Khang lo việc ruộng đồng, thày già Tam lo việc kinh hạt, thày giáo Sách và thày giáo Tài coi việc dạy học. Hai năm sau, cha Tốn được lệnh thuyên chuyển về xứ Mốt.
Cha Đoàn Cung Nhượng: Năm 1934 về nhận xứ trước khi cha Tốn chuyển đi. Là một linh mục trẻ đầy nhiệt huyết, có vóc dáng to lớn, khỏe mạnh. Ngài chú trọng đến việc phát triển giáo xứ trong mọi lãnh vực. Tổ chức lại toàn bộ hệ thống sinh hoạt của giáo dân, từ nhà xứ cho đến các họ lẻ. Bên cạnh cha, vẫn có cha phó và các thày phụ giúp: Cha Phạm Sỹ Ngọc trông coi đồn điền của 3 ấp Đức Cha, thày già Khanh trông coi việc đồng ruộng, kinh doanh hai mùa. Năm Ất Dậu 1945, toàn khu vực lâm cảnh lụt lội, mất mùa, dân tình đói kém. Dân chúng miền dưới kéo lên miền trung du để kiếm công ăn việc làm. Nhờ biết dự trữ, xứ Bỉ có kho thóc chung của dân họ, nên nhân cơ hội này, mướn những người đến tìm việc, trùng tu lại nhà thờ. Xây một tháp cao 25 mét, có 4 mái cạnh phía trên, mỗi cạnh được đặt một vị Thánh chép sử, hai bên nhà thờ thu hẹp lại cho cao và đặt máng thượng để nhà thờ được gọn gàng. Bên trong nhà thờ vẫn giữ nguyên những cột gỗ lim tròn, mỗi cột có đường kính 40 cm. Bàn thờ chạm trổ và sơn son thếp vàng.
Một năm sau, Ngài xây lại khu nghĩa trang nhà xứ với tường chung quanh, khang trang sạch sẽ. Tiếp đến là khu vực núi Đài, đây là ngọn núi không cao lắm nhưng nằm trong phạm vi làng Bỉ, ngay phía sau nhà thờ. Trên núi, dựng lại hình ảnh đoạn đường lên núi Sọ ngày xưa của Chúa Giêsu. 14 đàng Thánh Giá được bắt đầu từ chân núi và theo hình xoắn ốc lên tới đỉnh núi. Chặng thứ 12 là nơi Chúa sinh thì, được dựng ngay trên đỉnh núi. Chặng 13 là nơi táng xác Chúa trong mồ, được dựng thành 1 hang đá thật lớn, bên trong có vẽ hình nhiều thiên thần. Vào những dịp lễ lớn, đặc biệt trong mùa thương khó, nhà xứ tổ chức viếng 14 đàng thánh giá, giáo dân xếp hàng chung quanh triền núi trông rất cảm động. Dưới chân núi Đài có hồ thả sen và một nhà làm thư viện để thanh niên tụ họp hoặc sinh hoạt văn nghệ.
Tháng 9-1949, Cha Nhượng và giáo dân phân tán khắp nơi [4], hầu như toàn bộ dân làng kéo nhau về lán Mỏ.
***
Cầu Vồng bắc ngang sông Máng, 1995. Ảnh NgNgọcBích
Chợ phiên làng Bỉ, 1995. Ảnh NgNgọcBích
Làng Bỉ nhìn từ trên núi Đài, 1995. Ảnh NgNgọcHướng
Sau "tiêu thổ kháng chiến", tất cả đã tiêu tan. Còn lại chăng chỉ là những đổ nát hoang tàn. Nhà thờ đã mất, tháp chuông không còn, núi Đài không hang đá. Những hình ảnh sinh hoạt thuở thanh bình của giáo xứ đã in đậm vào từng con tim của mỗi giáo dân, giờ đây chỉ còn lại trong ký ức và nuối tiếc. Ông La Thanh Trí, một con dân làng Bỉ, đã phải nghẹn ngào tự hỏi, đến bao giờ thì rêu phong hết phủ mờ để được thấy lại cái thời của ngày xưa ấy?
Xứ Bỉ quê tôi thuở thái bình
bên dòng sông nhỏ nước trong xanh
cầu Vồng uốn khúc trăng hình khuyết
dân chúng quần cư sống ấm lành
Xứ Bỉ quê tôi thuở thái bình
giáo đường tráng lệ lúc bình minh
tháp chuông nghiêng bóng hoàng hôn xuống
đầy ắp nhà thờ tiếng nguyện kinh
Xứ Bỉ quê tôi thuở thái bình
núi Đền, hang đá chốn quang vinh
Cha Đoàn Cung Nhượng, người xây dựng
để tỏ lòng yêu đấng Thánh linh
Xứ Bỉ quê tôi đến bây giờ
núi Đền, hang đá mãi nằm trơ
làng tôi ước muốn trùng tu lại
nền cũ rêu phong vẫn phủ mờ
Lạy Chúa Trời cao con cúi xin
ban ơn xứ Bỉ mãi tươi xinh
giáo đường dựng lại trên nền cũ
nơi thánh nhân nằm dấu đức tin
(La Thanh Trí)
Theo các cụ cao niên trong Làng kể lại, hồi đó làng Bỉ oai lắm, không những vang dội khắp Tổng Ngọc Cục, mà còn đi xa hơn đến các vùng khác như Hiệp Hòa, Phú Bình, Châu Phê, Hồng Lĩnh, Luộc Hạ, Tân An.... Làng Bỉ là đất nhà võ, được bảo vệ chặt chẽ với những lũy tre xanh và ao cá chung quanh. Phía trước là cổng làng được xây cất kiên cố như một “lô cốt phòng thủ”, phía trên có ghi 3 chữ nôm: Đến Mà Xem. Cổng lúc nào cũng có người canh gác, nhất là từ khi trời tối, thanh niên trong làng chia nhau canh gác nghiêm ngặt. Ngoài cổng có kẻng báo động, trong làng có trống, nhà xứ có chuông, khi có chuyện, kẻng và trống nổi lên thì cả làng ai cũng biết. Cũng vì thế mà bọn cướp không dám đến quậy phá. Chuyện làng Bỉ "đánh cướp" đã được ông Nguyễn Ngọc Thuyết kể lại trong cuốn Bỉ Đường Hương Phả, trang 18, như sau:
"Ngoài thú rừng, người dân làng Bỉ còn phải đương đầu với nhiều đám giặc đến cướp phá. Chuyện kể rằng, vào thời Trung cổ, vì nằm trên tuyến lộ từ phương Bắc xuống Thăng Long (Hà Nội ngày nay), làng Bỉ đã trải qua bao phen phải sống chết với giặc Tầu, tràn sang đốt phá, cướp của hãm hiếp phụ nữ. Thỉnh thoảng lại có giặc ở quanh vùng, như giặc đội Trận, kéo đến cướp phá và còn có ý định tận diệt, đuổi hết người dân ra khỏi làng. Để bảo vệ, làng xóm được an bình, các cụ đã tổ chức tuần tra, canh gác hàng đêm. Trên, dưới đoàn kết một lòng. Đào hào đắp lũy để ngăn chặn người lạ. Ngoài ra, các cụ còn mướn thày về dậy võ cho thanh niên trong làng. Những loại võ còn được lưu truyền đến ngày nay như: Long câu, Gậy bảy, Thiết lĩnh đoạn trường... Các cụ thường kể rằng, khi giặc đến, trống canh được nổi lên liên tục, báo động cho mọi người biết, thế rồi kẻ gậy, người giáo; già, trẻ, lớn bé đều xông ra đánh giặc. Đôi lúc thế giặc mạnh, dân làng còn phải dùng đến chiến thuật "Dịch tiền xạ" để chiếm ưu thế và tận diệt bọn cướp.
Vì làng Bỉ là một làng nhỏ bé, dân ít, rất dễ bị hiếp đáp, nếu thua, chắc chắn bị tiêu diệt. Do đó, người dân hiểu được trách nhiệm của mình mỗi khi giặc đến, họ chỉ một con đường để trường tồn là phải chiến thắng, không thể thua. Sau mỗi trận, bọn giặc kinh hoàng không dám bén mảng trở lại". (hết trích)
Hình ảnh các cụ cưỡi ngựa, khoác khăn choàng đỏ trên vai, dẫn theo một toán thanh niên, khí thế rất oai phong, đi đến đâu bọn cướp khiếp vía bỏ chạy tán loạn, đã là những câu chuyện "kể hoài không hết" về các bậc cha, ông của làng, và thiên hạ nói với nhau rằng: “không đùa với làng Bỉ được”.
Tượng Đức Mẹ trên núi Đài (Chỉ còn lại bệ bằng gạch)
Làng Bỉ tuy nhỏ bé, nhưng cái tình cảm ấm áp che chở lẫn nhau của dân làng không hề nhỏ bé. Với người dân Bỉ Nội, thì cây đa, cổng làng hay sông Máng núi Đài đã là những phên dậu bao bọc tình nghĩa xóm làng, nhất là những lúc khó khăn, trên dưới một lòng để vượt qua. Bà Nguyễn Thị Lựu (Vợ ông Nguyễn Ngọc Thuyết) đã có bài thơ cảm kích:
Quê tôi Bỉ Nội hương đồng
Trước sau sông núi, cầu Vồng bắc qua
Đầu làng giếng nước cây đa
Lối vào uốn khúc, bao la ruộng vườn
Rừng sâu Yên Thế nương quân
Bờ ao hào lũy vây quanh thôn làng
Bao lần chống phá ngoại bang
Làm cho quân giặc tan hoang thất hồn
*
Quê tôi Bỉ Nội hương đồng
Nghĩa làng tình xóm một lòng sát vai
Trải bao cướp phá ngoại lai
Trước, sau, trên, dưới hợp lòng dẹp tan
Nơi đây phần mộ thánh Đa
Đồi cao chuông vọng, ngân nga mỗi ngày
Dù cho lưu lạc bôn ba
Nhớ ngày kính thánh Rosa mà về.
(Nguyễn Thị Lựu)
Ghi chú:
[1] Năm 1949, trong chiến dịch Tiêu Thổ Kháng Chiến, "Phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không lợi dụng được", hầu như toàn bộ con dân làng Bỉ đã di tản về Mỏ Thổ, làng không còn người ở, các xây dựng lớn đều bị phá hủy.
[2] Thời Pháp thuộc: Hương Chánh là người hòa giải tranh chấp nhỏ của người trong làng, đến năm 1927 thì lại thay đổi, gọi là Chánh Hương hội, là người chủ tọa và chấp hành, sau năm 1941 gọi là Lý Trưởng.
[3] Cổng làng Bỉ: Nghe bà nội tôi (vợ cụ Chánh Nguyễn Văn Diễn) nói lại rằng, ông Đề Thám thường hay đi xây Chùa, xây Đình cho các nơi, nhất là những nơi đã từng giúp đỡ ông. Cổng làng mình, cũng do ông Đề Thám giúp để xây nên.
[4] Có hai giả thuyết về sự "mất liên lạc" với Cha Đoàn Cung Nhượng. Giả thuyết thứ nhất: Theo một số cụ hiện còn sống kể lại: Cha Nhượng cùng với một vài giáo dân, kéo nhau lên núi Đài và sống ở trong hang đá, trong số giáo dân có ông Nguyễn Đức Dược (Minh Tít), là người thường xuyên đi mò cua bắt ốc để nấu cơm cho Cha. Tuy nhiên, vào tháng 6 năm 1995, người viết đã có dịp đến núi Đài thì thấy rằng, đây là một ngọn núi thấp (như một quả đồi), lưng chừng núi vẫn có người ở, không thể là nơi ẩn nấp và trên núi Đài hiện không còn hang đá. Ở vào giai đoạn "tiêu thổ kháng chiến", với chủ trương "Phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không lợi dụng được", thì hang đá trên núi Đài cũng là một điểm phải bị phá hủy, đây là 1 hang đá nhỏ, nhân tạo, được xây để làm nơi táng xác Chúa trong mồ (chặng thứ 13 của 14 đàng thánh giá), nên giả thuyết Cha Nhượng "tản cư" lên núi Đài là không chính xác. Giả thuyết thứ hai: Cũng có người nói rằng, Cha Đoàn Cung Nhượng đã "bị triệu hồi" về Tòa Giám Mục Bắc Ninh vì đã không di tản cùng với giáo dân. (Thời điểm này Giáo xứ Bỉ Nội có khoảng 1700 nhân danh). Tại Mỏ Thổ, việc kinh sách có Thày Bốn Giuse Nguyễn văn Ngự (sau này là Cha Chánh xứ Bắc Hòa, Hố Nai), đứng ra đảm trách. Ở vào giai đoạn này, vấn đề thông tin liên lạc giữa làng cũ (làng Bỉ) và làng mới (Mỏ Thổ) rất bị giới hạn.
Để tìm hiểu về nguồn gốc của Giáo xứ Bỉ Nội, chúng ta hãy trở về Giáo Phận Bắc Ninh:
Nguồn : GiaDinhBacNinh.Com
Năm 1659: Tòa Thánh thành lập 2 giáo phận đầu tiên là Đàng Trong và Đàng Ngoài. Khi Tòa Thánh thành lập giáo phận Đàng Ngoài thì vùng đất Bắc Ninh đã có cứ điểm truyền giáo như Kẻ Roi, Kẻ Nê, Kẻ Mốt...
Năm 1679: Tòa Thánh chia "giáo phận Đàng Ngoài" thành hai giáo phận, "giáo phận Đông" (Hải Phòng) và "giáo phận Tây" (Hà Nội), vùng đất Bắc Ninh thuộc "giáo phận Đông", Đàng Ngoài. Lúc đó có 32 nhà thờ với 3.317 giáo hữu; năm 1712 số giáo dân tăng lên là 4.516, được các cha dòng Tên và sau đó là các cha Đa Minh coi sóc.
Năm 1848: Đức Piô IX chia "giáo phận Đông" Đàng Ngoài thành hai giáo phận, "giáo phận Trung Đàng Ngoài" và "giáo phận Đông Đàng Ngoài" gồm các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc và một phần thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang.
Ngày 29-5-1883: Để việc truyền giáo được phát triển, Tòa Thánh thành lập thêm một giáo phận mới tách từ giáo phận Đông, đó là giáo phận Bắc, tức là giáo phận Bắc Ninh ngày nay, gồm các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, một số huyện của các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội.
1883-1902: Đức cha Antonio Colomer Lễ là vị Giám mục tiên khở cho "giáo phận Bắc", lúc ấy giáo phận mới có 17 linh mục triều (Việt), 2 linh mục dòng Đa Minh, 3 thừa sai người Tây Ban Nha, 15 đại chủng sinh, 22 tiểu chủng sinh, 50 thầy giảng, 8 chị em dòng Mến Thánh Giá và 35.000 tín hữu trong 11 giáo xứ và 28 giáo họ. Năm 1892 xây nhà thờ chính tòa Bắc Ninh.
Năm 1893, sau 10 năm: giáo phận Bắc có 2 Giám mục, chính là Đức Cha Lễ và phó là Đức Cha Khâm, 6 Cha dòng Đa Minh, 26 Linh mục Việt, 41 Thầy giảng, 8 Đại chủng sinh, 26 Tiểu chủng sinh, 41 Nữ tu dòng Ba, 23 ngàn 765 giáo dân trong 15 hạt, 160 giáo xứ và họ đạo, 140 nhà thờ.
1902-1925: Thời Đức cha Maximin Valasco Khâm làm Giám mục: Năm 1902 xây dựng Đại chủng viện Thánh Tôma tại Đạo Ngạn và tiểu chủng viện ở Kẻ Nê.
Ngày 30-12-1913, Tòa Thánh tách một phần đất thuộc Giáo phận Bắc để thành lập Phủ doãn Tông tòa Lạng Sơn.
Năm 1924, "giáo phận Bắc" được Tòa Thánh đổi tên gọi là "giáo phận Bắc Ninh", theo địa danh nơi đặt tòa Giám mục. Năm 1925 Đức cha Khâm qua đời, thọ 74 tuổi,
1924-1931: Đức cha phó Théodore Gordaliza Phúc lên kế vị. Năm 1928, ngài thành lập xứ Bắc Kạn và năm 1930, ngài giao cho cha Millax xây nhà chung và nhà thờ Bắc Kạn. Ngài qua đời ngày 14-10-1931.
1932-1947: Ngày 6-11-1932, Tòa Thánh bổ nhiệm thừa sai Eugène Artaraz Chỉnh làm Giám mục hiệu tòa Cotenna.. Năm 1939, giáo phận Bắc Ninh có 15 linh mục dòng Đa Minh, 66 linh mục triều, 120 thầy giảng, 20 đại chủng sinh, 66 tiểu chủng viện, 12 nữ tu Phaolô, 118 dì phước Đa Minh, 54.807 giáo dân, 800 dự tòng trong 7 giáo hạt, 47 giáo xứ, 312 giáo họ, 210 thánh đường.
Ngày 31-12-1946, quân Pháp đến Bắc Ninh đưa Đức cha và một số thừa sai Tây Ban Nha về Hà Nội. Tháng 7-1947, Đức cha đi Roma yết kiến Đức Thánh Cha Piô XII, sau đó về Tây Ban Nha và qua đời ngày 21-12-1947.
1947-1950: Vì chiến tranh, Giáo phận Bắc Ninh bị phân đôi. Thời Trống Tòa (Sede vacante).
Đức Cha Đaminh Hoàng văn Đoàn
Giám mục Bắc Ninh 1950-1955
Đức Hồng Y Phaolô Phạm Đình Tụng
Giám mục Bắc Ninh 1963-1994
Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến
1950-1955: Đức cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn là giám mục Việt Nam đầu tiên coi sóc giáo phận Bắc Ninh. Trước khi thụ phong Giám mục vào ngày 12-3-1950 Ngài là Linh mục dòng Đa Minh. Ngài là lập lại Chủng viện Antôn Ninh Đạo Ngạn (bị giải tán từ năm 1947), xây toà giám mục, trường trung học Vinh Sơn Liêm, nhà in Chân phúc Cẩm và cử 8 cha trẻ đi du học.
Năm 1954, Giáo phận Bắc Ninh có 68 linh mục triều (8 du học), 12 linh mục dòng Đa Minh, 28 đại chủng sinh, 62 giáo xứ, 413 nhà thờ và 68.000 giáo dân.
Sau hiệp định Genève năm 1954, 47 linh mục và tất cả chủng sinh và gần 40.000 giáo dân di cư vào Nam. Ở lại giáo phận chỉ có 14 linh mục hầu hết già yếu, 12 thầy giảng, 11 dì phước Đa Minh và khoảng 30.000 giáo dân.
Năm 1955, Đức cha Đa Minh Hoàng văn Đoàn bị tai nạn phải đi Hồng Kông chữa bệnh, ngài bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Văn Lộc làm Tổng Đại diện, cha Đa Minh Đinh Huy Quảng làm cha xứ nhà thờ chính toà. Sau khi chữa bệnh thì Ngài về Việt Nam nhưng ở miền Nam. Ngày 18-1-1963 Ngài được bổ nhiện làm giám mục giáo phận Quy Nhơn, qua đời ngày 20-5-1974.
1956-1963: Giáo phận Bắc Ninh không có giám mục, Đức cha Phêrô Khuất Văn Tạo (Giám mục Hải Phòng) làm giám quản tông toà giáo phận Bắc Ninh. Thời gian này, ngài chỉ về kinh lý và ban phép Thêm sức được hai lần vào cuối năm 1956 và đầu năm 1957.
1963-1994: Năm 1963, Toà Thánh bổ nhiệm cha Phaolô Phạm Đình Tụng, Giám đốc Tiểu chủng viện Gioan Hà Nội, làm giám mục Bắc Ninh. Ngài thụ phong giám mục ngày 15-8-1963, về nhận giáo phận ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi 5-10-1963. Trong hoàn cảnh rất ít linh mục, Đức cha đã xây dựng, củng cố Ban Hành giáo, sáng lập Tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất, sửa và cho in Kinh bản giáo phận Bắc Ninh, cổ vũ lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa. Tổ chức và kỷ niệm Bách Chu Niên giáo phận (1883-1983).
Năm 1983, đại lễ mừng 100 năm thành lập Giáo phận Bắc Ninh (1883-1993).
Ngày 25-9-1989, Đức cha Phạm Đình Tụng nhận thêm trách nhiệm giám quản giáo phận Hà Nội, Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến nhận chức giám mục phó giáo phận Bắc Ninh.
Năm 1994, Đức cha Phạm Đình Tụng chính thức thuyên chuyển về làm tổng giám mục giáo phận Hà Nội, và vinh thăng Hồng y ngày 26-11-1994.
1994-2006: Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến được bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Bắc Ninh. Ngày 23 tháng 9 năm 2006, trong lúc đang được chữa trị bệnh ung thư tại Hoa Kỳ, Đức cha Giuse Maria qua đời vào lúc 4 giờ 58 chiều tại bệnh viện Providence, thành phố Portland, tiểu bang Oregon, USA , hưởng thọ 61 tuổi. Đức cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến sinh ra tại xứ Đại Lãm, là vị giám mục giáo phận Bắc Ninh đầu tiên sinh ra từ lòng đất mẹ của giáo phận. Thi hài của Đức cha Giuse Maria đã được an táng bên tay phải trong lòng nhà thờ chính toà Bắc Ninh.
23/9/2006-7/10/2008: Giáo phận trống tòa vì chờ đợi giám mục mới đưọc bổ nhiệm, trong thời gian 2 năm trống tòa này, việc hành chính nội ngoại đã được 2 cha đại diện Giuse Trần Quang Vinh và cha Giuse Nguyễn văn Kinh thay phiên nhau đảm nhiệm dưới sự giám quản của Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, tổng giám mục Hà Nội. Trong thời gian này giáo phận có 43 linh mục, 268 nữ tu và 39 chủng sinh.
Đức tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, Giám quản Bắc Ninh 2006-2008,
và 2 Linh mục đại diện Giuse Trần Quang Vinh và Đaminh Nguyễn Văn Kinh
7/10/2008: Ngày 4 tháng 8 năm 2008, Đức thánh cha Benađictô bổ nhiện linh mục dòng Tên Cosma Hoàng Văn Đạt làm Giám mục giáo phận Bắc Ninh. Cha Cosma Hoàng Văn Đạt sẽ chính thức được tấn phong Giám mục ngày 7 tháng 10 năm 2008 tại nhà thờ chính tòa Bắc Ninh.
<--- Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Giám mục Bắc Ninh 2008 đến hiện nay
LM. Cosmas Hoàng Văn Ðạt (29.5.2008)
Nguồn : GiaDinhBacNinh.Com
Cách đây đúng 125 năm, ngày 29.5.1883, Tòa Thánh cho thành lập giáo phận Bắc Ninh. Hôm nay, trong ngày lễ ấm cúng tại nhà thờ Chính Tòa Bắc Ninh, chúng ta vừa nghe lời Chúa mời gọi ca ngợi và tạ ơn về những gì Chúa đã thực hiện cho chúng ta. Tôi rất hân hạnh và vui mừng được cùng với cả cộng đoàn ôn lại những năm tháng đã qua để nhận ra trái tim và bàn tay của Thiên Chúa dành cho giáo phận, và hướng nhìn đến những năm tháng sắp tới để tin tưởng nhìn vào tương lai. Tôi là một đứa con lưu lạc của giáo phận, nên không có tham vọng nói được hết mọi điều cần, chỉ xin chia sẻ một vài tâm tình đơn sơ.
1. Năm 1627, khi hai thừa sai Dòng Tên lần đầu tiên là cha Pedro Marques và cha Alexandre de Rhodes (quen gọi là cha Ðắc Lộ) đặt chân đến Cửa Bạng Thanh Hoá rồi đến Hà Nội, chắc chắn lúc ấy trên phần đất giáo phận Bắc Ninh hiện nay chưa có một người công giáo nào. 32 năm sau, khi Tòa Thánh thiết lập 2 giáo phận đầu tiên của Việt Nam là Ðàng Trong và Ðáng Ngoài, sử sách ghi nhận đã có một số giáo dân ở Kẻ Mốt (xứ Ðức Trai), Kẻ Nê (xứ Tử Nê) và Kẻ Roi (xứ Xuân Hòa). 20 năm sau nữa, khi giáo phận Ðàng Ngoài được chia thành hai là giáo phận Ðông (Hải Phòng) và giáo phận Tây (Hà Nội), thì trên phần đất của giáo phận Bắc Ninh hiện nay đã có 3317 giáo dân và 32 nhà thờ, do các cha Dòng Tên coi sóc. Vào ngày giáo phận được thiết lập, có 35 ngàn giáo dân trong 11 xứ và 28 họ, 22 linh mục, 50 thầy giảng và 8 nữ tu Mến Thánh Giá. Hiện nay, giáo phận có 125 ngàn giáo dân trong hơn 50 xứ, hơn 300 họ, do 42 linh mục và một phó tế coi sóc. Theo cách nói của Chúa Giêsu trong Tin Mừng, thì đó là một hạt cải nhỏ đã nảy mầm và lớn lên thành một cây to.
2. Trước khi giáo phận được thiết lập, hai trận siêu bão trong thế kỷ XIX mang tên Minh Mạng và Tự Ðức tưởng chừng đã tiêu diệt được cây non ấy từ trong trứng nước, nhưng trái với điều loài người tính toán, Thiên Chúa đã biến sự dữ thành sự lành, đã hội nhập ác tâm của con người vào trong kế hoạch yêu thương.
Năm 1838, ngày lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, quan quân triều đình bao vây xứ Kẻ Mốt, bắt cha Phêrô Nguyễn Văn Tự, Dòng Ðaminh, 42 tuổi cùng với thầy giảng Ðaminh Bùi Văn Úy, 26 tuổi, và 3 giáo dân trẻ. Ðó là 3 thanh niên nghèo quê ở Thái Bình đến Kẻ Mốt làm thuê. Anh Tôma Nguyễn Văn Ðệ 27 tuổi là thợ may, sinh ra và lớn lên trong gia đình công giáo. Chính anh dìu dắt 2 bạn đồng hương đến với Chúa. Anh Augustinô Nguyễn Văn Mới, 32 tuổi, là nông dân, sinh ra và lớn lên trong gia đình lương dân, đã theo đạo tại Kẻ Mốt. Anh Têphanô Nguyễn Văn Vinh, 25 tuổi, cùng là nông dân, sinh ra và lớn lên trong gia đình lương dân, thường đi đọc kinh dự lễ nhưng chưa được rửa tội. Cả 5 cha con bị giam tại Lương Tài. Thầy giảng Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu, 38 tuổi, ở họ Nội xứ Kẻ Mốt, đến Lương Tài để dò hỏi tin tức 5 cha con thì bị bắt. Cả 6 cha con bị đưa lên Bắc Ninh giam chung với cụ trùm Giuse Hoàng Lương Cảnh. Năm ấy cụ 75 tuổi, quê ở làng Vân tỉnh Bắc Giang, suốt đời làm lương y, bị bắt tại bến đò Thổ Hà vào đầu tháng 7. chính trong nhà giam, cha Tự đã rửa tội cho anh Vinh. Vì cả 7 cha con không chịu bước qua Thánh Giá, nên bị kết án tử hình. Ngày 5.9.1838, cha Tự và cụ Cảnh bị xứ trảm. Ngày 19.12.1839, năm chứng nhân còn lại bị xử giảo. Cả 7 chứng nhân đã được tôn phong hiển thánh.
Cuối năm 1859, tức là 20 năm sau, thừa lệnh vua Tự Ðức, quan tổng trấn Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên) triệu tập các đầu mục, tức là những giáo dân đứng đầu các họ đạo trong khu vực đến Bắc Ninh, và truyền lệnh của vua phải xuất giáo. Các ngài từ chối, nên bị đánh đập dã man rồi cho biết sẽ bị giam và đánh đập cho tới khi xuất giáo. Trong hơn 2 năm, nhiều vị "thứ mục", tức là những người giúp việc các họ đạo, cũng bị bắt giam. Do bị tra tấn dã man, một số đã xuất giáo. Có 3 chứng nhân đã chết trong thời gian bị giam giữ và tra tấn. Ngày 4.4.1862, quan tổng trấn Nguyễn Văn Phong ra lệnh chém đúng 100 chứng nhân còn lại, rồi chôn trong hai hố tập thể ở cổng thành. Tiểu đội trưởng Aát, người lương dân, thuộc thành phần đội thi hành án hôm ấy khai: "Quan án sát truyền lệnh cho tôi phải chôn các đầu mục. Khi tới miệng hố mới được đào trước đó không lâu để chôn họ, lính lập tức dùng gươm giáo đâm chém chừng 30 người, nhưng chỉ có 5 hay 6 người bị chém lìa đầu. Lúc ấy viên chánh án ngồi trên cao nói lớn: Ðây là phép nước. Phải truy lùng, trừng trị, tiêu diệt chúng. Ðẩy chúng xuống hố." Ðại đội trưởng Mẫu, cũng người lương dân, cầm đầu cuộc thi hành án hôm ấy cho biết: "Tôi chỉ huy việc chôn họ. Tôi thấy các đầu mục bị trói, nhưng rất hớn hở đến nơi thụ hình. Họ sốt sắng đọc kinh, nhưng tôi không hiểu họ đọc gì, chỉ nhớ họ đọc lớn tiếng và liên tục. Tôi biết rõ việc họ tới nơi thụ hình. Hôm sau, các hố chôn bị voi giày cho bằng, để nếu ai còn sống sẽ chết mau hơn," 100 đầu mục tử đạo là một biến cố lịch sử đông tây kim cổ chưa từng có.
Chúng ta cũng đừng quên cha thánh Phêrô Almato Bình, Dòng Ðaminh, người Tây Ban Nha, từng coi sóc xứ Thiết Nham rồi Tử Nê và Thọ Ninh, cuối cùng đã hy sinh tại Hải Dương cùng với hai thánh giám mục Giêrônimô Liêm và Valentino Vinh tại Hải Dương năm 1861.
Tưởng chừng những biện pháp ghê rợn sẽ làm nhụt chí các tín hữu, nhưng máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh đức tin: giáo phận qua cơn thử thách quyết liệt đã vươn vai lớn mạnh như chú bé huyền thoại làng Phù Ðổng.
3. Gần chúng ta hơn, sau khi giáo phận được thiết lập khoảng 70 năm, một thử thách khác không kém gay go mà các bậc cha anh trực tiếp của chúng ta đã trải qua và vượt qua. Năm 1954, giáo phận có 68 ngàn giáo dân, 62 xứ, 413 nhà thờ, 80 linh mục và 28 đại chủng sinh. Sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, gần 40 ngàn giáo dân cùng với đại đa số các linh mục và tất cả chủng sinh di cư vào nam. Ở lại giáo phận chỉ còn khoảng 30 ngàn giáo dân, 14 linh mục hầu hết già yếu, 12 thầy giảng và 11 nữ tu Ðaminh. Trong tình trạng chiến tranh, và thời bao cấp, hoạt động của các linh mục bị hạn chế tối đa. Ðã vậy các chủng viện lại bị đóng cửa. Có lúc giáo phận chỉ còn 1 hay 2 linh mục. Trong gần 30 năm, Ðức cha Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng, nay là Hồng Y, không thể đi thăm các xứ họ, đã dâng lễ trong một phòng diện tích chưa đầy 8m2. Tại đây, ngài đã âm thầm truyền chức cho một số linh mục trong và ngoài giáo phận, và cả đến phong chức giám mục cho đức cha Ðaminh Quảng của Bắc Ninh và đức cha Vinhsơn Dụ của giáo phận Lạng Sơn.. Thiếu linh mục, ngài đào tạo giáo dân lãnh đạo các xứ họ, kêu gọi các cô tận hiến (nay là Tu Hội Hiệp Nhất) tiếp sức. Ngài soạn các kinh và giáo lý Kinh Thánh bằng văn vần để giáo dân dễ nhớ và trẻ em dễ học. Chính đức cố giám mục Giuse Maria trong một thời gian phải hằng ngày đạp xe rời làng trước khi trời sáng, đi 30 km đến toà giám mục để học, rồi lại đạp xe về khi trời đã tối. Mọi sinh hoạt được tập trung tại Tòa Giám Mục. Có những giáo dân nhiều khi phải đi tàu lửa đến ga Yên Viên rồi đi bộ 20km đến Bắc Ninh dự lễ. Có những người phải đạp xe hàng trăm cây số để được xưng tội hay làm phép cưới. Có những giáo dân phải dùng xe cải tiến đi 70 km chở củi trong đêm tối đến giúp Tòa Giám Mục có chất đốt. Năm 1993, khi tôi đến thăm một họ ở huyện Sóc Sơn, ông trùm đã khóc và cho biết: "Từ tạo thiên lập địa đến nay mới có một cha đặt chân đến đây!" Cũng vào thời điểm ấy, tôi hỏi một nhóm thanh niên nam nữ ở một họ trong tỉnh Bắc Ninh: họ không biết truyện người con hoang đàng hay truyện người Samari nhân hậu Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng. Ðã có nhiều người do nhu cầu kinh tế hay vì yếu đuối đã xa nhà thờ, đã rối hôn nhân, đã không dám giữ đạo công khai. Chỉ Thiên Chúa mới biết hết được bao nhiêu cố gắng và hi sinh đến mức anh hùng của hàng ngàn hàng vạn tín hữu, giáo dân cũng như giáo sĩ và tu sĩ để giáo phận vững bước và tiến lên trong những năm tháng khó khăn ấy.
Ðứng về mặt tự nhiên, tình trạng thật bi đát. Nhưng một cây trụi lá như vậy, với quyền năng của Thiên Chúa, vẫn có thể hồi sinh. Và cây ấy đã thực sự hồi sinh. Ðó là một cây được trồng bên bờ suối, nên trổ sinh hoa trái đúng mùa.
3. Chín triệu dân sống trên khu vực gần 25 ngàn km2, đó là tình hình giáo phận Bắc Ninh hiện nay. Công cuộc truyền giáo đã có những kết quả nhất định, nhưng cánh đồng truyền giáo vẫn còn mênh mông. Theo tiêu chuẩn quốc tế bình thường, giáo phận còn thiếu 80 linh mục. Có thể 10 năm nữa giáo phận mới đạt tới tình trạng bình thường là xứ nào cũng có cha coi sóc. Ngoài ra, giáo phận còn thiếu những chuyên gia về Kinh Thánh, về Giáo Luật, về Phụng Vụ, về Thần Học... Bao giờ tất cả các nhà thờ hư hỏng được sửa chữa? Bao giờ thì giáo họ nào cũng có một ngôi nhà thờ để họp nhau cầu nguyện? Bao giờ thì tuần nào cũng có thánh lễ trong tất cả các nhà thờ của giáo phận? Bao giờ thì các cha được nghỉ cuối tuần và nghỉ hè? Bao giờ giáo phận có những cơ sở nuôi dưỡng những người bất hạnh? Bao giờ tỉ lệ tín hữu hiện nay là 1.38 % được nâng lên thành 2%? Những câu hỏi như vậy tuy thật khiêm tốn nhưng vẫn còn khá xa vời.. Phaolô trồng cây, Apollo tưới cây, Thiên Chúa cho mọc lên: tạ ơn Thiên Chúa. Vững tin vào ơn Chúa trong quá khứ, chúng ta hãy can đảm thả lưới theo lệnh Chúa, phần còn lại là làm cho lưới đầy cá nằm ngoài tầm tay của chúng ta, nhưng chính Chúa sẽ bảo đảm. Năm sự vui rồi năm sự sáng, năm sự thương rồi năm sự mừng: đó là qui luật của lịch sử thánh.Giáo phận Bắc Ninh nhận Ðức Mẹ Mân Côi làm Ðấng Bảo Trợ hẳn là nắm vững điều ấy. Ngay trong những lúc gay go nhất, giáo phận đã từng cống hiến những người con ưu tú như thánh linh mục Anrê Dũng Lạc cho giáo phận Hà Nội, thánh linh mục Ðaminh Cẩm cho Dòng Ðaminh. Ngoài ra, giáo phận còn là nơi nương náu cho thánh Giám Mục Giêrônimô Liêm của giáo phận Ðông ở Kẻ Mốt, cho thánh giám mục Valentino Vinh của giáo phận Trung ở Hương La. Chúng ta không chỉ có Thánh Gióng, nhưng còn có Chúa Giêsu, không chỉ có Hai Bà Trưng, nhưng còn có Mẹ Maria, không chỉ có Bà Chúa Kho, mà còn có Mẹ Hội Thánh. Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh và các thánh tử đạo Bắc Ninh là những điểm tựa vững chắc cho toàn thể giáo phận.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, chúng con ngợi khen và tạ ơn Chúa về tất cả những điều kỳ diệu Chúa đã thực hiện cho giáo phận chúng con. Lạy Mẹ Maria, xin giúp giáo phận chúng con vững bước trên con đường của Chúa Giêsu như Mẹ. Lạy thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh và các thánh tử đạo Bắc Ninh, xin cầu nguyện cho cây đức tin Bắc Ninh mà các ngài đã tưới bằng máu, được lớn lên không ngừng. Cùng với cả giáo phận, chúng con xin thốt lên từ đáy lòng: Tên chúng con đã được ghi trên trời, muôn đời chúng con xin ca ngợi và tạ ơn Chúa. Amen.
Bắc Ninh 29.5.2008
LM. Cosmas Hoàng Văn Ðạt