Hiệp định Geneva 1954 tại Thụy Sĩ
Hiệp định Geneva 1954 tại Thụy Sĩ
Tầu há mồm
Tàu USS Montague của Hoa Kỳ đang chuẩn bị đón người di cư tại cảng Hải Phòng
Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Geneva được công bố [1], phân chia Việt Nam thành 2 miền, Bắc và Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, Quảng Trị) làm ranh giới. Dân chúng mỗi bên có quyền di cư sang lãnh thổ do bên kia kiểm soát trong vòng tối đa 300 ngày, dưới sự giám sát của Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình Chiến được thành lập theo điều 34 của hiệp định với đại diện của ba nước Ấn Độ, Ba Lan, và Canada. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Ủy ban di cư được thành lập. Các đường không vận và hải vận nối liền Bắc - Nam cũng được thành lập ngay sau đó, ngày 4 tháng 8 năm 1954.
Theo đoàn người di tản, dân Làng Bỉ đi bộ từ Mỏ Thổ về tập trung tại Hà Nội (khoảng 60 cây số), trước khi tới Hải Phòng để xuống "tầu há mồm" [2] di chuyển vào trong Nam. Trong chuyến đi này, không có cha Đoàn Cung Nhượng vì dân làng Bỉ đã thất lạc với cha từ khi bỏ làng xuống Mỏ Thổ, năm 1949. [3]
Vì số người di cư quá đông, ngoài tầu của Việt Nam, chính quyền Pháp và Bảo Đại phải kêu gọi các nước khác giúp chuyên chở và định cư, bao gồm Anh, Ba Lan, Tây Đức, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Nhật, Philippines, New Zealand, Trung Hoa Dân quốc, Úc và Ý, cùng các tổ chức UNICEF, Hồng Thập Tự, Catholic Relief Services (CRS), Church World Services (CWS), Mennonite Central Committee (MCC), International Rescue Committee (IRC), CARE và Thanh thương Hội Quốc tế.
Ngày 9 tháng 8 năm 1954, Phủ Tổng ủy Di cư Tỵ nạn được thành lập ở miền Nam, ở cấp một Bộ trong Nội Các, với ba Nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư cho đồng bào. Thêm vào đó là Ủy ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.
Trên 1 triệu người dân từ miền Bắc đã di cư vào Nam (phần lớn là người Công Giáo), và 140.000 người từ miền Nam di chuyển ra Bắc (phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Minh). Với gần 310.000 người được đưa đến miền Nam bởi Hải quân Hoa Kỳ, và 500.000 người bởi quân đội Pháp. Riêng đường hàng không thì có 213.635 người đã được di chuyển vào Nam. Chuyến tàu thủy cuối cùng của cuộc di cư cập bến Sài Gòn vào ngày 16 tháng 8 (sau 3 tháng gia hạn thêm). Bên cạnh đó, còn có 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để vào Nam [4]. Chỉ riêng người Công Giáo tại Giáo phận Bắc Ninh di cư vào Nam đã lên tới con số gần 40,000 giáo dân và khoảng 65 linh mục. [5]
Khi vào đến Saigon, người di cư được tập trung về Vọng Cách (gần trường đua Phú Thọ ngày nay). Giai đoạn này có 42 trung tâm tạm cư, đa số ở trong các lều tạm ở Tân Sơn Nhất và trường đua Phú Thọ , sau đó Phủ Tổng Ủy Di Cư phân chia đồng bào, từng nhóm theo các cha, đi định cư khắp nơi. Là người Công Giáo thì cha ở đâu, con chiên quây quần ở đó. Vì quyến luyến ruộng đồng, một nghề truyền thống của cha ông, hơn nữa trong hoàn cảnh hai bàn tay trắng, nhiều giáo dân đã theo các cha chọn về Cái Sắn, Phước Lý, Hố Nai... là những nơi được biết có nhiều ruộng vườn mênh mông, có thể khởi nghiệp ngay. Riêng số dân làng Bỉ, vì không có cha để đi theo, nên "hòa mình vào đô thành Saigon", và được phân chia về Xóm Mới, là vùng có nhiều người Công Giáo Bắc Ninh được đưa về đây. Trong số này, có khoảng 5-6 gia đình người Làng Bỉ, vì nhầm lẫn, được đưa về Vĩnh Long. Sau khoảng 1 tuần, số gia đình này được Ủy Ban Định Cư đưa trở lại Xóm Mới để đoàn tụ với dân làng tại đây.
Nghe bố tôi kể lại rằng, khi Ủy Ban Định Cư nói đến 2 chữ Xóm Mới thấy cũng hay hay, và rất thích vì đây là vùng "đất mới" và ở gần thành phố, nên đã chọn Xóm Mới để định cư, vì trong thâm tâm kể từ khi rời Làng, bố tôi đã muốn đoạn tuyệt với nghề nông, một nghề bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, mà quanh năm chỉ đủ ăn. Phi thương bất phú là câu nói đã thôi thúc bố tôi cùng với dân Làng quyết tâm bỏ nghề ruộng, để tìm một cánh cửa rộng hơn cho con cháu sau này.
[1]: Hiệp định Genève 1954 là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ để khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương. Hiệp định hình thành sau 75 ngày đàm phán với 8 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập đằng sau các hoạt động công khai. Hiệp định được ký ngày 21 tháng 7 năm 1954 (nguồn: vi.wikipedia.org)
[2] "Tầu há mồm": tiếng Anh: Landing ship, Tank viết tắt là LST, đón người ở trên bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc.
[3] Có hai giả thuyết về sự "mất liên lạc" với Cha Đoàn Cung Nhượng. Giả thuyết thứ nhất: Theo một số cụ hiện còn sống kể lại: Cha Nhượng cùng với một vài giáo dân, kéo nhau lên núi Đài và sống ở trong hang đá, trong số giáo dân có ông Nguyễn Đức Dược (Minh Tít), là người thường xuyên đi mò cua bắt ốc để nấu cơm cho Cha. Tuy nhiên, vào tháng 6 năm 1995, người viết đã có dịp đến núi Đài thì thấy rằng, đây là một ngọn núi thấp (như một quả đồi), lưng chừng núi vẫn có người ở, không thể là nơi ẩn nấp và trên núi Đài hiện không còn hang đá. Ở vào giai đoạn "tiêu thổ kháng chiến", với chủ trương "Phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không lợi dụng được", thì hang đá trên núi Đài cũng là một điểm phải bị phá hủy, đây là 1 hang đá nhỏ, nhân tạo, được xây để làm nơi táng xác Chúa trong mồ (chặng thứ 13 của 14 đàng thánh giá), nên giả thuyết Cha Nhượng "tản cư" lên núi Đài là không chính xác. Giả thuyết thứ hai: Cũng có người nói rằng, Cha Đoàn Cung Nhượng đã "bị triệu hồi" về Tòa Giám Mục Bắc Ninh vì đã không di tản cùng với giáo dân. (Thời điểm này Giáo xứ Bỉ Nội có khoảng 1700 nhân danh). Tại Mỏ Thổ, việc kinh sách có Thày Bốn Giuse Nguyễn văn Ngự (sau này là Cha Chánh xứ Bắc Hòa, Hố Nai), đứng ra đảm trách. Ở vào giai đoạn này, vấn đề thông tin liên lạc giữa làng cũ (làng Bỉ) và làng mới (Mỏ Thổ) rất bị giới hạn.
[4] Tính đến giữa năm 1954 và 1956, trên 1 triệu người đã di cư từ Bắc vào Nam. Theo số liệu của Việt Nam Cộng hòa, đến tháng 10/1955, có 676.348 tín đồ Công Giáo (76,3% tổng số người Công Giáo miền Bắc), 209.132 tín đồ Phật giáo (23,5%) và 1.041 tín đồ Tin Lành (0,2%) di cư vào Nam (https://vi.wikipedia.org)
[5] Năm 1954, giáo phận có 68 ngàn giáo dân, 62 xứ, 413 nhà thờ, 80 linh mục và 28 đại chủng sinh. Sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, gần 40 ngàn giáo dân cùng với đại đa số các linh mục và tất cả chủng sinh di cư vào nam. Ở lại giáo phận chỉ còn khoảng 30 ngàn giáo dân, 14 linh mục hầu hết già yếu, 12 thầy giảng và 11 nữ tu Ðaminh. (trích: Lược Sử Giáo Phận Bắc Ninh -Nhân dịp mừng kỷ niệm 125 năm thành lập giáo phận- của LM. Cosmas Hoàng Văn Ðạt, ngày 29.5.2008. Nay là Giám mục Bắc Ninh từ năm 2008)
Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn - 1955 (Photo by Howard Sochurek)
Phố Catinat (Tự Do -Đồng Khởi), thời 1940-1954
Nhà thờ Đức Bà, Saigon
Đại lộ Bonard (Lê Lợi), thời 1940-1954
Tại bùng binh Nguyễn Huệ & Lê Lợi, 1954
Toà nhà Quốc Hội (Nhà hát lớn Thành phố), thời 1954
Tàu sân bay neo đậu ở cảng Sài Gòn năm 1950.
Saigon 1954: Đường Catinat (Tự Do - Đồng Khởi)
Bùng binh Chợ Bến Thành, năm 1954