Khu nhà lưu niệm tại Yên Thế của Hoàng Hoa Thám
Khu nhà lưu niệm tại Yên Thế của Hoàng Hoa Thám
Tổng hợp từ các nguồn: bacgiang.gov.vn * dulichbacgiang.gov.vn * mobile.coviet.vn * balodi.vn
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế nổ ra vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chống lại thực dân Pháp. Trong suốt gần 30 năm (1884-1913), Hoàng Hoa Thám cùng các nghĩa quân đã lưu lại biết bao nhiêu dấu tích và di tích quý báu đậm nét về phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế trên địa bàn của tỉnh Bắc Giang. Đó là những công trình kiến trúc cổ (đình, chùa, đền, nghè, miếu có niên đại khởi dựng vào thời Lê thế kỷ XVII-XVIII và thời Nguyễn thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) cùng các địa điểm, đồn lũy tạo thành một hệ thống di tích liên hoàn của một vùng quê vốn có lịch sử lâu đời và nổi tiếng về truyền thống thượng võ. Hệ thống di tích này gồm: 08 ngôi đình, 07 chùa, 06 đền, 03 đồn, 01 điếm, 01 nghè, 01 động và 05 địa điểm. Trung tâm Khu di tích lịch sử văn hóa cuộc khởi nghĩa Yên Thế nằm trên địa bàn thị trấn Cầu Gồ, đây là những di tích nguyên gốc có giá trị đặc biệt về lịch sử, đã đươc nâng lên thành Di tích cấp Quốc gia đặc biệt.
Toàn thể khu di tích khởi nghĩa Yên Thế có diện tích nghiên cứu là 23.099,7 ha, bao gồm địa bàn 26 xã, thị trấn của 4 huyện:
Huyện Yên Thế có 10 xã: Phồn Xương, Tam Hiệp, Đồng Lạc, Tân Hiệp, Đồng Tâm, Đồng Vương, Xuân Lương, Hồng Kỳ, Đồng Kỳ và thị trấn Cầu Gồ;
Huyện Tân Yên có 12 xã: Tân Trung, Việt Lập, An Dương, Song Vân, Ngọc Châu, Cao Thượng, Liên Sơn, Phúc Hòa, Phúc Sơn, Quang Tiến, Nhã Nam và thị trấn Nhã Nam;
Huyện Việt Yên có 2 xã: Minh Đức và thị trấn Bích Động;
Huyện Yên Dũng có 2 xã: Nham Sơn và Tân Liễu.
Điểm đặc biệt là Đình Hả, xã Tân Trung, huyện Tân Yên là nơi Lương Văn Nắm, (tức Đề Nắm) Thủ lĩnh đầu tiên của Nghĩa quân Yên Thế đã làm lễ tế cờ tại đây, chính thức phát động cuộc Khởi nghĩa Nông dân Yên Thế 1884 - 1913. Sau khi ông mất, Hoàng Hoa Thám lên thay.
Các di tích gồm có:
Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám ở làng Trũng, xã Ngọc Châu (Tân Yên) nơi sinh sống thời thơ ấu của Hoàng Hoa Thám; Dấu tích của danh nhân Hoàng Hoa Thám, người anh hùng áo vải cùng nghĩa quân Yên Thế từng một thời khiến giặc Pháp khiếp đảm, làng Trũng được coi là quê hương thứ hai và là nơi duy nhất có đền thờ ông.
Quê hương của Đề Nắm, vị thủ lĩnh đầu tiên của phong trào và là nơi Đề Nắm tế cờ khởi nghĩa ngày 15/3/1884 (mốc thời gian mở đầu của khởi nghĩa Yên Thế); Đây cũng là nơi Đề Nắm và dân Yên Thế đánh bại gần 1 vạn quân Pháp.
Nơi nghĩa quân Yên Thế tổ chức Đại hội để bầu ra thủ lĩnh lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm 1888; Đình gồm ba gian hai chái toà tiền đình nối hậu cung hai gian tạo bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh. Các vì mái liên kết đơn giản kiểu vì kèo cánh báng các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc. Trong đình thờ thần Cao Sơn, Quý Minh, Minh Giang Đô Thống, thờ Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế tử trận.
Ngày 17/9 năm 1894, quân của Đề Thám đã phối hợp với công nhân công trường đường sắt Lạng Sơn bắt cóc Chesnay - chủ bút tờ báo “Tương lai xứ Bắc Kỳ” (Avenir du Tonkin) - kiêm thầu khoán công trường đường sắt và Logiou (nhân viên). Qua trung gian của Giám Mục Velasco người Tây Ban Nha, Đề Thám thương lượng với Toàn quyền tạm thời Chavassieur các điều kiện đình chiến và trả tự do cho Logiou lẫn Chesnay, dẫn đến cuộc hòa hoãn lần 1 diễn ra vào tháng 10/1895.
Kết quả là quân Pháp rút khỏi khu vực Yên Thế, giao các tổng Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ, Hữu Thượng cho nghĩa quân kiểm soát. Đề Thám được toàn quyền thu thuế và sử dụng tiền thuế thu được ở 4 tổng đó trong thời hạn 3 năm.
Lễ hội diễn ra ngày 6 tháng Giêng âm lịch và ngày 16 tháng 3 dương lịch với nhiều trò chơi dân gian thể hiện tinh thần thượng võ, khát vọng tự do của người dân Yên Thế như hội thi thả chim, hội thi cưỡi ngựa bắn cung, bắn nỏ, đấu võ dân tộc, đấu vật...
Đây là niềm tự hào của người dân xã Tân Hiệp nói riêng và nhân dân các dân tộc huyện Yên Thế nói chung.
Được xây dựng vào cuối thế kỷ 19, được làm bằng tranh, tre, nứa, lá. Đến năm 1897, Hoàng Hoa Thám cho tu sửa lại ngôi đền có kiến trúc bằng gỗ lim, lợp ngói, gồm tiền đường 3 gian 2 dĩ và hậu cung 2 gian. Nằm trên một ngọn đồi cao, ngay giữa trung tâm khu di tích khởi nghĩa Yên Thế, đây là nơi nghĩa quân cắt máu ăn thề làm lễ xuất quân và cũng là nơi cầu siêu cho các nghĩa sĩ của phong trào.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế kêt thúc, người dân đã đưa tượng của Đề Thám vào đây thờ chung với tượng Phật và từ đó đến nay người dân quen gọi là Đền Thề của nghĩa quân. Ngày nay ngôi đền này cũng đươc coi là nơi linh thiêng nhất của huyện Yên Thế.
Phía sau đền Thề là Nhà trưng bày các hình ảnh và hiện vật của cuộc khởi nghĩa như súng kíp, đạn, gươm, mã tấu... cùng các đồ dùng sinh hoạt như mâm đồng, bình lọ, ấm, chén uống nước... của nghĩa quân. Trước sân nhà trưng bày là tượng đài lãnh tụ nghĩa quân Hoàng Hoa Thám và câu nói nổi tiếng của ông:
“Chúng tôi gắn bó với phong tục của đất nước chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ từ bỏ phong tục ấy dù có phải hy sinh cả tính mạng”.
Đồn Hố Chuối hay còn gọi là “Đồn thần chết” nằm ở thung lũng Hố Chuối. Được xây dựng từ giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Địa hình như một lòng chảo đáy bằng rất kín đáo. Đứng ở ngoài vành đồi, dùng kính viễn vọng cũng không thể nhìn thấy gì ở bên trong. Hoàng Hoa Thám đã chọn địa điểm này để xây dựng hệ thống công sự biến toàn bộ lòng chảo Hố Chuối thành một pháo đài phòng thủ kiên cố.
Sở dĩ mang tên Hố Chuối bởi đồn được xây dựng ở giữa một khu thung lũng lòng chảo đầy cây chuối rừng của vùng núi Hữu Thượng.
Đồn hình chữ nhật rộng khoảng 1 ha, xây đắp theo kiểu thành vô băng, 4 góc thành có tai nhô ra để quan sát và bắn ra, lũy đồn có mũ và lỗ châu mai, có ba cửa. Một cửa thông ra suối Gồ và có thể rút về núi khi cần thiết. Ngoài các hệ thống tường lũy bao quanh, nghĩa quân còn đào hàng loạt hầm chông dày đặc. Đặc biệt, căn cứ lại được cây rừng che khuất khiến cho đồn Hố Chuối trở thành một căn cứ địa bất khả xâm phạm. Vì thế tại đây, vào những ngày cuối năm 1890 đầu năm 1891, nghĩa quân Yên Thế dưới sự chỉ huy của Hoàng Hoa Thám với lực lượng chỉ khoảng 150 người đã liên tiếp đánh bại 4 cuộc tấn công lớn của thực dân Pháp.
Nơi Đề Thám làm lễ tế cờ, chính thức giữ chức thủ lĩnh lãnh đạo phong trào khởi nghĩa Yên Thế năm 1892. Kể từ đây Đề Thám thực sự trở thành thủ lĩnh và linh hồn của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Với tài năng quân sự lỗi lạc của mình, ông đã dựa vào núi rừng để tổ chức nhiều trận đánh gan dạ và táo bạo, làm cho quân Pháp phải bao phen bạt vía, kinh hồn.
Nơi nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp họp ký hòa hoãn lần thứ nhất (1894-1897). Chùa Thông còn là nơi tuyển nạp, luyện tập binh sĩ của nghĩa quân Yên Thế. Các thanh niên được tuyển dụng, đào tạo võ nghệ, sử dụng thành thạo vũ khí cung tên, nỏ, dao, kiếm… để cung cấp cho nghĩa quân. Cạnh chùa còn bãi tập trận của nghĩa quân Yên Thế. Đôi câu đối ở chùa còn ghi:
Phiên âm:
“Bảo Thông Đồng Lạc nghĩa quân tụ nghĩa binh cơ
Trọng đức chiêu hiền dũng mãnh kiên cường phù đại nghĩa”
Dịch nghĩa:
“Đồng Lạc, là nơi nghĩa quân tụ họp lĩnh binh cơ
Nơi đây trọng nghĩa, chiêu hiền được sự dũng mãnh kiên cường phò nghĩa lớn”
Đại bản doanh của Hoàng Hoa Thám được xây dựng trong hai năm 1894-1895. Sau nhiều lần tấn công vào Yên Thế thất bại, cuối năm 1897 Toàn Quyền Đông Dương là Paul Doumer (từ 1897 đến 1902) buộc phải chấp nhận hoà hoãn với nhiều điều khoản do Đề Thám đưa ra. Tranh thủ 13 năm hòa bình (1897-1909), Đề Thám vừa lo củng cố lực lượng quân sự vừa chú trọng phát triển kinh tế- văn hoá, xây dựng vùng Phồn Xương thành “một thế giới riêng biệt...”.
Sử cũ chép rằng, khi về Yên Thế tiếp kiến với Hoàng Hoa Thám, chí sĩ Phan Bội Châu đã ngỡ ngàng, thảng thốt trước Phồn Xương: “… Những người bị khổ sở về chính quyền bạo ngược đều lấy doanh trại của tướng quân Hoàng Hoa Thám làm nơi ẩn trú. Vì thế, người rất đông đúc, tiếng gà tiếng chó rộn vang tựa như một cảnh tân đào nguyên của những bậc lánh đời vậy. Năm nọ, tôi hai lần tới đồn, xem khắp chung quanh, trâu cày từng đội, chim rừng quyện người, đàn bà trẻ con nhởn nhơ tiếng chày rậm rịch, có cái vẻ vui của những ngày đình đám hội hè mà không hề có tiếng thở than về chính quyền bạo ngược và mãnh hổ hại người. Tạo lập được một thế giới riêng biệt, thực là một nỗ lực riêng của tướng quân.. …”.
Đồn nằm trên một quả đồi nhỏ, phía trước là một hồ nước để bảo vệ mặt tiền đồn, đối diện với đền Thề. Đồn rộng khoảng hơn một mẫu, được bao bọc bởi hai vòng lũy, chỗ dày 80cm, cao 4m. Trên thân tường lũy có trổ lỗ châu mai. Đồn có ba cổng: cổng chính hướng đông, cổng phụ ở hướng nam, hướng bắc đều thông vào rừng rậm xung quanh.
Phía sau đồn là doanh trại, chiến lũy của nghĩa quân Đề Thám. Ông đã cho xây dựng ở khu vực này một bát quái trận với nhiều đồn lũy thông nhau, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào…
Căn cứ địa an toàn của cuộc khởi nghĩa, được xây dựng vào giai đoạn giữa của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Căn cứ đồn Hom có một đồn chính và đồn phụ ở ba phía xây dựng trên bốn ngọn núi cao hiểm trở trong dãy Cai Kinh (nay thuộc xã Tam Hiệp). Đồn chính do Đề Thám trực tiếp chỉ huy nằm trên một ngọn đồi cao khoảng 30m về phía đông, phía bên trái đồn chính, qua lũng Nhỏm trên một dải đồi cao là đồn Cả Trọng, bên phải là đồn của Bà Ba. Ba đồn ở thế chân kiềng rất vững.
Tại đây đã diễn ra hai trận chiến đấu nổi tiếng vào tháng 3/1892 và tháng 2/1909. Đặc biệt, chiến thắng vang dội ngày 25/3/1892, đã đưa uy danh của Đề Thám: “lẫy lừng hơn bao giờ hết”.
Nơi chứng kiến nhiều cuộc họp quan trọng giữa thủ lĩnh nghĩa quân với các tướng lĩnh tâm phúc của ông trong thời kỳ (1885-1895), như: Thống Lĩnh (Dương Lâm), Đề Trung (làng Hạ), Đề Thị (làng Thị), Đốc My (Trại Gân), Lãnh Du và Thống Luật (làng Trũng)…bàn kế chống Pháp và thu cấp binh lương, là nơi Cai Hậu đã bí mật cho dân binh đào một hầm ngầm từ hậu cung đình Dương Lâm, xuyên ra bờ ao rậm, rồi đi nơi khác để bảo đảm an toàn cho thủ lĩnh và các tướng lĩnh của nghĩa quân, là ngôi đình mà Đề Thám đã bàn với Cai Hậu chuyển đình từ vị trí ngoài làng (nay được gọi là khu Bãi Đình) về trung tâm làng và tự tay trồng cây Dã Hương trước sân đình làm kỷ niệm. Từ khi đó đến nay đã hơn 100 năm trôi qua, cây Dã Hương đã trở thành cây cổ thụ quanh năm che mát mảnh đất linh cùng với những câu chuyện kể về một thời kỳ lịch sử oanh liệt còn vang mãi trong tâm khảm mỗi người dân nơi đây.
Là trạm tiền tiêu - cơ sở qua lại của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám.
Chùa gồm 5 gian kết cấu khung gỗ lợp ngói mũi xây tường gạch. Trong chùa thờ các tượng Phật. Ngôi chùa này là cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân và nghĩa quân, cũng là nơi tế các hương hồn nghĩa quân vì nước mà hi sinh.
Ảnh: dulichbacgiang.gov.vn
Trong những lần đánh nhau với nghĩa quân Yên Thế ở Hố Chuối (1890-1891), làng Lèo và cả chùa Lèo là những địa điểm mà thực dân Pháp chọn làm chốt điểm đóng quân, làm chỗ dựa tấn công vào đồn Hố Chuối, là nơi phát tích truyền thuyết nhà sư chùa Lèo không ngần ngại hi sinh thân mình để cứu Hoàng Hoa Thám trước sự lùng bắt gắt gao của kẻ thù, đây cũng luôn là vị trí tiền tiêu quan sát các hoạt động càn quét của thực dân Pháp vào đồn Phồn Xương trong thời kỳ hòa hoãn lần thứ 2 (1897-1909).
Nơi tôn thờ Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm - một danh nhân yêu nước tài hoa, nhiều công đức, đầy bản lĩnh mà những trang sử chống xâm lược thực dân những năm 90 của thế kỷ XIX không thể không nhắc đến tên ông. Nguyễn Văn Cẩm từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, được người đời suy tôn là Kỳ Đồng.
Ảnh: dulichbacgiang.gov.vn
Mặc dù bị đưa sang Pháp học hàng 10 năm, nhưng khi trở về, thực dân Pháp vẫn không khuất phục được ông. Ông chính là quân sư của phong trào Mạc Đĩnh Phúc, và để gây dựng cơ sở cho phong trào khởi nghĩa ấy, ông đã rời quê hương Thái Bình chọn Yên Thế làm điểm dừng chân. Tại đây, ông lập “Thất diệu đồn điền”, xây dựng các ấp, khai khẩn đất đai, tích lũy hương thảo, chiêu mộ binh sĩ nhằm liên kết với nghĩa quân Hoàng Hoa Thám để khởi binh. Đây cũng là địa điểm hội kiến bí mật giữa ông với Đề Thám - người cùng nuôi chí hướng chống Pháp như ông.
Việc ông xuất hiện ở đây, đã góp phần củng cố lực lượng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, cũng như động viên ý chí chống Pháp của nhân dân các tỉnh Đồng bằng và Trung du Bắc Kỳ, nên cuộc khởi nghĩa của ông đã nổi danh với tên gọi “Thứ nhất Ông Kỳ – Thứ nhì ông Thám”.
Sau một thời gian dài theo dõi hoạt động và thu thập nhiều tài liệu, thực dân Pháp đã vây bắt ông trong khi ông và người nhà đang “ tíu tít bận bịu giữa những kiện hàng dài bó chiếu, thò ra những báng súng xếp chéo nhau với nòng súng ”, sau đó đày ông tới quần đảo Tahiti ở Thái Bình Dương cho tới lúc qua đời (17/7/1929)
Động Thiên Thai xưa vốn chỉ là khu nhà tranh nhỏ bé được Kỳ Đồng xây dựng lên. Sau đó chính nhân dân lại biến nó thành đền thờ phụng Kỳ Đồng (sau khi ông mất). Đền có bố cục theo kiểu chữ đinh (J), gồm tòa tiền đường 5 gian và hậu cung 2 gian. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, kiểu dáng kiến trúc khung mái đơn giản kiểu kẻ chuyền, trụ giá chiêng được bào trơn đóng bén, không chạm khắc hoa văn cầu kỳ, phía trước hậu đường đắp nổi ba chữ Thiên Thai động, nền đền lát gạch vuông truyền thống, mái lợp ngói mũi. Cửa đền được xây cuốn hình vòm gồm 3 cửa, cửa giữa cao và to hơn cửa hai bên, cánh cửa được đóng bằng gỗ, kiểu bức bàn. Trong đền được bài trí tượng thờ và nhiều đồ thờ tự khác.
Ảnh: dulichbacgiang.gov.vn
Nơi thờ tự hai cô con gái của tướng Đàm Thuận Huy, là căn cứ của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám. Đền được xây dựng năm 1524 và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Quần thể di tích đền Cầu Khoai hiện nay gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, khuôn viên, khu đền chính và chùa Hoài Âm, tất cả tọa lạc trong khu đất rộng đẹp. Ngôi đền hiện nay có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh gồm tòa tiền tế và hậu cung. Kiến trúc vì mái đơn giản không chạm khắc cầu kỳ. Trong hậu cung bài trí tượng thờ hai Cô và các thị nữ hầu cận. Phía sau ngôi đền là chùa Hoài Âm được nhân dân địa phương xây dựng sau này với ý nghĩa cầu báo ân đức siêu thoát cho linh hồn hai cô con gái họ Đàm.
Quần thể di tích còn nằm trong số đất đai do nghĩa quân Yên Thế cai quản trong thời kỳ khởi nghĩa, xung quanh khu vực đền là cả một hệ thống đồn lũy. Đền Cầu Khoai là một trong số nhiều điểm căn cứ của nghĩa quân trong thời kỳ khởi nghĩa. Cũng tại khu di tích này, nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp đã nhiều phen ở thế giằng co rất quyết liệt, nghĩa quân tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, tiêu biểu như trận đánh đồn Hom bên cạnh đền Cầu Khoai.
Quần thể di tích đền Cầu Khoai- chùa Hoài Âm là trung tâm sinh hoạt văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm vào các ngày 23, 24, 25 tháng Giêng âm lịch với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Là một đại danh làm cổ tự nổi tiếng của vùng Yên Dũng đồng thời cũng là một khu căn cứ quân sự quan trọng trong lịch sử đấu tranh. Giai đoạn (1906-1908), Hoàng Hoa Thám cùng nghĩa quân Yên Thế đã về đóng quân trong khu vực chùa. Đây cũng là nơi để chiêu binh, cất dấu lương thực, vũ khí và là nơi hội họp của nghĩa quân. Taị đây, Đề Thám đã cho đắp luỹ, làm tường thành, làm nhà, luyện tập quân sự, tạo nơi đây là một khu căn cứ chống Pháp. Dấu tích của sự kiện lịch sử này hiện vẫn còn lưu lại như: tường luỹ, nền nhà quan, giếng quan, trạm gác, cột cờ.
Là nơi Đề Thám cùng nghĩa quân thường làm lễ tế cờ tại khu di tích này trong mỗi lần xuất quân đánh trận. Vào các ngày tuần rằm đặc biệt ngày sự lệ hội làng, Đề Thám thường cho quân lính sắm lễ vào dâng hương lễ tạ tại cụm di tích này.
Đây là một ngôi đình cổ to đẹp lộng lẫy, bề thế nhất vùng Tân Yên. Đặc biệt trong thời gian có phong trào khởi nghĩa Yên Thế, nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã có mối liên hệ rất mật thiết với làng Cao Thượng và đình Cao Thượng. Bởi thế, Đề Thám đã cho lập căn cứ ở trên núi Yên Ngựa (thuộc khu vực đình Cao Thượng). Trong năm 1890, thực dân Pháp dò biết ở núi Yên Ngựa có quân của cụ Đề nên đã tổ chức lực lượng tấn công đánh nghĩa quân. Hiện trong di tích vẫn còn rất nhiều vết đạn găm trên các cột cái, xà, kẻ…
Đây là một di tích cổ còn bảo lưu nhiều nét kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, Đình Nội trước quay về hướng Tây Nam, mái đao chỉ thẳng vào xóm Nội. Dân thấy “góc đao ao đình” là điều không hay khiến dân trong làng thường xuyên lục đục mất đoàn kết.
Vì Hoàng Hoa Thám và Nghĩa quân có mối quan hệ mật thiết với Làng, thường xuyên qua lại nơi đây họp bàn với các cụ Đốc Tuân (làng Lý); Chánh Hoạch (làng Nội), Tổng Lò (Văn Miếu). nên dân làng đã xin cụ Đề Thám chuyển hướng cho ngôi đình. Từ đó, đình được xoay về hướng Đông Nam. Cũng sau lần bắn đình này, dân làng cho xây trước đình 2 toà tả vu, hữu vu và cổng nghi môn bề thế. Nhìn từ xa, đình làng Nội nổi lên sừng sững giữa khung cảnh thiên nhiên đẹp của một làng quê với luỹ tre xanh xanh, với những cây cổ thụ vươn mình trong mưa nắng bên sân đình, cùng hồ sen xanh ngát toả hương thơm mát từ ao đình khiến tình quê càng thêm nồng đượm.
Là nơi Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, bàn việc tổ chức những trận đánh lớn chống thực dân Pháp. Làng Chuông còn là nơi sinh ra Dương Văn Truật còn gọi là Đề Hậu - một trong những vị tướng tài giỏi, giữ vai trò chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Ông có tài bắn cung bách phát - bách trúng khiến bọn giặc Cờ Đen do Ngô Côn cầm đầu và sau này là thực dân Pháp phải kinh hoàng, khiếp sợ khi nhắc đến tên ông. Khi Lương Văn Nắm (Đề Nắm) - người làng Hả giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Dương Văn Truật gia nhập nghĩa quân, trở thành một trong những vị tướng giỏi giúp Đề Nắm và sau này là Đề Thám tổ chức nhiều trận đánh, gây cho thực dân Pháp những tổn thất lớn cả về người và của.
Nơi chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng liên quan mật thiết đến cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, chùa Phố nằm trong khu vực Đồi Phủ - nơi thực dân Pháp sử dụng làm đại bản doanh đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913). Do xây dựng phủ đường ở đây, thực dân Pháp đã cho xây dựng các công trình như chợ, nhà kho của Sétnay (một đại địa chủ kiêm thầu khoán, chủ bút báo Tương lai xứ Bắc Kỳ), khu nhà của đốc tờ Zina và bãi tập của binh lính Pháp, Việt ở bên cạnh… Khu vực này cũng là nơi tập trung binh lính Pháp trước khi đánh vào làng Sặt (1889), Cao Thượng (1890), Hố Chuối (1890-1891), phòng tuyến sông Sỏi (1892), Phồn Xương (1894 và 1909), nơi chứng kiến nhiều lần gặp gỡ giữa nghĩa quân Yên Thế với Pháp.
Nơi hoạt động của một số tướng lĩnh chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế, họ là: Đề Công (Tạ Văn Công), Đề Nguyên (Tạ Văn Nguyên), Đề Cần (Tạ Văn Cần), Thống Ngò (Tạ Văn Khấu), Quản Khối (Giáp Văn Khối)....
Đền Gốc Khế được xây dựng từ những năm đầu của thế kỷ XX. Khi mới được xây dựng, đền có quy mô vừa phải gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ tứ thiết chắc khỏe. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, tàn phá của thiên tai, chiến tranh, đền đã được tu sửa, tôn tạo nhiều lần. Hiện nay, đền có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh gồm 1 tòa tiền tế 3 gian và 1 gian hậu cung, kết cấu khung mái bằng gỗ, lợp ngói mũi, kèo kìm trốn cột, quá giang gác tường. Trong đền còn bảo lưu được một số đồ thờ tự quý như: Bát hương, mâm đài, cây đèn, hộp đựng trầu thờ bằng gỗ được chạm trổ rất tinh xảo thể hiện sự tài khéo của người nghệ nhân điêu khắc dân gian xưa... Đặc biệt, hệ thống tượng thờ trong đền là những pho tượng cổ bằng gỗ với lối tạo tác đặc trưng tượng thời Nguyễn, đây là những pho tượng rất có giá trị nghiên cứu về lịch sử và mỹ thuật.
Đây là ngôi đền đầu tiên thờ Cả Trọng (tức Hoàng Đức Trọng - con trai cả của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám đã anh dũng hi sinh trong phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế). Bởi thế nơi này đã trở thành nơi tưởng niệm và giáo dục truyền thống đấu tranh anh dũng của cha ông ta chống giặc ngoại xâm.
Hoàng Đức Trọng sinh năm 1867 tại làng Chè, xã Ngọc Cục, phủ Yên Thế và mất ngày 3 tháng 6 năm 1910. Hoàng Đức Trọng là người theo Đề Thám đánh Pháp từ thuỏ nhỏ. Ông là người tài ba và căm thù giặc Pháp sâu sắc. Ông đã tham dự nhiều trận đánh Pháp cùng Hoàng Hoa Thám và lập chiến công xuất sắc được Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế tin cẩn, yêu thương, cảm phục. Suốt cuộc đời của Cả Trọng chỉ có mục đích duy nhất là cùng cha đánh Pháp để giữ lấy phong tục của dân tộc theo ý nguyện của Đề Thám. Mặt khác cả Trọng lại là người ham học, hiểu biết nên ông càng không thể đội trời chung với thực dân Pháp. Bởi thế khi nghe tin con trai hy sinh, Đề Thám đã thốt lên rằng: “Thôi ! Thế là cơ nghiệp nhà ta đến đây tan vỡ rồi !”, ông mất di không có tấm hình nào để lại. Thế nhưng cuộc đời và hình ảnh của ông vẫn được nhân dân khắc ghi trong lòng cùng phong trào khởi nghĩa Yên Thế và cũng phải chăng lời than của Đề Thám khi nghe tin cả Trọng mất cũng là lời đánh giá cao nhất đối với cả Trọng.
Nơi đặt đại bản doanh của thực dân Pháp và của chính quyền phong kiến nhằm tiến đánh nghĩa quân.
Nơi chôn cất các sĩ quan, binh lính Pháp, Việt chết trong các trận đánh với nghĩa quân Yên Thế…
Nơi thực dân Pháp thả tro cốt đầu của Hoàng Hoa Thám và hai thủ hạ thân tín của ông sau khi hỏa thiêu.
Hàng năm, Lễ hội Yên Thế được long trọng tổ chức vào các ngày 15,16,17/3 tại khu vực Đền Thề (thị trấn Cầu Gồ, huyện Yên Thế, Bắc Giang), là đại bản doanh của nghĩa quân Yên Thế trước kia, với 2 phần: Lễ và Hội. Phần lễ được tổ chức vào sáng 16/3 gồm lễ dâng hương tưởng niệm các nghĩa sĩ hy sinh trong Cuộc khởi nghĩa Yên Thế, lễ tế cờ, phóng ngư, phóng điểu, thăm Nhà trưng bày truyền thống tại Khu di tích lịch sử ... Phần hội diễn ra với nhiều hoạt động văn hoá, thể thao truyền thống kết hợp với hiện đại như: thi mặc trang phục dân tộc đẹp, cắm trại, đốt lửa trại truyền thống, thi văn nghệ giữa các đội văn nghệ quần chúng, cưỡi ngựa bắn nỏ, chọi gà, cờ tướng, cờ người, đẩy gậy, võ dân tộc, bóng bàn, bịt mắt đập niêu...
(Nguồn: Nguyễn Thúy, Ảnh: Văn Dương * dulichbacgiang.gov.vn)