Nguyễn Ngọc Bích chụp hình chung với bố tại sân trường Don Bosco Trạm Hành, Đà Lạt.
Nguyễn Ngọc Bích chụp hình chung với bố tại sân trường Don Bosco Trạm Hành, Đà Lạt.
Nhân chuyến đi Đà Lạt chơi, ông Thuyết đến thăm con
Năm 1969, tôi rời gia đình lên Đà Lạt để bắt đầu bước vào giai đoạn nội trú của bậc trung học (lớp 6). Khi mới nghe tới Đà Lạt thì "mê" lắm; mê cái không khí lành lạnh, không nóng nảy như anh Saigon; mê được chui dưới dòng nước của thác Prenn quyến rũ, hoang dã giữa đại ngàn sơn cước; mê cái thác Cam ly vô tư, mà nhạc sĩ Minh Kỳ đã "ru lòng người lữ thứ với bao nhiêu ước mơ"; mê đứng bên cạnh cây thông để chụp một tấm hình giống như trong tấm card giáng sinh, những thứ mà ở Saigon chẳng bao giờ có... Rồi đóng vali, háo hức lên đường.
Chuyến bay Saigon - Liên Khương khoảng 1 tiếng đồng hồ, mà... ói lên ói xuống, vì hôm đó phi cơ bay qua vùng bão. Chán! Từ Liên Khương được đưa lên xe buýt chạy thẳng về trường Don Bosco Trạm Hành, dọc đường nhìn những rặng thông thẳng đứng đang reo vui bên sườn núi. Đẹp! Về tới nơi, chúng tôi đứng theo hàng nghiêm chỉnh, trong khi nhà trường cử hành nghi thức chào đón những người mới đến, trong nghi thức này có phần trình diễn của Ban Kèn Đồng, hôm đó Ban Kèn Đồng thổi tới mấy bài... dài ơi là dài. Chúa ơi! trời thì lạnh, từ Saigon lên có mặc áo lạnh đâu, run cầm cập, mà cứ phải đứng nghe mấy ông thổi kèn phùng mang trợn má.... Chán ! Chán vô cùng. Chán vì từ đây phải xa gia đình, xa tất cả mọi người thân quen, và nhất là phải sống tự lập. Đói bụng thì phải chờ tới giờ ăn mới có cơm ăn, không thể xuống bếp mò cơm như ở nhà. Tắm rửa xong, phải tự giặt quần áo, nếu lười thì coi như thê thảm, vì những ngày Đà Lạt có sương mù, phơi hoài không khô... Sau 2 năm sống trên ngọn đồi thơ mộng giữa rừng thông Trạm Hành, Đà Lạt, tôi trở về Thủ Đức, vẫn là xa nhà, mãi tới năm 1975 thì mới trở về nhà sinh sống cùng gia đình. Trong số các anh chị em, tôi là người ít sống với gia đình nhất. Từ năm 1969 đến 1975, xa nhà, và từ 1979 đến nay, vẫn là xa nhà, nên những sinh hoạt tại giáo xứ Bắc Dũng ngày ấy, dường như rất "xa lạ" với tôi.
Trước khi bước vào sinh hoạt với giáo xứ, tôi đã có thời gian sinh hoạt ở bên ngoài. Khoảng năm 1977, tôi bắt đầu sinh hoạt với các em thiếu nhi Ấp 4 (Thời gian này gọi là Ấp, sau này phân chia lại thành Tổ) Hai "sự kiện lớn" mà tôi đã làm là Tổ Chức một đêm Văn Nghệ và Rước đèn Trung Thu.
Vì buổi Văn Nghệ do Thiếu Nhi Ấp 4 đứng ra tổ chức, nên phải tự túc hoàn toàn. (Vào năm 1977, thì cái gì cũng là không có) Sân khấu thì mượn được mấy chục cái bàn học của Trường Dân An 4, mang ra xếp vào (ở cuối nhà thờ), màn kéo và phông phía sau thì mượn của Phường. Hệ thống âm thanh, ánh sáng, toàn đồ đi mượn. Ban nhạc thì "nhờ" mấy người bạn chơi giúp. Giấy mời quan khách thì tự đánh máy. Các tiết mục cũng có đầy đủ Ca, Vũ, Nhạc, Kịch. Tôi phụ trách phần ca và kịch còn cô bạn Trương Thị Ánh Hồng phụ trách phần vũ. Vở kịch hôm đó là "Độc tấu piano bản Ngựa Phi Đường Xa" do Nguyễn Ngọc Hướng thủ vai chính đã làm khán giả cười ngả nghiêng. Còn phần vũ cũng để lại rất nhiều ấn tượng, với lối trình diễn sống động, uyển chuyển và nhất là: mầu sắc đẹp.
Tết trung thu năm đó, các em Thiếu Nhi Ấp 4 tham dự rước đèn do Phường tổ chức. Tôi làm 2 đèn lớn. Đèn thứ nhất, là một huy hiệu thiếu nhi, do 4 em nữ khiêng, có gắn 1 giây đèn nhấp nháy, 1 bóng neon 0,6 mét. Đèn thứ hai, là một "tên lửa" đặt trên 4 bánh xe (bánh răng tháo từ máy dệt ở nhà) do các em nam kéo. Tên lửa có chiều dài bằng nguyên một cây nứa, chung quanh phủ giấy (lấy ở Tổ Hồ Dệt Thống Nhất), trong bụng tên lửa được gắn 2 bóng đèn neon 1,2 mét, phía cuối gắn thêm 1 bóng đèn đỏ, một cái quạt cùng với giấy bóng đỏ để tạo thành lửa.
Đoàn rước đi từ Ngã Tư Xóm Mới xuống tới Ngã Ba Nhà Đèn. Hai đèn trung thu của Ấp 4 được nối chung dây điện với nhau, đồng thời chúng tôi chuẩn bị thêm 2 khúc dây điện thật dài, do 4 em phụ trách, cứ đi ngang nhà nào là xin cắm điện nhờ. Trong khi đèn trung thu của những Ấp khác dùng nến, thì đèn trung thu của Ấp 4 dùng điện, sáng rực, độc lạ, đã lấy hết sự chú ý của người xem 2 bên đường.
40 năm sau, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời của Khu I, cũng là ngày mất của bố tôi.
Đây là sinh hoạt đầu tiên của tôi với Giáo xứ Bắc Dũng. Đó là năm 1978 dưới sự Quản Nhiệm của Cha Thomas Nguyễn Văn Thuyết. Giáo xứ Bắc Dũng được phân chia thành 4 giáo khu, mỗi giáo khu đều có một Thánh Quan Thày của khu mình. Gia đình tôi thuộc khu I, và Quan thày của Giáo khu 1 là Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (Assumption of Mary). Không hiểu sao, hồi đó bố tôi "được" lãnh chức "Trùm" của khu 1. Để chuẩn bị cho ngày lễ Quan Thày khu, ông cụ hỏi tôi có thể làm cái đài Đức Mẹ cho ngày lễ sắp tới được không? Dĩ nhiên là được rồi. Tôi là người có máu đam mê về nghệ thuật, nên nhận lời ngay.
Chưa hết, lại còn thêm nhiệm vụ thành lập ca đoàn khu. Ở vào giai đoạn này, xứ Bắc Dũng chỉ có 1 ca đoàn. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là lễ Quan Thày của Khu I, và là bước đi đầu tiên trong kế hoạch phân chia giáo khu của Cha Thuyết, nên Khu I phải làm cho "thật tốt". Không biết ai đi vận động mà lại tìm cho tôi được khoảng 15 em, cả nam cả nữ. Vậy là đủ ! Tôi bắt đầu tiến hành tập hát mỗi tối.
Gần tới ngày lễ, tôi chuẩn bị làm đài Đức Mẹ. Vì là trang trí, gắn vào tháo ra, nên không xử dụng những vật liệu nặng, chủ yếu là vải và mớp (styrofoam), bên cạnh đó là đèn và sơn để phối hợp mầu sắc. Dùng mớp làm phông phía sau, gồm nhiều hình lập thể chồng lên nhau. (Tôi không có thói quen trang trí theo kiểu "cân bằng" -Symmestrical, mà thường là lệch sang một bên -Asymmestrical, nhưng nhìn tổng thể vẫn cân bằng), sau đó dùng sơn neon (lumineux) vẽ cạnh hoặc những khu vực cần nổi bật. Trong trang trí, tôi sử dụng rất nhiều đèn, vì ánh sáng có thể "khoe ra" điểm nhấn, và "dấu đi" điểm xấu. Tất cả ánh sáng chỉ đánh nhẹ phía trước tượng Đức Mẹ (phần trên), còn phía sau và phần chân để tối. Một bóng đèn cực tím phản quang (Black light) được gắn ngay sau lưng Đức Mẹ, và bóng đèn thứ hai được gắn phía trước để hắt vào phần chân, đèn này được dấu kín phía sau những miếng vải như những "ngọn đồi" nhỏ bé. Khi hệ thống điện được bật lên, 2 bóng Black light phối hợp với phần sơn neon tạo nên một khung cảnh rực rỡ và "huyền bí", nhất là đối với những người chưa bao giờ nhìn thấy đèn cực tím phản quang. Lạ !
Riêng ca đoàn khu I, hôm đó cũng hăng say hát hết mình. Lần đầu tiên các em được hát cho khu của mình, và các em cũng là ca đoàn thiếu nhi đầu tiên tại xứ. Sự gắn bó với nhau giữa các em và tôi, đã là một phần quan trọng cho những sinh hoạt sau này tại giáo xứ, bởi các em là những con men chủ lực trong sinh hoạt, từ Khu I, lan rộng qua giáo xứ. Thế là, lần đầu tiên tôi "ra mắt" với xứ Bắc Dũng đã để lại được nhiều ấn tượng, và đã lọt vào "tầm ngắm" của Cha Thuyết.
Sau buổi "ra mắt" với Giáo Xứ, tôi bắt đầu tiếp xúc với Cha Thuyết nhiều hơn. Giữa Cha và tôi có nhiều điểm tương đồng. Đặc biệt nhất, Ngài là người năng động, thích những gì mới lạ, và những gì tôi muốn làm, Ngài hoàn toàn ủng hộ. Có những lần tổ chức lễ lớn, chúng tôi làm không kịp phải ngủ lại trong nhà thờ để làm, Cha Thuyết vào thăm và cho tiền mua đồ ăn để chúng tôi "tử thủ" đêm hôm đó. Với sinh hoạt của giáo xứ, Ngài muốn phát triển mạnh hơn, để vực dậy tình trạng đang rệu rã, trong đó có việc "đào tạo thêm nhân tài". Mời cha Vịnh về dậy đàn nhà thờ để khỏi trở ngại người đánh đàn (Tôi là một trong số những người học) Thời gian này Nhà Thờ chỉ có một cây đàn Harmonium để trên gác, về sau cha mua thêm cây đàn organ điện và đưa lên phía bên hông gian cung thánh, rồi Cha mua kèn với ý định lập ban kèn đồng... Ngoài ra, Cha cũng có mối liên hệ rất tốt với Chính quyền địa phương, nhất là giai đoạn sau năm 1975.
Dưới đây là bài viết của Vũ Minh Đức, một thành viên trong Nhóm Giáo Lý, nói về sự hình thành Nhóm Giáo Lý thời gian đầu.
Về nhận xứ mới sau một thời ly loạn, thật ngậm ngùi với cảnh quan ảm đạm so với một Bắc Dũng xưa kia. Cái nề nếp xưa vẫn còn đó, nhưng các đoàn hội chẳng còn như xưa....
Ngày hai bữa đã khiến họ phải nai lưng ra với công việc. Cực nhọc kiếm vài mươi đồng ít ỏi lo cho gia đình. Lúc này, kiếm được đồng tiền là khó lắm, mà lần ra miếng để ăn thì cũng chẳng dễ gì. Xếp hàng cả mấy tiếng đồng hồ, đôi khi còn khi phải tranh giành nhau mới được vài lạng thịt, non ký rau đã là hạnh phúc lắm rồi. Dầu hôi 1 lít thì phải dè xẻn cho cả tuần... đói....đói lắm khi những hạt bo bo phải bung đến vài tiếng mới mềm. Nó trở nên nhàm chán đến nỗi bụng đói mà nuốt không trôi. Chứng kiến có những đứa trẻ nằm đầu hè thiêm thiếp ngủ chờ từng củ sắn luộc. Nó rệu rạo mà ruồi đậu lên mắt, lên mũi, cả lên miệng mà chẳng buồn đuổi. Những con người gầy guộc, đen đủi, mặt xương xẩu hốc hác mà vẫn phải cật lực bương trải để lo cho ngày mai ăn gì. Thời gian đầu là vậy nhưng rồi cũng phải chắt bóp, phải dè sẻn để ổn định hơn.
Lo thực phẩm hàng ngày đã là một vấn đề, mà lo chất đốt lại còn là một vấn đề khó khăn hơn nữa. Cái câu mà "gạo châu củi quế" áp dụng vào lúc này thì thực chẳng ngoa. Không hẹn nhau mà nhà nhà đều đổ xô đi lượm củi vụn, lượm bã mía tận dăm bảy cây số đi bộ. Nào bao, nào gồng gánh, đến cả cái dây buộc cũng trở lên có giá trị.
Thật xót không...? khi cả lão bà thuộc hàng đại thọ, trên 90 mà hằng ngày vẫn phải đi bộ hơn chục cây số, gánh những gánh bã mía oằn vai. Da Cụ nhăn nheo rám ánh mặt trời, với đôi dép làm từ vỏ xe phế thải, Khăn mỏ quạ thấm đậm mồ hôi. Áo tứ thân buộc chặt vội vàng giữ cho bụng khỏi xục xịch trên những bước đi. Đôi quang gánh kiũ kịt trĩu nặng quẹt xuống đường nhựa nóng ran của trời mùa Hạ. Sau lưng là một ống guigoz nhôm trắng cũ lắm rồi, còn xót lại của những năm trước đó, mà trong mơ hồ cụ cũng chẳng nhớ ra. Cẩn thận cho vào bịch nhựa rồi dùng dây cói cột chặt vào cái ruột tượng để sau lưng. Đấy ! nước trà tươi giải khát của Cụ trên hàng chục ki-lô-mét đường là vậy
Cha xứ Tôma Nguyễn văn Thuyết mới về thì ưu tư chẳng kém. Mà bản thân cũng không hơn gì. Cảnh khổ chung nên cũng phải cơm độn khoai sắn mỗi ngày. Mà việc sinh hoạt chung của giáo xứ về mặt đạo nghĩa cũng sa sút nhiều đi vì mưu sinh. Đã có những gia đình phải bỏ xứ đi đồng ruộng, đi kinh tế mới. Những căn nhà hoang hoá ngày lại thêm ra. Có những gia đình phải gỡ cả tôn lên chốn mới để dựng nhà. Thật khốn đốn cả đôi đường, đi hay ở đều cực nhọc và vất vả cả.
Trong hoàn cảnh như vậy, đến cả giáo dân cũng vơi dần thì Cha xứ nào chẳng nặng lòng tính suy. Nhiều ngày tháng tâm toan Cha cố Toma đã đi đến quyết định khơi dậy đời sống đạo để khỏa lấp đi bao nhọc nhằn lo toan đời sống trong giáo dân của mình.
Người đã thành lập các khu, sau khi đã cân nhắc và bàn luận với hội đồng giáo xứ lúc bấy giờ. Chia giáo xứ ra được bốn khu :
Khu 1 : Được chia từ phía bên phải nhà thờ, dãy ngoài đường cùng dãy mé trong và dãy bên cánh phải nhà thờ đến tận ngõ xuống cánh đồng.
Khu 2 : Được chia từ bên phía trái nhà thờ, dãy ngoài đường cùng dãy trong và tất cả hai bên của ngõ sau nhà xứ.
Khu 3 : Được chia từ dãy sau trường tiểu học, kéo dài đến khúc ngã ba cùng dãy sau từ nhà ông Chánh Hoà tới giáp ranh khu Vĩnh Trị . và toàn bộ ngõ dẫn ra đường, chỗ cổng đỏ (cổng được sơn màu đỏ) đối diện nhà thờ Hà Nội.
Khu 4 : Được chia tất cả dãy trong của ngõ trong cùng (hết phần đất của giáo xứ) cộng thêm ngõ nhỏ quẹo trái tới sau nhà xứ của xứ Trung Bắc. Đầu kia của ngõ trong cùng kéo dài ra tới cánh đồng tới cổng ấp chiến lược.
(Sau này có thêm Khu 5, sẽ nói vào giai đoạn sau)
Lại nói thêm, lúc này thì trong các Thánh Lễ chỉ có ca đoàn xứ đảm nhiệm. Nhưng với hai Thánh Lễ cùng ngày mà ca viên thì ít ỏi quá. Các anh chị dẫu sao cũng là người phải lo công việc chung với bố mẹ trong kế sinh nhai hàng ngày.
Ở ngoài kia, trên sân nhà thờ, hằng tối. Cha Cố Thuyết vẫn thấy nhóm nhem một số, khoảng hơn hai mươi em thiếu niên sinh hoạt vui chơi. Nhóm sinh hoạt này là thiếu niên ấp 4 thuộc xứ nhà do chị Cao Thị Oanh khu 3, chị có họ kêu bằng bác Đỗ thị Cẩm khu 3 (con bà Thúy -Anh), Chị Đặng thị Liên khu 4, chị Trương thị Hồng (con bác Oánh, Tỉnh khu 2) và anh Nguyễn Ngọc Bích (con Cụ Thuyết khu 1) thành lập lên.
Chịu trách nhiệm sinh hoạt chính là anh Nguyễn ngọc Bích. Là dân tu sinh thuộc Don Bosco Thủ Đức. Thừa hưởng phong cách sinh hoạt, tháo vát, kỹ năng đi trại thực thụ của CHV Don Bosco và Hướng Đạo Việt Nam lúc bấy giờ...
.... Mà Cha Cố Thuyết là một người giản dị và năng động, có cách tổ chức thật tuyệt vời. Đã từng là một cựu vô địch Cua-rơ (coureur) Nam phần (*) (có lần ngài đã tâm sự và cho xem cái cúp quý giá này) nên sự nhận xét của Ngài với nhóm sinh hoạt ngoài kia Qủa không sai....
Một hôm trong buổi sinh hoạt của nhóm thiếu niên ấp Dân An 4. Anh Bích nói với các em:
- Hôm Qua Cha có kêu anh vào mà bảo : thành lập một ca đoàn nhỏ để trợ giúp cho ca đoàn xứ hát lễ, và Cha cũng muốn hình thành các lớp giáo lý của xứ nên có nhờ Thầy Sáng (khu 2), chị Cao thị Oanh khu 3, chị Nguyễn thị Hạnh khu 1 (con bác Xuân) và chị Bình khu 2 dạy các lớp ấy.
Sự hình thành một ca đoàn nhỏ nữa của Xứ bắt đầu từ đây. Mở đầu cho thanh, thiếu, nhi trong Xứ một hướng mới, thiết thực, hình thành lên nhân cách sống. Thầm cảm ơn Cha và các anh chị hướng dẫn. Lại một lần nữa hạt giống đang nẩy mần trên Giáo Xứ của chúng con.
Sau khi đã hình thành lên các khu với đầy đủ chức vụ Trưởng, phó, quản khu, đã khiến phong trào sống đạo thêm khởi sắc. Đương nhiên khu nào cũng muốn đẹp và tốt cho bộ mặt Giáo Khu của mình. Lần hồi các khu đều thành lập được ca đoàn riêng.
Đơn cử như khu 1, anh Bích đứng ra tập hát cho ca đoàn khu 1 (kể tới đây cũng xin nói thêm, vì người viết sống ở khu 1 nên viết lần từ đây ra, các khu khác thì không nắm rõ, và có liên quan tới nhóm 7 Tây mà sau này Cha Cố Thuyết hay sử dụng) Quy tụ được bảy anh con trai và hơn chục cô con gái. Các ông trùm khu thấy bảy đứa con trai đứng tập hát tướng cao to nên hài hước kêu là bảy thằng tây. Vậy là từ đó vô tình đã thành một tên riêng để chỉ bảy anh con trai này.
Thật xin lỗi mất thời gian của người đọc vì chuyện dông dài trên đây...
Thời gian này thực rất khó khăn, 54 thì còn được chính phủ chu cấp chỗ ở, thực phẩm, thuốc men và vài thứ cần thiết, chứ lúc này chẳng hòng gì mà ngóng vào đâu được. phải tự lực và liệu lấy thôi.
Chi phí cho một giáo xứ hoạt động là lớn lắm. Nội tiền điện thôi cũng đã làm cho ưu tư nhiều rồi, còn bao nhiêu thứ khác nữa xoay sở sao đây? Cả xứ đều trong cảnh khó khăn. Ngoài cái ao phía trước được lấp đi cùng khi xây thêm hai phòng học giáo lý nối vào với huấn trường và cái ao phía sau ra. Thôi thì trong nhà xứ,còn khoảng trống nào thì tận dụng đào ao nuôi cá kiếm thêm kinh phí để trang trải.
Cha cố Tô-ma lại kêu gọi các thanh niên trong xứ để giúp đào thêm một cái ao nữa, nằm ngay sát bên hông nhà xứ , chỗ có cây Soài (khu vực bãi để xe bây giờ) . Công việc này, Thanh niên các khu, nhóm 7 Tây, Các anh Sử (con ông Kết khu 1), anh Bích (con ông Hiển khu 1), anh Hà (tám Hà con ông Cố Hào khu 1) và một số bạn bè bên đàng Nam (**) đều phụ giúp một tay. Non hai tháng thì cái ao cũng hình thành. Sau này còn đào lại cái ao cũ ở phía trước. Như vậy thời điểm đó tồn tại cả thảy 3 cái ao cùng một lúc. Chiếm gần như toàn bộ diện tích đất nhà xứ. ở phía sau Cha cố còn tận dụng xây mấy cái chuồng để nuôi heo. Cuộc sống của một Cha Xứ như vậy quả thật là vất vả. Rồi thì nấu cao, trồng cây khuynh diệp, tất cả chỉ mong cho giáo xứ ngày càng tốt đẹp thêm lên. Rất nhiều những kỷ niệm thực trân trọng nơi Cha Cố Tô-ma.
Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thì những công sức của Cha Cố Tô-ma Thuyết với xứ nhà Bắc Dũng đã được Thiên Chúa đáp lời. Sinh hoạt của một giáo xứ đã chuyển mình. Những buổi đi lễ nhà thờ nhộn nhịp hẳn lên trong tâm hồn thờ phượng kính mến Chúa. Các lớp học giáo lý vào mỗi sáng chủ nhật lại vang vang tiếng trẻ học bổn (***). Những mái đầu xanh cặm cụi viết bài trên những dãy ghế dài trong nhà thờ. Những tốp nhỏ lót dép ngồi dưới đất trong sân xứ nhà lại râm ran ôn bài ngày hôm qua.Tiếng hát của các ca đoàn như trong hơn, vang hơn và xa hơn. Trên kia, những tầng mây xanh, trong ánh sáng chan hòa, Thiên Chúa đang mỉm cười với giáo xứ nhỏ bé của chúng con.
-----------------------------------------
Tóm lược những công việc chính về Cha Tô-ma và cộng đoàn dân Chúa xứ Bắc Dũng như vẫn còn những thiếu xót,
Kính mong mọi người xem tiếp trong phần mở rộng:
- CHUYỆN KỂ VỀ BẮC DŨNG.
Sự năng động của các em trong Ca Đoàn Khu I (Nhóm 7 Tây), đã là mồi lửa để tôi nhanh chóng nhận lời khi Cha Thuyết ngỏ ý muốn tôi thành lập Ca Đoàn Thiếu Nhi. Với lực lượng chủ yếu bên Khu I, tôi kêu gọi thêm một số em trong nhóm Giáo Lý và nhóm Thiếu Nhi Dân An 4. Tất cả những em này đã có "máu sinh hoạt" trong người, nên việc hình thành rất nhanh chóng.
Chúng tôi chọn căn nhà của cha Thân Toàn Vũ để làm nơi hội họp và tập hát (Cha Vũ đã qua đời, và căn nhà này đang được dùng làm nhà kho). Việc đầu tiên tôi thực hiện là in khoảng 30 cuốn sách nhạc cho các em, lấy tên là "Giáo Lý Ca". Đây là một công việc cực kỳ khó, vì sách được in bằng... tay. Ở thời điểm này không có nhà in, không có tiệm photocopy, thậm chí không có cả máy đánh chữ. Vậy mà chúng tôi vẫn in được 30 cuốn. Phải nói đây là một "kỳ công". Mỗi lần anh em chúng tôi tụ nhau lại làm sách ở cái "văn phòng" "ngổn ngang bàn ghế", Cha Thuyết lại chạy qua hỏi thăm và gật gù. Cũng may, 30 cuốn sách ra đời trong bình an !
Bên cạnh những buổi tập hát, chúng tôi thường có những buổi "gặp mặt thư giãn" và tổ chức đi dã ngoại bằng xe đạp trên núi Bửu Long (Biên Hòa). Qua những sinh hoạt này, tình cảm anh em chúng tôi ngày càng thêm khăng khít, và mỗi khi có việc, tất cả đều "xúm vào" giải quyết một cách mau lẹ.
Đây là ca đoàn thiếu nhi đầu tiên của xứ Bắc Dũng.
Đức - Công - Lâm
Hưng - Hiệp - Đức - Thông - Hồng - Công
Cha Thuyết cho tôi biết Trung Thu năm nay sẽ tổ chức chung với Xứ Trung Bắc và Tân Hưng. Phần ca hát trong Thánh lễ sẽ phân chia cho mỗi xứ hát một phần... Tôi hơi khựng người, vì ở vào thời điểm này, tập trung đông người là... "không tốt". Tôi hỏi lại Cha có được không? Ngài thản nhiên trả lời: được chứ! (Cha Thuyết là người có quan hệ tốt với Chính quyền địa phương) Rồi Cha cho biết sơ qua về ý định tổ chức như thế nào, dĩ nhiên Thánh lễ là chính, nhưng trong Thánh lễ phải làm gì để có hơi hướm là Trung Thu. Khi ấy hai Cha con đang đứng trong nhà thờ, Ngài chỉ tay về phía cung thánh và nói: Làm một câu "Cùng Vui Trong Chúa" ở giữa Nhà Thờ.
Tôi nhìn ra được ý của Cha, một cái gì lạ, khác bình thường và trẻ trung. Tôi nghĩ ngay tới cuộn giấy đang để ở nhà và nói: Được!
Sau khi thông báo cho các em trong ca đoàn biết để chuẩn bị tập hát, lần này, tôi chọn toàn những bài hát có chút làn điệu "dân ca", thích hợp với tiếng sáo để có thể tạo được bầu không khí của "đồng quê" trong ngày Trung Thu.
Về tấm băng rôn ( banderoll), chúng tôi kéo 2 sợi dây kẽm song song, cách nhau khoảng 1 mét, từ cột này sang cột kia, và dùng cuộn giấy (có chiều ngang khoảng 4 cm) dán từ cọng giây kẽm trên xuống cọng dưới, cứ thế đi hết chiều ngang, tạo thành bức phên gồm nhiều thanh dọc. Chữ "Cùng Vui Trong Chúa" được cắt rời từng nét bằng giấy Croquis theo kiểu "thư pháp trẻ trung" (kiểu chữ mà chưa bao giờ có ai dùng trong nhà thờ). Khi gắn chữ lên tấm mành băng rôn, tôi gắn chữ trồi lên, trụt xuống, ngả nghiêng theo kiểu đang nhẩy múa (cho phù hợp với ý nghĩa của câu "cùng vui trong Chúa")
Đây có lẽ là thánh lễ "vui nhất" của xứ Bắc Dũng sau năm 75. Vì có tới 3 xứ tham dự, trong nhà thờ chật cứng, bên ngoài, bà con chen nhau nhìn qua cửa sổ. Trong nhóm 7-Tây thì Công là người nhớ dai nhất:
-Không vui sao được, vì hôm đó có cả múa lân ở trong nhà thờ !
Một lần nữa, tôi lại được phụ trách làm hang đá cho nhà thờ.
Biết Cha Thuyết là người "không phản đối" với những ý tưởng khác lạ, tôi dựng hang đá theo kiểu mô hình, khác với kiểu hang đá "truyền thống" làm bằng giấy rồi sơn xịt lên. Trước tiên, chúng tôi di chuyển cái bàn ping pong đang để trong kho ra nhà thờ, rồi nhờ mấy em đào đất trong ao nhà Cha, mang ra đổ lên bàn ping pong. Với số đất này, tôi tạo thành mô hình của một "vùng đồi núi" thu gọn, trong đó có nhiều cây khô và rải những hạt mớp trắng lên làm tuyết. Ở "vùng đồi núi" này, tôi dựng một mái nhà tranh (theo kiểu chuồng bò) để đặt bộ tượng. Phía sau mô hình là một bức phông lớn, vẽ cảnh trời tối đen giữa cánh đồng tuyết trắng. Dưới chân bàn ping pong phủ vải kín và dùng chậu kiểng trang trí phía trước.
Để tạo cho toàn cảnh được sống động, tôi gắn một số đèn nhấp nháy phía sau phông làm những ngôi sao, và một vòng tròn lớn, có bóng điện ở trong, làm ánh trăng. Lần trang trí này, tôi vẫn" dùng đèn cực tím phản quang (Black light) và sơn neon (lumineux) để tạo thành những điểm nhấn nổi bật. Những cây khô ở "vùng đồi núi" này, đều có đèn gắn ở dưới gốc chiếu hắt lên, và trên cành, điểm một chút sơn neon tạo nên sự lung linh. Tiếc rằng ngày đó không có đủ dụng cụ để làm một vài "chuyển động" trong mô hình này. Lạ !
Thành phần nòng cốt của Ca Đoàn Thiếu Nhi (bên nam)
Từ trái qua phải: Thông, Vinh (organ), Xướng, Lâm, Ngọc Công, Hiệp, Hưng, Bích, Đức, Công, Ký
Năm 1995, trong một lần đi dự tiệc cưới, tôi tình cờ ngồi chung bàn với anh Hữu (con bà Lý Loan). Tôi và anh không biết nhau. Anh thuộc lớp đàn anh lớn hơn tôi, và tôi thường xuyên xa nhà. Trong cuộc trò chuyện, sau khi xác định "tọa độ", anh hỏi tôi có phải là người đã tổ chức lễ Phục Sinh hồi đó? Tôi gật đầu xác nhận. Anh nói, hồi đó chỉ biết là con ông Thuyết, nhưng không biết là ai, bây giờ mới biết. Rồi chúng tôi ôn lại về buổi lễ hôm đó, và anh nói, cho tới bây giờ, vẫn chưa có ai qua mặt được.
Phục sinh là ngày cuối cùng của tuần lễ thương khó. Với người Công Giáo thì đây là tuần lễ "đau buồn", nhưng với giới trẻ (cả Công Giáo và không Công Giáo) thì đây là tuần lễ "vui" nhất, vì họ có cơ hội dắt nhau đến nhà thờ này, thăm nhà thờ kia "xem" họ đang làm gì, đặc biệt trong 3 ngày thứ năm, thứ sáu và thứ bảy.
Với Ca Đoàn Thiếu Nhi xứ Bắc Dũng, thì đây là một vinh hạnh, vì Cha xứ giao cho chúng tôi phụ trách phần thánh ca trong suốt tuần lễ đó. Tôi bắt đầu một chương trình tập hát "dài hơi" cho các thánh lễ từ thứ năm đến khuya thứ bảy (phục sinh). Mỗi tối, chúng tôi gặp nhau tại căn nhà của cha Vũ để tập dợt (với cây đàn guitar). Tôi điểm lại những người bạn quen biết đã từng chơi nhạc. Trong đó, quan trọng nhất phải kể đến là Vinh (khu Tràng Lan), là người phụ trách chơi đàn organ cho Ca Đoàn Thiếu Nhi.
Sau khi liên lạc với nhóm bạn "nhạc công" và được họ hứa giúp, gồm có Clarinet, saxophone, Trumpet, Accordeon, Violin, Sáo, Tambourine, 2 guitar và trống. Tôi gom tất cả những bản nhạc sẽ hát giao cho Vinh, trong đó có một số bản tôi đã viết hòa âm, viết thêm bè, phần còn lại, nhờ Vinh hòa âm và viết riêng (chuyển tông) cho Clarinet, Trumpet và saxophone (Cao độ của Clarinet và trumpet là Si giáng, còn cao độ của sax là mi giáng so với chủ âm). Đây là công việc chiếm rất nhiều thời gian, vì tất cả phải viết bằng tay cho mỗi nhạc công một bản, không có máy photocopy như bây giờ. Cũng may, Vinh... làm được và làm quá xuất sắc ngoài dự đoán của tôi. (Vì có vài nhạc công không có thời gian tập dợt với ca đoàn, nên phải soạn sẵn cho họ) Những nhạc công này toàn thuộc hạng "cao thủ" như Tiến Biên (Trung Bắc), Doanh (Trại Cha Tống), Kha (Bến Cát), Ngọc (Hà Nội)...
Ngoại trừ cây đàn ọrgan của nhà thờ, còn lại tất cả những nhạc cụ trên, đều là lần đầu tiên được đưa vào nhà thờ Bắc Dũng, mà muốn đạt được hiệu quả, thì âm thanh lại là một vấn đề, khi mà xứ Bắc Dũng chỉ trơ trụi có một chiếc loa sắt treo gần gian cung thánh, chủ yếu là để cho Cha và Ca đoàn sử dụng. Nếu không có loa thùng thì coi như thua, vì các loại đàn cắm qua amplify đèn, không thể sử dụng loa sắt, mà phải là loa giấy. Tôi làm một tờ giấy giới thiệu cho Lâm, đại diện Cơ Sở Hồ Dệt Thống Nhất đến Xí Nghiệp Dệt Mai Thành (gần sân vận động Đạt Đức) mượn một cặp loa thùng lớn (với lý do... về tổ chức tiệc tiễn anh em lên đường). Vì là bạn hàng của Hồ Dệt Thống Nhất, Xí Nghiệp Dệt Mai Thành đồng ý ngay, và Lâm chở loa về. Cặp loa được đặt ngay bậc thang thứ nhất trên gian cung thánh. Hai loa này còn được phủ thêm hai khăn màu hồng rất trang trọng. Về phần amplify, tôi có 1 cái và mượn thêm 1 cái của anh Trọng (gần Chợ Xóm Mới), đàn guitar thì Tiến Biên mang tới cây lead và cây bass. Ngoài mấy cái microphone của xứ, tôi tăng cường thêm 2 cái của Hồ Dệt Thống Nhất. Vẫn còn thiếu dàn trống! Biết có người em con bà cô ở Bình Trưng có dàn trống, tôi và Lâm chạy lên mượn và cột hết vào honda, chạy về.
Tất cả đã sẵn sàng !
Ngày thứ Năm Tuần Thánh
Trong thánh lễ, tôi dự định đưa cây sáo và violin vào phụ họa với ca đoàn, nhưng giờ phút chót Thiệu (chơi violin) không đến được vì phải lên Saigon chơi (cho một nhà dòng nào đó), chỉ còn lại một cây sáo. Khi tiếng sáo vang lên cùng với tiếng hát trầm bổng của các em thiếu nhi, đã làm cho cả nhà thờ ngạc nhiên bởi âm điệu ai oán sầu thảm của ngày thương khó, ngày mà cuộc chia ly bắt đầu, và hơn hết, lần đầu tiên giáo dân Bắc Dũng được nghe tiếng sáo trong nhà thờ. Lạ!
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh
Cũng như ngày thứ Năm, chủ đề vẫn là "sầu thương bi thảm" để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Đức Kitô, một ngày đại tang buồn thảm của Giáo Hội, ngày Chúa Giêsu chịu khổ hình và bị đóng đinh trên thập giá. Trong ngày hôm nay, ngoài cây sáo, tôi đưa thêm cây kèn clarinet vào. Khi tiếng sáo và clarinet quyện vào lẫn nhau, tạo nên một âm điệu mềm mại, ngọt dịu.
Trong ngày thứ sáu có phần rước kiệu chung quanh nhà thờ. Vì muốn Cha Thuyết sử dụng microphone trong khi đi rước, Công và 1 em nữa phụ trách leo lên mái tôn nhà thờ di chuyển cái loa sắt theo đoàn rước (bình thường mà leo lên mái tôn nhà thờ là bị ăn đòn), riêng Lâm thì thủ một cây clarinet đi theo đoàn kiệu.
Ngày Thứ Bảy
Thánh lễ hôm nay, ca đoàn tập trung ở phía bên trái của gian cung thánh. Vì số lượng nhạc công và nhạc cụ quá nhiều nên chúng tôi "chiếm" luôn hai hàng ghế đầu để có chỗ bày nhạc cụ và các nhạc công có chỗ đứng.
Thánh lễ ngày Thứ Bảy là thánh lễ có nhiều bài hát nhất. Ngoài những bài hát như thường lệ, còn có thêm 5 bài đọc, là 5 bài hát. Sau mỗi bài đọc, cả nhà thờ ngồi xuống, nhìn lên chúng tôi đang đứng ở bên cạnh gian cung thánh, như đang xem một buổi trình diễn Thánh Nhạc. Có những bản nhạc chúng tôi hát nhẹ nhàng, du dương cùng với tiếng saxophone, hay ngọt dịu thánh thót với clarinet, cũng có những bản nhạc hát trầm bổng, lên xuống dồn dập như nhạc kịch. Bản "Xuất Hành" (Vang Lên Muôn Lời Ca) của linh mục Hoàng Kim đã đưa người nghe về với Biển Đỏ, nơi ông Mosen dẫn dân Chúa vượt thoát sự truy đuổi của quân lính Ai Cập. Tiếng gõ mõ liên tục từ dàn trống làm người nghe cảm nhận được sự dồn dập của tiếng vó ngựa đang đuổi theo, và khi trumpet nổi lên, báo hiệu quân lính đã tới bao vây. Tiếng Cymbal chát chúa của dàn trống vang lên cũng là lúc người nghe "nhìn thấy" được Biển Đỏ đang bị xé làm đôi để dân Chúa vượt qua...
Ở một bài khác, khi tuyên xưng đức tin (Con tuyên xưng, Chúa đã chết đi...) tiếng Tambourine quyện lẫn tiếng Trumpet nói lên sự vui mừng của dân Chúa trong ngày vinh quang khi Chúa lại đến, "đón chúng con lên Trời về với Chúa Cha"
Để dễ gây sự chú ý, tôi thường cho các em hát solo hoặc song ca ở câu tiểu khúc, và đặc biệt, đây là lần đầu tiên ca đoàn được hát bằng hệ thống âm thanh chuyên nghiệp với loa thùng (thay vì loa sắt) và có gắn thêm một chút echo làm cho giọng trở nên hay hơn.
Cuối lễ, chúng tôi hát bài "Chúa Yêu Trần Thế" của linh mục Thành Tâm. Bản nhạc này thuộc thể loại vào đời, và chúng tôi hát theo điệu Twist. Thử tưởng tượng một điệu Twist kích động, với ban nhạc hùng hậu gồm đầy đủ trống, đàn, bass, clarinet, saxophone, Trumpet, Accordeon, Tambourine và keyboard... thì vui nhộn cỡ nào. Sự vui nhộn thể hiện rõ nhất trên khuôn mặt rạng rỡ của những em ca viên. Riêng mấy nhạc công, có lẽ đã phải chơi "cầm chừng" suốt buổi lễ, và chờ cho tới bản twist cuối cùng này, họ chơi... cuồng nhiệt. Thiệt là hết ý !
Bản nhạc kết đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người nghe. Sau thánh lễ, Cha Thuyết từ trong phòng áo bước ra, đi thẳng tới ca đoàn, cha hỏi:
-Hôm nay hát lễ có đã chưa ?
Cả đám chúng tôi cười.
Tháng 4 năm 1979, tôi rời Xóm Mới. Lênh đênh và lang thang khắp nơi. Từ Mã Lai đến Tokyo, Hoa Kỳ. Từ London đến Paris và Rome. Macao, Hong Kong đến Mexico, và rồi... biến mất một thời gian dài. 40 năm sau, anh em chúng tôi gặp lại trong buổi họp mặt tại Vĩnh Long. Tiếc rằng buổi họp mặt này không được đầy đủ, vì có người đã mất, người còn ở xa, người bệnh hoạn. Bù lại, "7 thằng Tây" ngày xưa, giờ có thêm 7 bà đầm, đứa nào tóc cũng bạc phơ. Những vật lộn với năm tháng đã hiện lên khuôn mặt của từng đứa. Điều quý nhất, là "7 thằng Tây" vẫn bên nhau như thuở nào, vẫn gặp nhau trong giờ kinh nguyện mỗi tháng, vẫn đi chơi dã ngoại, và hơn hết, vẫn coi nhau như anh em một nhà.
Cảm ơn các em đã cho anh cơ hội hồi tưởng lại những chuyện xưa. Cảm ơn các em đã gởi cho anh những tấm hình vô cùng quý giá.