Trên sông Máng, mùa Xuân 2019

Tân Yên - địa linh sinh dưỡng anh tài

Đình Vường, Chùa không Bụt, Đình Liên Bộ, Đình Chùa Lãn Tranh, Đình Chùa Vồng, Đình chùa Lợ... cùng với trên 300 di tích khác, đã vẽ nên hình ảnh một Tân Yên dày đặc những di tích của miền quê văn hóa. Cái văn hóa chân thực hàng ngày của một đời sống dân dã, đã được thể hiện qua các mảng điêu khắc tại đình Cao Thượng về vợ chồng hạnh phúc, bắt hổ, uống rượu.. Những mơ ước bình dị ấy cùng với triết lý sống đơn giản "Tiêu dao để tự tại", mà cha ông họ đã để lại - Quận công Giáp Đăng Luân, một vị quan thanh liêm dưới triều Lê - Trịnh, người đã ra sức giúp dân khai đất lập làng, ngày nay đang yên nghỉ tại lăng Phục Chân Đường, đã tạo nên Quán Chúc Đại Hóa, một lữ quán được người làng Chúc dựng lên ở đầu làng, dành cho khách bộ hành dừng chân, cho nông phu nghỉ ngơi sau những buổi vất vả ngoài đồng và là điểm vui chơi của trẻ nhỏ. Ngôi quán này tuy rất đơn sơ với 5 gian nhà gỗ, bào trơn đóng bén, nhưng lại ẩn chứa đạo lý hài hòa truyền thống của người Việt: thương người như thể thương thân.

Trải qua những thăng trầm của đất nước, từ Tống, Nguyên, Mông, Thanh, - ở thời bình, mảnh đất mang đậm truyền thống văn hóa này đã nảy sinh nhiều nhân tài nghĩa khí lưu danh, -ở thời binh lửa chiến tranh với phương Bắc, phương Tây, mảnh đất khí phách thượng võ Tân Yên đã xuất hiện nhiều anh hùng hiển hách võ công. Đất thiêng phát sinh nhân kiệt, Đình Hả là nơi khởi nguồn của phong trào nông dân Yên Thế đứng lên dựng cờ khởi nghĩa, và cũng là nơi các nghĩa quân hội tụ tế cờ mỗi khi ra trận. Hào khí của những nghi lễ tế ngựa, đua ngựa, bắn cung, bắn nỏ, bắn phết, múa võ, vật,... của cha ông ngày xưa, được con dân làng tái hiện hàng năm. Từ lễ hội của một làng xã nhỏ bé, lan rộng đến hàng Tổng, và nay vang xa khắp nơi.

Nói tới Tân Yên, người ta liên tưởng tới một miền quê đậm chất văn hóa, một địa linh sinh dưỡng anh tài, một vùng đất dày đặc di tích lịch sử... Ở nơi đó, có cái hùng vĩ của núi Dành với nhiều huyền tích, có cái cảm hứng miên man của dòng sông Thương trữ tình đầy ắp thơ ca, âm nhạc, là cái nguồn của rất nhiều tác phẩm nghệ thuật... Và hơn hết, cái hồn quê đơn sơ ấy đã len lỏi vào trái tim của du khách bốn phương, thôi thúc họ phải đến để thấy, để nghe, để nhớ và để lưu luyến mãi cái chân tình nhưng đầy khí phách của miền quê Yên Thế Hạ.

Riêng tôi, vẫn ước mơ một ngày nào đó, phải đến thăm đủ 300 di tích lịch sử của Tân Yên, phải tham dự tất cả các lễ hội, để cảm nhận cái hồn quê đậm chất văn hóa với quá nhiều điều kỳ thú.

Quê tôi là thế đấy !


Lễ Hội Đình Vồng

Đình Vồng thuộc xã Song Vân, huyện Tân Yên, Bắc Giang. Lễ hội đình Vồng gồm lực lượng chính của 4 xã: Song Vân, Ngọc Vân, Lam Cốt, Việt Ngọc của tổng Vân Cầu cũ. Ngoài ra còn một số xã khác xung quanh ở phía Tây của huyện tham gia. Lễ hội đình Vồng là một lễ hội có từ lâu đời. Hàng năm hội đình Vồng được tổ chức vào ngày 15 tháng giêng và ngày 9,10,11 tháng 9 âm lịch.

Trong ngày hội, người ta tổ chức tế lễ, rước sách và các môn thi, các trò chơi dân gian.

Đám rước trong hội đình Vồng được diễn ra với nghi thức trọng thể. Ngày 15 tổ chức rước 17 đạo sắc từ nhà để sắc ở làng Vân Cầu về đình. Đi đầu đoàn rước là một người đóng tướng. Người này phải được lựa chọn kỹ theo từng năm. Đó phải là người có gia đình toàn vẹn, có chức sắc trong làng và có uy tín trong dân, được mọi người quý trọng kính nể. Khi rước sắc về đến đình thì tổ chức tế lễ long trọng.

Trong hội đình Vòng xưa có tục tế ngựa rất uy nghiêm, có nhiều trò chơi, nhiều môn thi đấu thể thao dân gian giầu tính thượng võ như: Múa võ, vật, đua ngựa, bắn cung, bắn nỏ, bắn phết và nhiều trò chơi dân gian chọi gà, thi thả diều, thi thổi cơm, chạy chữ...

Đầu tiên phải kể đến cuộc thi đua ngựa được tổ chức rất chu đáo, có lề luật. Địa điểm diễn ra cuộc đua ngựa là con đường rộng chạy quanh một quả đồi. Trên đường đua được đặt trướng ngại vật là cây tre bắc cao ngang đầu ngựa. Sắp vào cuộc thi ông cai đám tiến ra điểm xuất phát có đặt hương án và cắm cờ, thắp hương làm lễ song rồi tuyên bố lý do và nổi trống đốt pháo hiệu. Khi có pháo hiệu nổ, hai kỵ sĩ điều khiển ngựa quần áo nai nịt gọn gàng, đầu chít khăn đỏ bỏ múi, ngang sườn thắt bao thúc ngựa tiến vào trường đua. Gần đến đích (Có vật chắn), người dự thi cúi gập người trên lưng ngựa vượt qua chướng ngại vật. Nếu ai nhanh hơn và không để rơi chướng ngại vật là người thắng cuộc.

Trong cuộc thi đua ngựa bắn cung thì đua ngựa là phụ, bắn cung là chính. Sân đua được dọn trên một bãi đất rộng. Gần đích là một nia quét vôi trắng, trong nia ấy vẽ ở tâm điểm một vòng tròn nhỏ bằng mực đen. Người ta chôn ba cây tre cao rồi treo ba cái nia như vậy lên ngọn tre. Sau khi có hiệu lệnh từng tốp ba kỵ sĩ ăn mặc gọn gàng, đeo cung tên phi quanh sân một vòng lấy đà đến khi cách đích khoảng 40m ( nơi có một vạch vôi trắng ) thì dừng ngựa và bắn cung. Nếu người nào bắn trong tâm cả ba phát thì được giải ông cai đám sẽ trao giải bằng cách vòng một vuông nhiễu điều vào cổ người đoạt giải rồi trao cho anh ta mọt đồng bạc, một bánh pháo và một gói chè.

Trong trò thi diều, người ta tổ chức thi hai loại : Diều loại to có sáo và diều loại nhỏ không có sáo. Ông cái đám cầm đầu ban chấm thi và điều hành cuộc thi. Từng nhóm ba diều vào xới. Một diều có người đâm ( phóng ) diều và một người ra dây. Sau khi cai đám tuyên bố lý do, pháo nổ rứt, các diều vun vút lao lên trời. Loại diều có sáo phải đạt các tiêu chuẩn: Diều to, lên cao và lên thẳng, không trao đảo, sáo kêu đều và hay thì được giải theo thứ tự nhất, nhì, ba. Hội thi thả diều thu hút rất đông người đến dự và cổ vũ.

Hội đình Vồng được tổ chức long trọng, vui vẻ trong ba bốn ngày đêm. Ở hội đình Vồng ngoài việc diễn các tích trò còn tổ chức thi hát đối đáp giữa các gánh hát trong vùng và các nơi khác đến biểu diễn khiến không khí lễ hội càng thêm hấp dẫn.

(Nguồn: wiki.youvivu.com)


Lễ hội đền Dành

được tổ chức trong 2 ngày 19 và 20 tháng Giêng hàng năm, tại xã Việt Lập và Liên Chung, huyện Tân Yên.

Núi Dành hay còn gọi là núi Chung Sơn, là một khối núi lớn ở phía đông huyện Tân Yên. Thế núi uyển chuyển hùng vỹ, đỉnh cao nhất của núi cách mặt nước biển đến hàng trăm mét. Đền Dành toạ lạc trên đỉnh núi Dành, đền có từ thời Lê, trải qua nhiều lần trùng tu xây dựng. Tại đây thờ đức thánh Cao Sơn- Quý Minh, những người có công giúp vua Hùng Vương thứ 18 đánh giặc giữ nước. Nằm trong quần thể di tích, ngoài đền Dành còn có Đình Vường ở thôn Hậu, tên chữ là đình Thịnh Vượng. Đây là ngôi đình đẹp, thế kỷ XVIII và là 1 trong 3 ngôi đình nguyên mẫu của tỉnh ta được được Bộ VH- TT công nhận di tích lịch sử ngày 25.1.1991. Cạnh đó là Chùa Không bụt, tên chữ là Cống phường tự, được công nhận Di tích lịch sử văn hóa năm 2008. Đền Dành trên đỉnh núi có độ cao 117 m, xung quanh đều là thông, bạch đàn xanh tốt, ngay dưới chân núi là giếng nhỏ có tên mũi voi. Tương truyền: Giếng không bao giờ cạn, xung quanh ngọn núi tồn tại nhiều câu chuyện dân gian. Đền Dành xưa là ngôi đền nhỏ cột làm bằng đá vôi tròn, được xây dựng từ thời Lê, thế kỷ 18.

Lễ hội Núi Dành (Hình baoquangninh.com.vn)

Lễ hội đền Dành là một trong những lễ hội tiêu biểu thể hiện những nét đặc trưng văn hóa truyền thống của Liên Chung. Đền thờ Cao sơn Quí minh thượng đẳng thần và di tích này được công nhận Di tích LSVH.

Lễ hội đền Dành được tổ chức vào ngày 19, 20 tháng giêng hàng năm. So với nhiều đình, đền khác, đền Dành không có gì đặc biệt ở kiến trúc hay quy mô đồ sộ, song hàng năm lượng khách thập phương đến thăm quan vẫn rất đông, nhất là thanh niên nam nữ đến cầu tình duyên. Có lẽ chính bởi phong cảnh núi non kỳ vỹ nên thơ và tương truyền về sự linh thiêng của đền Dành.

Mở đầu lễ hội là lễ tế thần cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, người người khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc, thôn xóm thuận hòa bình yên.

Nét đặc sắc của Phần lễ luôn thu hút đông đảo người dân tham dự là màn rước thánh hùng tráng từ đình Vường lên đền Dành và ngược lại.

Trong hai ngày hội diễn ra các trò chơi dân gian đặc sắc như: Vật tự do, thổi cơm thi, kéo co, bóng chuyền, giao lưu văn nghệ… du khách có thể vừa xem hội vừa tham gia các trò chơi.

Lễ hội đền Dành là dịp để nhân dân hướng về cội nguồn, tưởng nhớ tôn vinh các bậc hiền tài, những người có nhiều công lao với cộng đồng. Trảy hội đền Dành là dịp để quý khách gần xa tham quan vãn cảnh đền Dành.

(Nguồn: wiki.youvivu.com)


Lễ Hội đình Hả (Hình: vietlandmarks.com)

Lễ hội đình Hả

Mở ra ở đình làng Hả, xã Tân Trung, huyện Tân Yên vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch, trùng với ngày hội ở Phồn Xương - Yên Thế.

Đình Hả, có tên là “Thọ Linh đình”, nằm trên đồi Đình, thuộc làng Hả, xã Tân Trung. huyện Tân Yên.

Ngày 16 tháng giêng Âm lịch hàng năm, người dân khắp nơi đổ về đình làng Hả để tham dự Lễ Hội Đình Hả, nhằm tưởng nhớ vị anh hùng Lương Văn Nắm - thủ lĩnh đầu tiên của phong trào nông dân Yên Thế đứng lên chống lại thực dân Pháp.

Vào tháng 11 năm 1880, Đề Nắm đã tập hợp một số nghĩa quân chống lại trận càn quét của quân Pháp tại Cao Thượng. Đây là trận chiến thắng vẻ vang đã tạo uy thế cho Đề Nắm. Đến cuối năm 1891, nghĩa quân Đề Nắm đã làm chủ hầu hết vùng Yên Thế, mở rộng địa bàn hoạt động ra tới Phủ Lạng Thương (Thành phố Bắc Giang ngày nay)

Vào năm 1884, trong chiến dịch đánh chiếm Bắc Ninh, Bắc Giang, chạy dài lên tới Thái Nguyên, trên đường đi, thực dân Pháp đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của Nghĩa Quân Đề Nắm tại Tỉnh đạo (Quang Tiến, Yên Thế ngày nay) Sau đợt này, Đề Nắm kéo quân về đình Hả, làm lễ tế cờ chính thức phát động cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế vào ngày 16.3.1884.

Cuối tháng 3 năm 1892, Pháp huy động một lực lượng với trên 2.200 quân bao gồm nhiều binh chủng (công binh, pháo binh...) do đích thân tướng Voyron chỉ huy, đã ào ạt tấn công vào căn cứ nghĩa quân của Đề Nắm. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch chiến đã phải rút khỏi căn cứ, ẩn sâu trong các cánh rừng. Từ đó, lực lượng nghĩa quân ngày càng suy yếu, khó khăn chồng chất, một số thủ lĩnh ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có Đề Nắm bị giết vào tháng 4-1892. (Về cái chết của ông, có hai giả thiết. Giả thiết thứ nhất cho rằng Đề Nắm đã hi sinh khi chiến đấu với địch. Giả thiết thứ hai, theo truyền thuyết dân gian, cho rằng ông bị Đề Sặt sát hại bằng thuốc độc) Sau khi Đề Nắm bị sát hại, Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) lên thay, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Lễ Hội đình Hả (Hình: vietlandmarks.com)

Lễ Hội đình Hả (Hình: vietlandmarks.com)

Lễ hội đình Hả mang tầm vóc lớn, là một lễ hội nổi tiếng khắp nơi, trong và ngoài tỉnh Bắc Giang. Trong lễ hội, người dân long trọng tổ chức dâng hương để tưởng nhớ công lao của anh hùng Đề Nắm và các nghĩa quân đã hy sinh. Trong đình có một pho tượng của Lương Văn Nắm, được đặt ở gian giữa và tôn thờ ông như một vị thành Hoàng. Sau phần dâng hương, là nghi thức dựng lại tích lễ tế cờ khởi nghĩa năm xưa của Thủ lĩnh Lương Văn Nắm với xe ngựa cùng đội kỳ lân, vừa chạy, vừa đánh trống, múa kỳ... khói hương nghi ngút giữa tiếng súng thần công ầm vang, đoàn kỵ mã cả trăm con, từ đinh Hả tiến về trung tâm lễ hội Phồn Xương. Đây là đường làng ven đồi, chen lẫn những lũy tre xanh. Lính kỵ mã mặc quần áo nâu, đầu và bụng chít khăn đỏ, người cầm cung, kẻ cầm giáo, cầm kiếm, người cầm súng, kẻ cầm cờ thúc ngựa tiến bước giữa khí thế tưng bừng náo nhiệt của ngày hội.

Dưới đây là một số hình ảnh trong ngày Khai hội đình Hả: Tái hiện lễ tế cờ khởi nghĩa Yên Thế, được đăng trên Lao Động online ngày 15.2.2014:


(Hình wiki.youvivu.com)

(Hình: moitruongvadothi.vn)

Hội cướp cầu mừng Xuân

Hàng năm, cứ vào tháng giêng âm lịch, các làng Ngọc Cục (Việt Ngọc), kép Thượng (Lam Cốt), Phúc Lễ (Phúc Hòa), Làng Lý (Ngọc Lý)... thuộc miền hạ Yên Thế, nay là huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, mở hội cướp cầu mừng xuân.

Hình thức tổ chức tùy theo làng lớn, làng nhỏ mà cách làm khác nhau. Làng nhỏ chia làm 2 giáp, làng vừa thì 4 giáp, theo lượng người mà phân chia. Những trai đinh dự thi thường là người cường tráng, nhanh nhẹn. Hình thức trang phục tùy thuộc sự quy định của từng làng. Có làng người dự thi cởi trần, đóng khố lụa đủ màu sắc xanh đỏ sặc sỡ, tay cầm một chiếc móc có cán dài. Có làng lại để cho trai đinh mặc quần áo, chít khăn màu trên đầu, ngang lưng thắt bao lụa các màu rực rỡ, tay không dùng để cướp cầu.

Ðịa điểm làm nơi cướp cầu có khi là sân đình là bãi rộng cửa đình, hay bãi rộng bên đình. Vào giờ lễ hội cướp cầu, trai đinh các giáp vạm vỡ trong trang phục nhiều màu sắc rực rõ, chắc khỏe, đứng tề chỉnh, trang nghiêm trước sân đình với khí thế hừng hực, quyết thắng.

Quả cầu được sơn son thiếp vàng, màu sắc rực rỡ, hấp dẫn. Khi hiệu lênh bắt đầu, Trai các giáp xô nhau cướp, ngăn chặn, luồn lách tranh cướp lấy cầu đỏ ôm được vào lòng. Ðây là cả một sự vật lộn, tranh giành, đua chen khá quyết liệt, đòi hỏi không chỉ có lực, mà còn phải có trí, có mưu, dũng mãnh mới mong giành phần thắng. Trong khi đó, chiêng trống của làng giục giã liên hồi, rộn ràng, sôi nổi, dân làng của các giáp đứng quanh đông đảo vòng trong, vòng ngoài.

Cuối cùng, trai đinh giáp nào cướp được cầu, ôm lấy, chạy vào đặt được trong cung đình là thắng cuộc. Cuối cùng, quả cầu được đặt đúng vị trí tôn nghiêm. Cả giáp, cả làng, cả hội đều vui sướng. Chiêng trống rền vang dồn dập, liên hồi, người người già trẻ gái trai reo hò vang cầu trường. Giáp thắng cuộc được làng thưởng và mừng vì năm ấy cả làng, cả giáp gặp may, bình an, làm ăn phát đạt, giàu sang, thịnh vượng.

(nguồn: wiki.youvivu.com)


Hội chùa Thú

Hội chùa Thú được mở ra vào ngày 21 tháng giêng và ngày 19 tháng ba âm lịch hàng năm.

Khu chùa này nằm ở sườn núi Thú thuộc thôn Cầu Cần, xã Việt Lập, huyện Tân Yên. Nguyên trước đây chùa Thú thuộc xã Tuy Lộc Sơn, tổng Tuy Lộc Sơn, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang. Theo cây hương đá trước cửa chùa “Nhất đạo sỹ hưng công thiên đài Phán Thú tự phụng phật” niên hiệu Vĩnh Thịnh thời Lê (1075-1715) thì ngôi chùa này có tên chữ là “Phán Thú tự” . Toàn bộ khu chùa có các công trình: Tiền đường, Tam bảo, Thái bảo từ các phán thú từ cung sân vườn rộng rãi trong một tổng thể thống nhất.

Chùa nằm trên sườn bằng phẳng của một dải đồi phát ra từ núi chùa. Cũng có người gọi núi này là núi Phượng Hoàng- Thế núi khá lớn, có nhiều mạch núi nhỏ phát ra bao bọc lây khu núi chùa Phán Thú. Đây là khu núi đất, sỏi đá lẫn với đất khô vằn bạc màu. Núi này đang được cải tạo thành rừng đồi trồng cây ăn quả và cây lấy gỗ. Đây cũng là quả núi nằm bên núi Dành bên bờ sông Thương. Do đó tuy núi ít cây nhưng cảnh sắc vẫn có cái cảnh hữu tình của miền đất trung du Yên Thế.

Lên tới chùa Thú có thể bao quát gần hết các làng xóm của xã Việt Lập. Trước chùa là làng Nội, thôn Cầu Cần và các làng của xã Cao Thượng. Bên phải chùa là mạch núi chùa phát ra bao lấy cánh phải núi chùa. Bên trái cũng có mạch núi ôm lấy núi nhưng vẫn có thể thấy rõ các làng Ngò, làng Um, làng Khoát. Nếu leo lên núi ở phía sau chùa thì có thể thấy hết phía tây núi Dành với các làng Hậu, Lãn Tranh và dòng sông Thương. Do ở vị thế như vậy nên cảnh quan chùa Thú rất thuận lợi cho việc mở hội và tham quan vãng cảnh.

Trước đây ngôi chùa Thú được đặt ở nơi không có cư dân, do đó cảnh chùa rất u tịch thanh vắng. Gần đây cư dân làng Um, làng Khoát, Cầu Cần... ra cư trú đông dần lên đến nay ven các chân đồi núi cũng có chừng hai chục nóc nhà. Các hộ gia đình ấy sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng và phát triển kinh tế vườn đồi. Vì thế trên đất các hộ cư trú, cây cối được trồng và chăm sóc tươi tốt, tạo cảnh quan môi trường sạch đẹp cho núi Chùa.

Chùa Thú làm theo kiểu chữ đinh. Phía trước là tòa Tiền đường năm gian. Phía sau là tòa Tam bảo ba gian nối liền với tiền Hội đường. Kết cấu kiến trúc của chùa theo lối kẻ truyền, không chạm khắc cầu kỳ. Cả hai tòa nhà này đều được bày tượng phật. Nhìn chung các tượng phật ở chùa Thú đều là các tác phẩm nghệ thuật đẹp. Duy có điều lạ là: Ở bên hồi trong chùa, có tượng quan sơn thần và một con ngựa Sơn son. Trong khu vực chùa có nhiều bia đá, bảng gỗ khắc chữ nho cho biết quá trình xây dựng chùa của con người ở nơi đây. Đó là những nét riêng để mỗi người tới chùa Thú được chiêm ngường. Hội chùa Thú trước đây do 21 thôn cùng tham gia tổ chức, đó là các thôn Bãi Giã, Bờ Gàn, Cầu Cát, Cầu Cần Con Qui làng. Đồng Cựu, Đồng Lãi, Đồng Lâm, Đồng Lõm, Đồng Ve, Dốc Gia, làng Um, làng Đông, làng Khoát, làng Nguyền, Ngò, làng Bái, Mả Đình, Mả Ngồi, núi Hương. Trong đó 4 làng: Um, Khoát, Nguyễn, Ngò là chính.

Mỗi năm chùa có hai lần hội. Hội xuân vào ngày 21 tháng 1 âm lịch và hội cuối xuân vào ngày 19 tháng 3 âm lịch. Trong ngày hội 21 tháng giêng, nhân dân các làng các xã lân cận từ các ngả kéo về làm lễ dâng hương cúng Phật cúng quan Phán Thú và quan Thái Bảo (triều Lê). Lễ dâng hương của các đoàn chủ yếu là lễ chay, hoa quả, đèn hương... Các bà vãi, các đoàn đi quy của các bản tự thành tâm dâng lễ, tụng kinh, cầu tài, cầu lộc, cầu bình yên cho gia đình, xã hội. Trước đây trong hội chùa Thú có tục đua ngựa, nay không còn. Sách Địa chí Tản Yên chép rằng: “Đua ngựa diễn ra vào mùa xuân, dân làng vào đám mở hội. Các cuộc đua coi là sân quần ngựa, nằm trên khoảng đất rộng trước đình Lý Cốt (Phuc Son), chùa Thú (Việt Lập), xóm Khủa (Tân Trung). Sân quần ngựa là một đường rộng chạy quanh một quả đồi, trên đường đua đặt một chướng ngại vật là cầu tre ngang cao bằng đầu ngựa. Sắp vào cuộc thi, ông Cai tiến ra điểm xuất phát có đặt hương án và đầm cờ. Ông thắp hương làm lễ, tuyên bố lý do rồi nổi trống đốt pháo do 2 kỵ sỹ điều khiển, áo quần nai nịt gọn gàng, đầu chít khăn, ngang sườn thắt bao. Pháo nổ vừa xong, hai chàng kỵ mã thúc ngựa lao vào trường đua. Đến chỗ vật chắn (gần đích) người dự thi cúi rạp mình thúc ngựa vượt qua chướng ngại vật. Ai nhanh hơn lại không làm rơi vật chắn là thắng cuộc.

Tiếng đồn chùa Thú vui thay

Bên kia Hương, Hậu bên đây Cầu Cần

Có đường quần ngựa vui xuân

Thi diều, đốt pháo thôn dân tưng bừng.

Hội thi diều tiêu biểu nhất trong vùng cũng đã từng diễn tại chùa Thú. Mùa xuân mở hội thi hai loại diều. Diều loại có sáo và diều loại nhỏ không có sáo. Ông cai đám cầm đầu bên chấm thi và điều hành cuộc thi. Từng nhóm ba diều vào xới. Mỗi diều có một người đâm (phóng) diều và một người ra dây. Sau khi cai đám tuyên bố lý do, pháo nổ dứt, các diều vun vút lao lên. Loại diều có sáo phải đạt ba tiêu chuẩn: Diều to, lên cao và lên thẳng, không chao đảo, sáo kêu đều và hay thi được giải theo thứ tự nhất, nhì, ba. Hội thả diều rất đông người dự và cổ vũ.

Ngày 21/3 âm lịch năm 1994 hội thi diều lại được mở tại chùa Thú”. Đối chiếu với ngày hội lệ ghi trong “Nguyên môn bi ký” ở chùa Thú thì ngày hội 21/3 /1994 có thể chênh với ngày hội 9/3 âm lịch hàng năm ở chùa này. Tuy thế việc đó cũng không ảnh hưởng gì tới hội thi diều vì thời tiết cuối xuân sang hè lúc này rất thuận lợi cho việc thả diều. Thả diều hay chơi diều là một thú vui của mọi người dân ở các làng quê Bắc Giang, song chơi diều có sới như ở chùa Thú thì ít nơi có được.

Để có được cánh diều vào cuộc thi, người chơi phải bỏ ra rất nhiều công phu làm diều, làm sáo, làm dây diều. Cánh diều ở nhiều cỡ. Loại to sải cánh từ lm2 đến lm5. Khung diều phải chọn tre nuột, đốt dài chẻ ra, vót đòng đòng đều nhau rồi buộc vào cái diều cân đối, không được xiên lệch.

Khi néo dây giữa cánh diều cũng phải cho hai đầu cánh cân đề để khi dán giấy có chỗ chứa gió đẩy diều bay lên. Chỉ xê dịch đôi chút thì diều sẽ thành diều cánh bầu hay cánh cắt Nế thành diều cánh bầu thì diều lèn đều không chao đảo lên hết tầm gió dưới thì diều sẽ đậu im trên không. Nếu cái diều ngắn thì thành diều cánh cắt khi đâm sẽ lao vút lên cao đòi dây ngay, nếu không kịp thả dây, diều sẽ chao đảo giật dây dử bị lộn lèo rồi bổ xuống đất.

Diều xưa lam khung xong thì dán giấy bản. Giấy bản khổ to thì đở phải can nối; nhưng loại giấy đó khó kiếm, khó tìm. Khi dán diều phải dùng loại hồ tốt, quấn kv. Những người cẩn thận, kỹ tính thì trước đó đi lấy nhựa sung, nhựa đa, nhựa thông... rồi đem về luyện thành keo dán mưa gió khó lòng làm bong được giấy. Diều được can dán xong, lại phải lấy nước củ nâu, quả cậy quét bôi lên mặt giấy để sương gió mưa nắng không làm rách được giấy.

Dán xong diều lại phải dán đuôi. Đuôi nhỏ thì diều nặng chúi đầu; đuôi to thì diều nghênh. Do đó việc làm đuôi cho đúng để diều đậu là phải có kinh nghiệm. Diều đeo sáo không cứ to nhỏ. Diều to thì sáo to, diều nhỏ thì sáo nhỏ. Có diều đeo hai sáo, có diều đeo một sáo. Sáo diều không phải ai cũng biết làm. Ai không biết làm sáo thì chơi diều không có sáo. Không sáo thì làm ve cũng được. Ve là loại lạt giang vót mỏng buộc căng cánh cung, gắn vào diều, khi diều lên gió thổi ve phát tiếng kêu, âm thanh ve ve không âm sáo.

Sáo diều là loại nhạc cụ tự phát âm thanh khi có gió thổi vào lỗ sáo. Muốn có sáo diều, người chơi diều phải chọn ống tre ống nứa làm thân sáo. Thân sáo to nhỏ tuỳ thuộc vào diều của chủ diều. Ống tre làm thân sáo phải bỏ hết phần cật ngoài. Sau đó dùi lỗ chắn que ngang chia sáo thành hai phần. Chỗ chắn ngang phải dùng giấy quyện nhựa bịt kin chắc chắn. Miệng sáo làm bằng mắt gạo già, to. Có mắt gạo rồi thì khoét miệng sáo. Cái khó nhất của việc làm sáo diều chính là kỹ thuật khoét miệng. Đây là chỗ gió vào, gió ra cho âm thanh tạo nên, trong hay đục, êm hay không êm cũng ở miệng sáo cả. Khi sáo làm xong thì gắn gá vào diều. Sáo đặt ở đầu diều trông rất hiên ngang, khi có gió thổi, diều được đâm lên, tiếng sáo “đu... đu” phát ra tức khắc. Tiếng sáo diều lên cao thanh bình, khúc nhạc đồng quê chính là như thế.

Chơi diều phải biết chọn hay làm dây. Dây có dây gai, dây tre. Dây gai ít có loại to nên chỉ chơi diều nhỏ. Nếu là diều to phải có dây đay vỏng hoặc dây tre. Mua được dây đay võng dài rất khó, mà dùng không được mấy vụ. Cho nên người sành choi diều thường làm dây tre. Dây tre phải có loại tre cái dóng dài và nuột. Loại tre bánh tẻ, chẻ ra thành từng sợi, cả cày tre. Loại dây này không phải dây chẻ nghiêng lẫn cả cật với ruột, mà chỉ lấy cật. Mặt cật làm dây rộng độ 4 ly, 5 Khi lây cật ra phải vót các cạnh cho dẹt hai đầu. Khi đã đủ dây (vài trăm mét) thì cuộn lại cho vào vạc nước muối luộc kỹ cho dây đủ độ dẻo rồi nối vào với nhau. Loại diều to, diều sáo phải dùng dây này mới không sợ đứt dây diều.

Cuối tháng ba, sắp sang hè, lúc ấy cũng đã có mưa rào trời cũng đã trong sáng, gió nam cũng đã thổi đều làm làm diều sáo các làng quê vi vu trên không rất êm đềm thi vị. Hội diều ở chùa Thú được mở ra trong không khí ấy, rất vui. Khi diều đã lên, đã đậu mọi người ngồi vui ngắm diều, uống trà uống rượu nói chuyện vị quan Phán Thú với biết bao suy ngẫm ly kỳ hư hư thực thực đầy chất dân gian độc đáo.

(Nguồn: tanyen.bacgiang.gov.vn)