Văn 4

- DÒNG THỜI GIAN...

- XUÂN SỚM

- THOÁNG HƯƠNG NGÀY CŨ

DÒNG THỜI GIAN…

Tháng 12, 1979

Thế là tôi đã bắt đầu những ngày tháng mới - những ngày làm học trò tưởng rằng đã chấm dứt từ lâu- bằng cái âm thanh rộn ràng náo nức của những ngày cuối năm, bằng cái lạnh se sắt của buổi giao mùa và như thế trong tôi có biết bao điều thay đổi. Nhớ hôm nào báo cho anh biết dự định đi học lại, anh đã nheo mắt cười trêu ghẹo: “Làm học trò… già không dễ như làm cô giáo… trẻ đâu nhé!”. Ừ,… để rồi xem, có phải là anh sẽ phát ghen lên vì những điều mà tôi sắp kể cho anh nghe bây giờ không?

Ngày đầu tiên đến trường không phải để làm cô giáo như mọi khi, tôi cứ nghĩ mình đã lầm lẫn mất rồi! Cái cảm giác lẻ loi, xa lạ lúc ấy mới thật là buồn bã làm sao! Hơn cả lần đầu theo mẹ cắp sách đến trường, đứng nhìn bóng mẹ ra về, rồi khóc òa lên, ngày đó tôi còn trẻ con quá. Nhưng bây giờ, ai lại làm thế anh nhỉ? Đôi lúc câu nói đùa của anh lại khiến tôi suy nghĩ: “Ừ, làm học trò… già, phiền quá nhỉ?” (cứ như mình chưa bao giờ làm học trò vậy!). Rồi những ngày sau đó lại nhớ bảng đen, phấn trắng, nhớ học trò và bạn bè quay quắt. Có lắm lúc tôi tự hỏi: Liệu tôi có thể quen được với bao nhiêu thứ mới mẻ ở đây không khi lòng tôi luôn hướng về chốn cũ?

“Sống không phải là đứng yên trong hiện tại hoặc bước lui về quá khứ mà sống là phải luôn hướng về, tiến tới tương lai.”. Bọn mình vẫn thường nói với nhau như thế phải không anh? Cuộc sống quanh ta đang rộn ràng, sôi nổi. Mọi người quanh ta vẫn lạc quan yêu đời, vả chăng tôi còn phải chuẩn bị cho lúc trở về trên bục giảng, với học trò thế nào cho thật xứng đáng nữa chứ! Vì thế, tôi đã tự tìm ra câu trả lời cho chính mình rồi.

Thật vậy, bên tôi bây giờ là trường lớp mới không còn xa lạ, là bạn bè chưa quen đã trở thành gần gũi vô cùng. Tôi còn có gì để mong đợi và ước ao hơn?

Anh có hình dung được những sáng sớm tôi cuống quýt đạp xe đến trường cho kịp giờ vào học - kỷ luật quân sự mà! vì bọn tôi đang ở trong tuần thứ ba của đợt quân sự học đường- . Những hôm trời lạnh cóng tay hoặc nắng nhìn rát mặt mà trên bãi tập vẫn vang tiếng cười dòn tan, tiếng hát yêu đời của những người tuổi trẻ thì anh mới hiểu niềm vui và hạnh phúc mà tôi đang có lớn lao biết dường nào.

Chắc anh sẽ rất hài lòng khi biết rằng tôi đang sung sướng, mọi hạnh phúc của đời người thường bắt nguồn từ tuổi trẻ và niềm tin vào cuộc sống. Tôi rất yêu cuộc sống, cũng như yêu gia đình, bạn bè, học trò, yêu nghề giáo của chúng ta. Còn tuổi trẻ, anh thấy không tuổi trẻ của chúng ta đáng tin cậy lắm chứ! Huống chi quanh chúng ta bây giờ có biết bao sức hút của sự sống từ cánh cửa tâm hồn cho đến chân trời trí tuệ.

Anh ạ, dù gì mùa Xuân cũng đang trở về tung hương trong gió, dù gì thì thời khắc cũng có những lúc mây trời chợt nhẹ thênh thang, nỗi hân hoan tràn đầy trong lòng tôi hôm nay chắc sẽ giống như những nụ cười tin yêu, hạnh phúc của anh và các bạn đang nở ra rực rỡ từ trên bục giảng khi nhìn xuống đàn trò nhỏ đang náo nức, say sưa tìm đến cuộc đời. Hãy nói với tôi rằng: rất chờ mong và tin tưởng vào những ngày tháng sắp tới của tôi sau này, mãi mãi… Bởi vì trong quá khứ, chúng ta đã có đầy đủ những nỗi ngọt ngào lẫn đắng cay vì hạnh phúc như nhau và hiện tại không cần hò hẹn, chúng ta cũng đã có chung một con đường hướng tới tương lai rồi anh nhỉ?

*******

Tháng 4, 1981.

Tôi đã viết như thế cho bài báo tường đầu tiên, sau khi rời Trung Học Long Thành để trở về làm học trò trường CĐ Sư Phạm theo đúng “biên chế” nhà nước dành cho các giáo viên cũ không qua Sư Phạm. Còn viết cho anh, có phải tôi định viết cho anh không? Vì chúng ta đã không còn liên lạc nhau sau khi tôi đi học Sư Phạm được vài tháng, rồi anh thuyên chuyển về Sài Gòn và cùng gia đình vượt biên, mất tin tức. Thuở ấy, chúng ta còn quá trẻ để nhận ra đâu là ước mơ, là lý tưởng đích thực. Thời gian đầu sau biến cố 75, chúng ta đã mang hoài bão của tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, dấn thân vào đời với đôi mắt rực rỡ niềm tin và hy vọng. Chúng ta đã nhiệt thành, lao vào mọi sinh hoạt học đường để mong xây dựng một xã hội mới. Dần dần, từ một sinh viên Văn Khoa, vừa đi học đầu tuần vừa là giáo sư dạy giờ trong những ngày cuối tuần trước năm 75, bỗng dưng thành một “giáo viên nhân dân”, giảng dạy những kiến thức, tư tưởng mà chúng ta chưa bao giờ được nghe, được học. Chấp nhận sống, thở và nói như một cái máy, không thể nói khác, nói ngược, thực tế và lý thuyết là khoảng cách giữa bờ và vực. Thêm mỗi ngày chứng kiến nhiều cảnh đời bất an, khốn khó … càng thấy ước mơ lùi dần, tuổi trẻ hư hao, nên càng yêu nghề giáo bao nhiêu anh và tôi lại càng mong được thoát ra khỏi cảnh đời trái ngang trước mặt bấy nhiêu.

Vì thế, dù chỉ còn hơn 1 tháng sẽ hoàn tất các lớp thực tập để trở về cùng với học trò, bảng đen, phấn trắng tôi đã hăm hở khi mẹ gọi về nhà để chuẩn bị ra đi cùng đứa em trai 12 tuổi.

Thế là, từ đó nhánh sông đời đã rẽ sang hướng khác. Tôi đến trại tị nạn Ga Lăng, Indonesia vào những ngày cuối tháng Tư, sau một tuần lênh đênh trên biển, dật dờ giữa sự sống và chết. Bước hoang mang những bước đầu tiên khi chân chạm miền đất lạ, chợt nghe lòng thổn thức, xót xa vì biết từ nay, vĩnh viễn sẽ không còn dịp để quay về. Có những chiều lang thang trên các con dốc dẫn về barrack 40, những câu hát trong bài “Thuyền Viễn Xứ” bỗng dưng chảy tràn trên môi, rưng rưng khóe mắt, quặn thắt cõi lòng:

“…Nhìn về đường cố lý,

cố lý xa xôi.

Ðời nhịp sầu lỡ bước,

bước hoang mang rồi.

Quay lại hướng làng.

Ðà Giang lệ ướt nồng

Mẹ già ngồi im bóng.

Mái tóc sương mong con bạc lòng …”

Đôi khi, ngồi một mình nhìn chung quanh toàn những người xa lạ, tôi đau đớn nhận ra cuộc sinh ly “nghìn trùng xa cách” mới thật là thê lương! Lời nhạc trong “Tình Khúc thứ nhất” của Vũ Thành An lúc đó bỗng nhiên gần gũi và trở thành niềm khát khao của kẻ biệt xứ mỗi khi nhớ nhà: “Ngày về quê xa lắc lê thê, Trót nghe theo lời u mê…Trầm mình trong hương đốt hơi bay. Mong tìm ra phút sum vầy.”

Mãi đến hai tháng sau, niềm vui mới trở về, khi tôi bắt đầu đi làm thiện nguyện buổi sáng ở Day Care Center, trông coi các em bé từ 2 đến 5 tuổi và dạy môn Việt Văn cho các em thiếu niên buổi chiều ở Trung Tâm Việt Ngữ trên đảo. Thời gian không còn là những giờ khắc trống rỗng, vô nghĩa nữa. Mỗi ngày, nhìn thấy những khuôn mặt trẻ thơ, những ánh mắt thiên thần, trong veo của đàn trò nhỏ, tôi lại thấy yêu đời, yêu người nhiều hơn. Đôi lúc nhớ đến anh và những ngày tháng cũ trên bục giảng đã xa khuất bên kia đời… tôi thấy mình vẫn còn hạnh phúc tràn đầy với giấc mơ nghề giáo dở dang như đang dần sống lại. Đứa em trai cũng theo chị vào lớp học, thêm bạn bè, người quen… Cả hai chị em đã hòa mình vào một cuộc sống mới, an phận chờ ngày định cư.

Nghề giáo như một định mệnh, cứ quanh quẩn đâu đó rồi lại tìm đến bên tôi, nhắc nhở, thì thầm… Một lần tình cờ có người bạn đến thăm mang theo 1 quyển báo cũ, dường như đã phát hành trước đó vài năm trên đảo, trong giờ nghĩ của lớp, tôi mượn và mở ra xem vội vài trang, bất chợt gặp bài thơ thật tuyệt! Bài thơ với hình ảnh rất nhẹ nhàng, dễ thương như nói hộ tâm tình của những người có một thời đứng trên bục giảng như tôi, như anh… mà nay chỉ còn là kỷ niệm đã khiến tôi cảm động đến nao lòng. Tôi chép vội lại trong quyển sổ tay và không hiểu sao lại quên ghi tựa bài mà chỉ ghi tên tác giả, bài thơ đến giờ vẫn còn gợi niềm xao xuyến trong tôi mỗi khi nhớ đến:

“Buồn ta không nhà,

Đêm nghe mưa qua

Lòng ơi rất nhớ

Những ngày đã xa

Mưa trên phố cũ

Mưa trên mái xưa

Lòng ơi tưởng nhớ

Những buổi giao mùa

Ta ngồi trong lớp

Học trò mắt đen

Giòng mưa áo trắng

Học trò áo len

Cười hoài nụ nhỏ

Thầy trò rất quen…

Ta giờ nhớ mãi

Các em áo bay

Giờ ta mới biết

Buồn dài hơn say…

Gió ơi tha thiết

Bay mãi một đời

Chiều ơi, chiều ơi!”

(Bùi Vĩnh Phúc)

Không biết đây có phải là nhà văn Bùi Vĩnh Phúc mà dạo còn đi học tôi đã từng là độc giả hâm mộ những bài viết của ông đăng trên báo Tuổi Ngọc hay chăng? Nhưng ở một nơi xa quê hương cả nửa vòng trái đất thế này bỗng dưng được đọc một bài thơ đúng với tâm trạng của mình thật không còn gì tuyệt vời hơn!

Tôi an vui với công việc trên đảo cho đến ngày lên tàu rời Indo tới Singapore để đáp chuyến bay sang Mỹ đoàn tụ với các em cuối tháng 10, năm 1981.

Giã từ Ga Lăng “ngưỡng cửa của tự do và tình người”, tôi lên đường mang theo những ánh mắt thơ ngây và nụ cười của các em trong mớ hành trang trĩu đầy kỷ niệm.

*****

Tháng 9, 1994

Không ngờ sau hơn mười mấy năm sống trên đất Mỹ, tốt nghiệp 2 năm với mảnh bằng AS về Electronic, 1 năm Certificate về Medical Assistance và sau khi đã “lên thác xuống ghềnh” với đủ các job, qua bao nhiêu hãng điện tử… tôi lại trở về với nghề giáo của mình.

Lúc này, chương trình ODP ngày càng mở rộng, số người Việt qua Mỹ theo diện đoàn tụ ngày càng đông, địa phương nơi tôi ở là một thành phố nhỏ thuộc quận Los Angeles, nhưng mật độ cư dân người Việt đã chiếm gần ¼ dân số, đứng hàng thứ nhì sau cư dân gốc Mễ. Các chương trình Song ngữ (Bilingual) nở rộ trong các trường tiểu học trong khi nền kinh tế Mỹ đang bắt đầu đi xuống, các hãng điện tử thay nhau đóng cửa. Thất nghiệp, ở nhà gần 1 năm, tôi nộp đơn xin làm Instructional Aide (phụ giáo) cho trường Tiểu học gần nhà để tiện việc trông các con hãy còn nhỏ. Một tuần lễ, sau khi qua hai lần interview với Sở Học Chánh tôi đã được nhận một công việc mới với nhiệm vụ… cũ mà tôi đã từng làm và rất yêu thích: dạy học.

Nằm trong kế hoạch chương trình tên là Project VOICES, công việc của tôi lúc này vừa là Instructional Aide (phụ giáo) cho các lớp trong 1 trường tiểu học vừa là Liaison (Liên lạc viên Cộng đồng) giữa các phụ huynh VN và nhà trường cho School District. Ngoài ra, sau giờ học tôi lại có 1 lớp riêng after school dạy kèm homewook và Tiếng Việt cho các em học sinh vừa mới từ VN sang chưa theo kịp chương trình. Thời gian này quả thật đầy thú vị và hạnh phúc! nhất là với lớp after school của tôi, các em đều là những em học sinh VN từ lớp 2 đến lớp 6, khiến tôi có cảm giác được sống lại không khí quen thuộc khi còn đứng trên bục giảng của những tháng ngày đã mất.

Sống và làm việc trong các trường học ở Mỹ mới thấy nghề giáo ở VN là cao quý và được tôn trọng hơn nhiều. Tình Thầy trò và quan niệm “tôn sư trọng đạo” của hai nền giáo dục Âu – Á quả thật có khác biệt. Ở đây, thầy cô phải biết “tôn trọng” học trò chứ không có quyền đòi hỏi được học trò tôn trọng và dù chỉ ở bậc Tiểu học các em cũng đã có những quyền tự do của các em mà Thầy Cô cần phải biết để không bị vi phạm. Với nhiệm vụ Liên Lạc Viên Cộng Đồng tôi cũng phụ tá một chương trình khác là “Parenting Class”, mỗi tuần 2 giờ vào buổi tối. Đây là lớp “Giáo dục Gia đình” dành cho các đối tượng là cha mẹ và con cái có mâu thuẫn nặng nề phải đưa đến pháp luật giải quyết, lớp học là giai đoạn cuối cùng để cha mẹ, con cái ngồi lại cùng nhau chia sẻ và hòa giải dưới sự hướng dẫn của bà counselor, giảng viên chính của lớp. Lớp học ngoài dân bản xứ, còn có một số sắc dân khác như Mễ, Tàu, Đại Hàn, Việt Nam… nên có thêm 3 người phụ tá là cô người Mễ, tôi và một ông thầy giáo người Việt để thông dịch những khi cần thiết. Người bạn đồng sự của tôi đã ở vào tuổi 60, từng làm giáo viên ở VN nhiều năm, sang Mỹ đi học lại Sư Phạm và có Credential để làm giáo viên dạy các lớpTiểu học, đã nhiều lần tâm sự: “Làm nghề giáo ở Mỹ… chua lắm cô ơi! Năm ngoái, tôi dạy lớp 5 ở trường bên học khu Hawthrone, học trò đa số là Mỹ đen nó không sợ thầy cô chút nào, nhất là thấy mình là dân Á Đông nữa, con trai thì chạy nhảy, đánh nhau trên bàn trong lớp học, coi như không có mặt mình ở đó, có lúc nó… tè ra trên bàn trước giờ học cho mình dọn rửa nữa chứ. Trách mắng hay gửi lên văn phòng cũng không ăn nhằm gì, còn con gái thì thầy giáo lại phải cẩn thận hơn, rầy la thì nó về mét mẹ nó vô trường complain, thầy giáo không bao giờ nên ở trong lớp 1 mình với đứa học trò gái nghen, giờ chơi mà nó muốn ở lại hỏi bài thì phải mở cửa ra đàng hoàng nếu không, con bé có thể la làng là bị thầy “harassment” (sách nhiễu tình dục) là tiêu đời luôn. Có mấy người đồng nghiệp đã warning tôi trước rồi. Bởi vậy, dạy lớp được ba, bốn tháng, tôi đã phải “quit” xin chuyển qua làm bên chương trình này cho đỡ đau đầu đó cô ơi!”

Nghe kể tôi cũng dè dặt hơn, nhưng may thay, các lớp tôi làm phụ giáo học sinh đều khá ngoan và nhất là các em học sinh VN lớp sau giờ học của tôi vẫn còn giữ nề nếp, truyền thống giáo dục đã có từ quê nhà nên suốt hai năm đồng hành với các em dù chỉ với 1 giờ học ngắn ngủi mỗi ngày, tôi đã có đầy đủ những tình cảm thầy trò thân thiết, gắn bó dù ở trong một môi trường hoàn toàn mới.

Có người cho rằng “Đời sống là sự tập hợp của những tình cờ”, điều này lại rơi đúng trong trường hợp tôi, trong cuộc gặp gỡ rất tình cờ với anh hôm qua khi tôi nhận lời Nicole, cô bạn trẻ làm việc chung trường và cũng là người điều hợp chương trình Bilingual (English-Vietnamese) cùng đi dự buổi họp mặt các Thầy Cô giáo dạy song ngữ toàn miền dưới vùng Orange County.

Anh ngồi trong đám đông như thế mà vẫn nhận ra tôi khi nghe Nicole giới thiệu tên tôi với những người cùng bàn. Bằng giọng reo vui anh đã hỏi: “Có phải là ND ngày xưa dạy học ở LT không?”. Thảng thốt, nhìn khá lâu vào mắt anh, tôi chợt thấy lại những ngày thật xa, cũ… những ngày cùng anh và đám học trò tập múa, hát cho các tiết mục văn nghệ của trường trong các dịp lễ … Rồi dòng thời gian từ đó cứ như nước lũ ngược dòng trôi về tìm lại những thác nguồn xưa…

Tưởng Dung

(Cuối tháng 5, 2012)

XUÂN SỚM

Những ngày cuối năm, trời trở lạnh với những cơn gió buốt cắt da đột ngột kéo về làm ngại bước chân những người vốn đã không chịu được cảnh “sương lạnh chiều đông” như Diễm mỗi khi muốn ra khỏi nhà. Một trận mưa tiếp theo kéo dài suốt ngày thứ hai tuần trước khiến cả miền Nam Ca sụt sùi, ngả nghiêng theo trời đất. Căn nhà láng giềng đối diện với gia đình Diễm, cây khuynh diệp trên sidewalk trước cổng gãy lìa hẳn một nhánh to, đỗ ập xuống ngay trước mũi chiếc xe Toyota đang đậu trên lề đường, lá phủ đầy trên thân xe nhưng rất may là không làm trầy sướt, hư hại mảy mai nào đến cái dáng vẻ vẫn còn tươi mới của nó. Nhà Diễm nằm ngay góc đường nên từ cửa sổ phòng khách hoặc nhà bếp Diễm có thể trông thấy con đường trước và bên hông nhà, nước vẫn còn lững lờ chảy những dòng đục lừ, ngoằn ngoèo men theo các bờ rãnh và trên mặt thì ngổn ngang những cành cây, xác lá… mãi cho đến cuối tuần mới quang đãng lại.

Thời tiết thế này thì chỉ muốn rút trong nhà cho yên ấm, chứ không còn thiết tha đi ra ngoài làm chi cho cực nhọc. Đêm qua thức khuya, làm cho xong những công việc mà mọi người thường gọi là “vác ngà voi” theo thông lệ mỗi cuối tuần cho trường cũ, quê xưa và cộng đoàn nhà bây giờ, Diễm mệt nhoài và tự thưởng cho mình một giấc ngủ muộn thật dài đến hơn 10 giờ sáng mới choàng dậy. Hôm nay là chủ nhật, không phải đi làm, một ngày của Diễm mà! Việc nhà thì cứ thủng thẳng làm, như Phúc, chồng Diễm vẫn thường trêu chọc mỗi khi thấy Diễm lăng xăng tay dọn dẹp, miệng than van:

- “Sao mà làm hoài không hết vầy nè, anh kêu tụi nhỏ xuống phụ dùm em một tay coi”

- “Việc gì cũng cứ từ từ em ạ! Có ai đến “thanh tra” nhà cửa mình đâu mà em cứ phải hì hục, lo lắng dữ vậy. Hôm nay không xong thi mai làm tiếp có chết ai đâu! Để đó tí anh làm cho. Cho tụi nó ngủ thêm một chút đi, cuối tuần mà”.

Nói thì nói thế chứ loay hoay một lát sau, Phúc đã… biến mất vì một trong các lý do: bận làm giấy tờ cho công việc trong hãng cuối tháng hoặc làm thông báo, lo chuẩn bị chương trình lễ trong nhà thờ sắp tới, hoặc phải qua chở Ba em sang nhà cùng coi đá banh trận giao hữu, tranh giải quốc tế lúc 12 giờ trưa nay, gay go lắm không thể bỏ qua em à. Trừ những khi nhà sắp có khách đến thăm (có “thanh tra” thật sự) thì không cần nhắc nhở, anh cũng tự động giúp vợ cả…hai tay lẫn hai chân như lau chùi, clean up các thứ sạch sẽ trong chớp nhoáng hoặc chở đi mua sắm vật dụng, thức ăn, ngay cả nấu nướng để đãi khách.

Nhưng sáng nay, vừa ra khỏi giường, nhìn thấy những tia nắng rực rỡ len qua khung cửa kiếng phòng ngủ nơi dẫn ra sân sau nhà và nghe mùi hương của đất hòa với mùi thơm của hoa cỏ đang vươn mình trỗi dậy sau những ngày mưa khi mở tung cánh cửa sổ cho làn gió sớm ùa vào phòng, Diễm mới cảm nhận được dường như thời tiết đang bắt đầu chuyển mình nhẹ nhàng để bước sang Xuân? Chợt nhớ đến email của cô con gái mới gửi hai hôm trước, Diễm bước vội ra nhà bếp thì thấy Phúc đã ngồi trên quầy bàn ăn cơm tự lúc nào, mắt dán vào mặt laptop với ly cà phê bên cạnh. Diễm khẽ nhắc chồng: “Anh mở email xem thư của con gửi cho mình chưa?”.

- “À, xem rồi- Phúc vừa cười vừa nói tiếp- con nhỏ thiệt tình… chắc hai chị em đi học xa nhớ cơm nhà của Bố mẹ lắm nên mới viết thư dặn kỹ như vậy. Em coi đi chợ mua sẵn thức ăn để tụi nó về làm cho nó ăn đi nha.”

Bây giờ đã vào tuần đầu của tháng 12, còn ba tuần nữa là Christmas và sau đó là New Year hai đứa con gái lớn đi học ở Chicago sẽ về thăm nhà trong dịp lễ này. Nghĩ đến bầu không khí rộn ràng, huyên náo của gia đinh khi hai cô “tiểu thư” về, cả hai vợ chồng không dấu được nét hân hoan, náo nức, giờ đọc thêm lá thư của chúng như được uống thêm ly rượu ngọt lòng vừa ấm áp vừa bừng bừng niềm vui khôn tả!

Lá thư của cô con gái nhỏ viết vừa tiếng Anh vừa tiếng Việt không bỏ dấu với nội dung như sau:

Hi mẹ,

Here is a list of food that we would like to eat when we come home :) :) :) :) Please open attachment. Thank you Bo Me!

-Thu and Thy

P.S. We can’t wait to come back home!!!

Things mom should make: hihihi

Phở

Hủ tiếu xào (bánh phở)

Bánh Canh

Bánh Xèo

Cà ri

Canh Chua thịt bò & Gà kho gừng

Gà chiên nước mắm

Mì Hoành thánh

Súp đuôi bò

Things dad should make: hihihi

Sườn chua ngọt

Taco Correct

Mực xào

Hai cô con gái dù được sinh ở Mỹ, nhưng qua những sinh hoạt gia đình với ông bà, bố mẹ và họ hàng, do hai vợ chồng cố gắng dạy dỗ, nhắc nhở nên các con của Diễm vẫn giữ được một số cách suy nghĩ, nề nếp hành xử theo truyền thống văn hóa VN, chúng nói tiếng Việt từ bé, mê ăn canh chua, cá kho tộ, cơm, phở, bún bò, bún riêu, gỏi cuốn… không thiếu món nào. Đối với Diễm điều may mắn này có được một phần cũng do các con mình được sinh trưởng và lớn lên ở Cali nơi mà các sinh hoạt cộng đồng Việt Nam có thể nói là lớn mạnh nhất nước Mỹ, nên chúng có điều kiện để tham gia, có môi trường để học hỏi và duy trì văn hóa, truyền thống dân tộc VN. Khi bắt đầu vào học kidnergarden là chúng cũng bắt đầu tham gia sinh hoạt và học thêm tiếng Việt mỗi cuối tuần với đoàn Thiếu Nhi ở nhà thờ nên khá thông thạo tiếng Việt và ưa chuộng nhiều món ăn đặc biệt của VN không khác gì những đứa bạn của chúng đã sinh ở VN mới sang định cư vài ba năm. Hai cậu con trai thì hiểu biết ít hơn trong cách đọc viết tiếng mẹ đẻ, nhưng món ăn VN thì cũng sành sỏi không thua kém gì hai cô chị.

Điều không ngờ là đã gần hai năm xa nhà, ở nơi muốn tìm thức ăn VN phải đi xa cả giờ đồng hồ, hai cô con gái vẫn còn nhớ đến những món ăn quen thuộc ở gia đình như ông bà ta khi xa quê “nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương” thiết tha như vậy. Điều này khiến Diễm vui và cảm động không ít. Vì Diễm được biết con cái của một số bạn bè chị lại ưa thức ăn Mỹ, Mễ hơn là chịu ăn các món VN ở nhà nấu.

Thế là suốt ngày chủ nhật, Diễm và Phúc lúi húi dọn dẹp nhà cửa để chuẩn bị đón hai cô con gái… rượu, phần nữa cũng để đón các em từ Utah sang nhân dịp lễ Christmas và New Year sắp đến. Hai cậu con trai đang còn ở với bố mẹ, một đi làm partime cho mùa Giáng Sinh đã rời nhà từ sáng sớm, còn cậu út thì xin phép bố mẹ đến nhà bạn để làm project cho lớp đến tối mới về. Rốt cuộc, căn nhà vốn đông đúc với nhân số 6… mạng ngày nào, bây giờ chỉ còn hai “vợ chồng già” lui cui ra vào dọn dẹp với nhau, chẳng bù mấy năm trước cuối tuần, nhà lúc nào cũng rộn rã, ồn ào tiếng nói cười, la hét đùa giỡn của bốn chị em.

Vậy mà hai cô con gái vắng nhà, đi học xa đã gần 2 năm.

Năm đầu, lúc đứa lớn mới đi, một mình, vợ chồng Diễm đã buồn và lo lắng không ít, vì thành phố Chicago cách Cali đến 4 giờ bay và nếu lái xe thì cũng mất hơn 2 ngày, lại không có người thân, họ hàng ở gần chỉ sợ “thân gái dặm trường” nhỡ có chuyện emergency cô con gái vốn luôn gắn bó, gần gũi với gia đình từ bé, sẽ không biết nương cậy vào đâu, dù trước đó Minh Thư đã đi học 4 năm đầu đại học ở Irvine, cách nhà độ 1 giờ lái xe, nhưng vẫn về nhà hàng tuần để xum họp gia đình. Bây giờ, bắt đầu vào chuyên khoa cô bé không có quyền chọn trường mà phải được … trường chọn mới có thể tiếp tục theo đuổi ngành học nên Minh Thư khi được nhận vào trường Rush Medical College ở Chicago đã nhảy cẩng lên, “hùng dũng” nói với bố mẹ bằng giọng vui mừng: “Bố Mẹ đừng lo, miễn ở trong nước Mỹ là được rồi, chỉ sợ phải ra mấy cái đảo như Dominican Republic, Granada, và Puerto Rico…. để học thì mai mốt khó trở về thăm Bố Mẹ lắm”. Hai vợ chồng gật gù, tươi cười, khuyến khích con, lòng vừa vui lại vừa … nặng trĩu.

Năm thứ hai, cô em kế, Minh Thy lại xin được việc làm trong phòng lab ở trường chị và xin chuyển sang để tiếp tục học và tiện việc apply vào cùng trường. Lúc này thì Diễm thấy lòng nhẹ nhàng, yên tâm hơn một chút vì dù sao 2 chị em ở chung nhà, học chung trường có thể giúp đỡ, chăm chút nhau trong lúc không bố mẹ cận kề, săn sóc. Bạn bè, người thân khi nghe Diễm thở than lo lắng cho hai cô con gái đang đi học xa nhà đều khuyên: “Tụi nó lớn rồi bà ơi! Hai mươi mấy tuổi đầu rồi có còn măng sữa đâu mà sợ, bên Mỹ này bọn trẻ có tính tự lập rất sớm, để cho chúng trưởng thành đi chứ, cứ muốn giữ chúng ru rú bên mình, cứ đòi cho chúng “ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn” đây.”

Hai chị em, một tuổi Tý, một tuổi Mẹo. Lúc bé, không biết nghe từ đâu, Minh Thư đã “than thở” với cả nhà rằng: “Con mèo hay… ăn thịt con chuột, mai mốt lớn em Thy sẽ ăn hiếp con cho coi”. Cũng tưởng hai chị em sẽ khắc khẩu hoặc không thuận thảo nhau khi khôn lớn như lời “tiên đoán” của Minh Thư, nhưng không ngờ 2 chị em lại rất “tâm đầu ý hợp”, cô em luôn ngoan ngoãn nghe lời và làm gì cũng hỏi ý chị, còn cô chị thì luôn cố gắng trong cả 2 nhiệm vụ vừa là “đầu tàu gương mẫu” vừa là “người bạn đồng hành” với các em kể cả 2 cậu em trai một cách tốt đẹp.

Lá thư của hai cô con gái cũng nhắc đến câu chuyện mà Minh Thư thường nói cho Diễm nghe mỗi khi chị bắt hai cô con gái xuống bếp tập nấu các món ăn VN để chuẩn bị đi học xa. Minh Thư thường nói: “Mẹ ơi, mẹ dạy cho em Thy đi, em Thy thích nấu ăn lắm, còn con thì chỉ thích dọn dẹp nhà cửa mà thôi. Tụi con có plan trước rồi, mai mốt tụi con lấy chồng sẽ dọn nhà ở gần nhau, em Thy sẽ nấu cơm cho con mỗi ngày qua ăn, bù lại con sẽ lo dọn dẹp, trang trí nhà cửa cho em Thy. Mẹ thấy có hợp lý không?”. Diễm vừa ngạc nhiên vừa tức cười, ý tưởng thật ngộ nghĩnh, dễ thương và cho thấy tình cảm thương yêu, gắn bó của hai chị em. “Thật không? Mẹ thầy có lý lắm đó, nhưng làm được hay không mới là chuyện đáng nói”. “Chắc chắn đó mẹ à!”

Cho đến giờ thì cô em đã học được vài món của bố mẹ dạy như: thịt kho trứng, phở, thịt bò lúc lắc, soup đuôi bò hoặc sườn heo… và thỉnh thoảng vẫn gọi về thắc mắc: “Con ráng nấu theo như mẹ chỉ, chị Thư nói là ngon lắm nhưng sao con thấy cũng không ngon bằng bố mẹ nấu, mẹ ơi!”. Chắc vì vậy mà hai chị em cứ nôn nao về nhà ăn để được ăn các món quen thuộc và soạn ra một cái list với bao nhiêu món ăn chỉ cho 1 tuần lễ như trên.

Tết năm nay, cũng như năm ngoái Minh Thư và Minh Thy không thể nghĩ để về ăn Tết với gia đình vì còn đang trong khóa học và mới vừa nghĩ lễ xong. Vả lại, Tết năm nay lại đến sớm hơn mọi năm, chỉ khoảng không đầy 1 tháng sau lễ Christmas và New Year, điều này khiến vợ chồng Diễm rất buồn vì mỗi năm vào đúng 12 giờ đêm lễ giao thừa, cả nhà luôn quây quần đọc kinh chung để cầu nguyện cho gia đình được mọi sự bình an, tốt đẹp trong năm mới. Đây là năm thứ hai sẽ vắng mặt cả hai cô con gái. Diễm tự hứa là sẽ nấu hết các món trong list của con gửi và xem như là cho các con ăn Tết sớm vậy.

Diễm mang ly cà phê thứ hai trong ngày ra đưa cho Phúc đang còn bận lúi húi với những bụi hồng quanh vòng rào trong sân nhà và nói với chồng: “Anh biết không, hôm về nghĩ hè vừa qua, Minh Thư và Minh Thy sau khi ăn món cánh gà chiên nước mắm và món hủ tiếu mì khô của em nấu trong ngày đầu tiên về nhà đã tuyên bố rằng: “Mẹ ơi, ngon quá à, tụi con chắc phải quyết định lại là mai mốt học xong rồi hai đứa sẽ mua nhà cho Bố mẹ ở gần để mỗi ngày chạy qua ăn cơm mẹ nấu là chắc ăn nhất.” Nghe cảm động quá hả anh?”

Phúc ngừng tay, ngẩng lên thấy Diễm đang đứng bên cạnh mĩm cười, đôi mắt chị sáng ngời những tia ấp áp, anh cũng như vui lây với niềm vui của vợ và cảm thấy mùa Xuân như đang về sớm hơn với màu nắng chiều nhàn nhạt lấp lánh trên những cánh hoa hồng cuối Đông trong sân nhà.

Tưởng Dung

(Tháng 12, 2011)

THOÁNG HƯƠNG NGÀY CŨ

T. thân yêu,

“Thời gian từ bao giờ vẫn là tiếng hỏi han vô tình”. Câu nói của ai đó bỗng chợt về khiến em chùng lòng, quay quắt. Hôm qua, dọn dẹp lại các thùng sách vở, giấy tờ dưới garage, tình cờ lá thư của T. gửi cho em trong những ngày còn ở trại tị nạn nằm trong quyển sách cũ bỗng rơi ra. Cả một quá khứ thời học trò kéo nhau về, bềnh bồng trong trí tưởng. Thoắt đó mà đã mấy mươi năm. Biết bao điều thay đổi. Những buổi sáng thức dậy ở đây, cho đến bây giờ đôi lúc em vẫn còn lạ lẫm với những điều mình đang sống, đang có. Hạnh phúc hay khổ đau? Nụ cười hay nước mắt? Dường như em đã nhận đầy đủ cả từ ngày xa nhà, cất bước ly hương. Một cuộc chia lìa không ai định trước. Và từ đó chúng ta đã nghìn trùng xa cách.

Nhớ những ngày giữa tháng Ba năm nào, lênh đênh trên biển chỉ thấy trùng dương gió lộng, mây nước mịt mùng. Trước ngày đi, không gặp được T. để từ giã. Đến nhà T. trọ lần cuối, cửa đóng im lìm, biết rằng chúng ta sẽ chẳng còn cơ hội để gặp nhau trong cõi đời này nhưng em đã không khóc, dù lòng buồn tơi tả… Nhét vội lá thư vào khe cửa, em thì thầm: “T. ơi! Xin giã biệt!” rồi vội vã bước đi sau một hồi lâu đứng chờ mong phép lạ, cánh cửa kia bật mở, gương mặt với nụ cười và chiếc răng khểnh của T. xuất hiện. Nước mắt sẽ rơi và em sẽ không đi nữa… Nhưng tất cả chỉ là mơ!

Những ngày trên biển, có hôm ngồi trên khoang tàu nhìn mặt biển phẳng lặng như mặt nước hồ thu, em ngạc nhiên không nghĩ là mình đang ở trong một cuộc hành trình đầy hiểm nguy, gian khổ như đã từng nghe kể mà là đang dạo thuyền trên sóng nước cô đơn, lẻ loi giữa đất trời xa lạ. Chợt nhớ tiếng đàn, giọng hát của T. trong buổi họp mặt cuối cùng của nhóm bạn bè xưa… thiết tha, ray rức. Ước gì có T. bên cạnh với cây đàn, em sẽ hát cho quên đời, quên nỗi xót xa.

Lá thư của T. đến khi chỉ còn 2 tháng nữa là em sẽ rời trại để đi định cư. Lá thư mang quá khứ ùa về, đưa em đi rất xa để tìm lại những ngày thương yêu cũ.

D. thương yêu,

Cho tới lúc này, những nốt nhạc mở đầu cho Sonate 14 (Ánh Trăng) vẫn còn chập chùng, chới với trong anh. Những âm điệu mỗi lúc chùng xuống, thêm… thêm nữa… rồi trở về đoạn đầu… dìu dặt.

Những người xưa, khi rời xa người yêu họ như thế nào D. nhỉ? Beethoven đã không từng đi lang thang suốt mấy ngày ở trong rừng đó sao? Nghe Julietta trở lại và ông đã biến nỗi đau xót đó trở thành bài Sonate tuyệt diệu, để Frank Lizt ví von: “Một bông hoa nở giữa hai vực thẳm không đáy.”

D. ơi,

Anh có thể ngồi hàng giờ đọc, nghiền ngẫm sự chia xa. D. vừa đi, D. đi rồi, em đã đi… Em… Em… chứ không thể trải hoặc biến hết những gì có trong anh kể từ lúc biết D. đã đi. Hỏi anh như thế nào từ lúc em đi? Nắng như thiêu… nóng khủng khiếp. Ừ, thì anh trả lời D. đây: Vui, vui lắm. Niềm vui này Đinh Hùng đã thét:

“Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khóe mắt…” Tóc anh ngắn không đủ dài để rũ và mắt của ta cũng đâu đủ buồn để ngậm ngùi in được những thanh âm.

Ừ, thì vui lắm, ta đã nhìn thấy họ vui ở đâu đó. Như trong “Love Story” khi nói “Cười đi, cười đi…Keep smile!”. Và sau đó thì “Tôi òa khóc” (nguyên văn). Kể từ lúc D. đi, mỗi ngày đi lại trên những con đường cũ, mỗi bước, mỗi bước… là một an ủi, vỗ về: “D. đi, đi rồi, thôi thì ngày mai, ước mong trời lại sáng tươi. Hãy chịu đựng, gìn giữ nỗi đau này như một món quà của Thượng đế ban tặng để cho ngày mai chúng ta sống tốt đẹp và xứng đáng hơn”.

Bây giờ, nơi D. ở, trời xanh lắm không? Chắc là có mưa. Mưa giữa thu… và khi mưa mau, em có đi trong mưa và nhớ đến những ngày tháng cũ ở nơi này?

Ở nơi chốn mới đó, có thi sĩ đã mô tả như là: “cái sa mạc máy móc, trơ lạnh và cô đơn”. Nhưng nhớ đến nhau, tin tưởng nhau sa mạc sẽ biến mất, phải không D.?

Vậy thì: “Hỡi chim! Chim của ta ơi. Đừng khép cánh ngừng bay chim nhé”.

Đừng để cho tình yêu tan biến vì người ta bảo rằng: “Sa mạc cấu thành nơi nào tình yêu tan biến”. Giờ thì chỉ mới là chia xa, và khởi đầu…

D. thương nhớ,

Hãy gắng vui lên D. nhé! Hãy biến mất mát này thành may mắn cho nhau. Anh vẫn còn đây và luôn cầu nguyện cho D. cho hai chúng ta sẽ có ngày gặp lại.”

Đọc xong lá thư, em ngỡ như vừa uống cạn ly rượu mạnh, men đắng cay lúc mới chạm môi bỗng tỏa thành hương ấm áp lan tràn trong cơ thể. Lá thư đầu tiên thay cho lời bày tỏ lại đến với em trong khoảng không gian giữa chúng ta đã được đo bằng khoảng cách là hai bờ đại dương xa thẳm, làm sao để em không chua xót, ngỡ ngàng. Nhưng từ thâm sâu tận đáy tim niềm hân hoan cũng bắt đầu vỡ òa như thác đổ để rồi từ đó T. dù rất xa xôi nhưng lại là bạn đồng hành luôn bên cạnh, là sức mạnh, niềm tin nâng đỡ, vực em đứng lên để bước tới trong mọi cảnh đời.

Những ngày đầu tiên theo đám bạn đến nhà xin T. dạy thêm Toán Lý Hóa cho kỳ thi Tú tài II, em đã thấy được sự ân cần, chăm sóc của T., một người bạn, người anh đầy tình thân ái. Cũng xuất thân và ra trường vài năm trước đó từ NQ, nên T. xem các cô học trò nhỏ như những cô em gái và ngược lại cả bọn cũng xem T. như một người anh hơn là người Thầy. Không có chuyện gì khác hơn nếu không có một ngày, đám bạn trong nhóm khám phá ra trên quyển lưu bút chuyền tay cuối niên học của em với những lời nhắn nhủ rất dịu dàng của của T. và hai chữ “Thương em,” ở dòng cuối cùng trước chữ ký của người viết. L. đã rú lên như bắt được… quả tang:

- Trời ơi, tình ghê chưa?

Cả nhóm xôn xao:

- Đâu đâu, chuyện gì vậy?

Thế là, cả bọn chúi đầu vào quyển Lưu Bút theo ngón tay chỉ của L. Nhỏ M. láu lỉnh:

- Đúng rồi, vậy là hai người “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, đó nha.

Em đỏ mặt vội chống chế:

- Thì đứa nào anh T. cũng coi như nhau mà.

L. lườm em với ánh mắt sắc như dao:

- Như nhau sao được, anh T. đâu có viết chữ “Thương em” trong lưu bút của tụi tao như của mày đâu. Thôi đừng có chối mày ơi!

Em vừa mắc cở vừa tức vì không cãi lại mấy cái miệng của đám bạn đang đồng tình tấn công tới tấp, chỉ biết dọa sẽ mách lại với T để mong chúng im miệng.

Dọa thì mạnh vậy mà đến lúc gặp T. em đã phải cắn môi mấy lần mới nói được thành câu:

- Sao T. viết chữ “thương em” trong Lưu Bút làm chi cho tụi nó chọc D. quá chừng đi.

Lần đầu tiên em thấy T. nhìn em với đôi mắt rất lạ, giọng T. trầm ấm:

- Thì có sao đâu, ai nói gì kệ họ, cứ nói đến hỏi anh đây này.

Lúc đó, lòng em bỗng nhiên nhẹ nhỏm dù câu trả lời cũng chưa giải thích được gì. Nhưng em vẫn không dám hỏi thêm gì hơn. Hôm sau gặp tụi bạn. Em bảo ngay:

- Anh T. nói đứa nào có thắc mắc thì cứ gặp anh ấy mà hỏi đi nhé.

Cả bọn nhìn nhau, L. thì bĩu môi:

- Dại gì, cho người ta nói mình… tò mò, tọc mạch sao.

Thế là câu chuyện được chấm dứt ở đó, xem ra bọn này vẫn còn sợ oai “ông Thầy” lắm đấy chứ!

Ngày cuối của nhóm học luyện thi, mới biết T. đàn và hát thật hay. Không hiểu sao T. lại hát “Bài không tên số 2” của Vũ Thành An. Tiếng hát T. nồng nàn, ấm áp hòa quyện với tiếng đàn trầm buồn, ray rức làm cả đám con gái vốn liếng thoắng, nói cười giờ như lịm người, tan biến.

“Lòng người như lá úa, trong cơn mê chiều

Nhiều cơn gió cuốn, xoay xoay trong hồn

Và cơn mê này, vẫn còn đây …

Chiều về không buông nắng, cho mây âm thầm

Một mình trong chiều vắng, nhớ đôi môi mềm

Ngày nào ân cần, trao thân

Tìm trong tháng ngày buồn

Ðôi mắt nào khô, đường tim chơ vơ

Ðếm cho nhau lời nói, trên đời nào yêu người

Kỷ niệm xưa đã chết, cơn mê đã chiều

Tình yêu đã hết, xót xa đã nhiều

Ðời thôi sẽ còn mai sau…”

Riêng em, lòng như nốt nhạc vừa được khảy lên với những âm thanh mới, rung động, ngân nga… kể từ sau tiếng đàn và lời hát như ru của T. hôm ấy.

Bẵng đi một tháng, sau những ngày vật vã với học hành, thi cử, không ngờ T. lại là người đầu tiên đến chúc mừng em thi đỗ Tú tài II. Buổi chiều hôm đó, T. đến thăm, bất ngờ như một cơn bão lạ, khiến em ngạc nhiên đến sững sờ. Vì chưa bao giờ T. hỏi hoặc đến nhà em trong suốt thời gian dạy thêm. Vậy mà giờ đây, T. sừng sững trước mặt như đã quen thuộc, đã đến rất nhiều lần.

Không ngờ T. cũng rất “sính” thơ, đưa cho em bài thơ Vườn Xưa của Tế Hanh đã chép sẵn trên trang vở học trò trước khi từ giã với lời nhắn nhủ: “Tình cờ đọc được bài thơ này, thấy hay chép ra tặng cho D. đấy”. Bài thơ với những câu nhẹ nhàng mà ray rức.

Vườn Xưa

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh

Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc

Hai ta ở hai đầu công tác

Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa ?

Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa

Như mặt trăng mặt trời cách trở

Như sao hôm sao mai không cùng ở

Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa ?

Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu

Như tháng mười hồng tháng năm nhãn

Em theo chim đi về tháng tám

Anh theo chim cùng với tháng ba qua

Một ngày xuân em trở lại nhà

Nghe mẹ nói anh có về hái ổi

Em nhìn lên vòm cây gió thổi

Lá như môi thầm thì gọi anh về

Lần sau anh trở lại một ngày hè

Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt

Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt

Nước như gương soi lẻ bóng hình anh

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh

Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc

Hai ta ở hai đầu công tác

Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?

Bất ngờ và xúc động, em đứng lặng người, không hiểu T. muốn bày tỏ điều gì khi gửi cho em bài thơ ấy? nhất là hình ảnh “hai ta” đã làm lòng em… ngây ngất. Lại thêm sự so sánh “ngày nắng / ngày mưa”; “mặt trăng/mặt trời”“sao hôm/sao mai” nữa thì sao? Câu hỏi vẫn làm em thắc mắc mãi đến bây giờ vì dù đã quen nhau một thời gian dài nhưng mỗi lần hỏi T. chỉ trả lời bằng ánh mắt nhìn em lặng lẽ, không nói thêm lời nào và cứ hẹn lại những lần sau.

T. thân yêu,

Thế rồi chúng ta đã không bao giờ có lần sau nữa vì em và T. đã thực sự trở thành “sao hôm và sao mai” sau lần em đến tìm T. để giã từ mà không gặp.

Lá thư duy nhất, đầu tiên và cũng là cuối cùng T. đã viết cho em là một “bản tình ca” tuyệt vời nhất mà em không thể có được bản thứ hai trong suốt quãng đời đã qua và còn lại. Vì sau nhiều lần tìm cách liên lạc với T. lúc đã ổn định cuộc sống ở quê người, em mới biết đó là điều vô vọng. Tin T. mất tích sau vài lần vượt thoát không thành công từ những người bạn ở quê nhà đã khiến em bàng hoàng, chết lặng.

Để hôm nay ngồi đọc lại những giòng thư T. đã viết ngày xưa, cho em thầm mơ có một ngày thấy T. ôm đàn hát giữa bạn bè những Bài Không Tên… nồng nàn, thiết tha như những ngày vui năm cũ.

Tưởng Dung

Cuối Tháng 5, 2011